Thứ Năm, 19 tháng 4, 2012

Lịch khám thai định kỳ

Lịch khám thai định kỳ


Thai nghén là một hiện tượng sinh lý bình thường của người phụ nữ. Có thai, sinh con là nhiệm vụ hết sức thiêng liêng và cũng là một quyền lợi của người phụ nữ.

lịch khám thai định kì
Lịch khám thai định kỳ
Là một phụ nữ, một người mẹ kể cả người cha, ai cũng mong muốn cho ra đời một cháu bé khỏe mạnh, thông minh, có ích cho xã hội sau này. Vì vậy, khám thai, chăm sóc sức khỏe bà mẹ khi có thai là một vấn đề quan trọng, cần thiết mà các bà mẹ cần phải quan tâm.  
Lịch khám thai định kỳ:
Theo quy định của Bộ Y Tế, một thai kỳ, người mẹ phải được khám thai ít nhất 03 lần vào 3 tháng đầu, 3 tháng giữa và 3 tháng cuối. Tuy nhiên nếu khám đầy đủ thì phải là 07 lần đối với một thai kỳ bình thường, còn những thai kỳ nguy cơ cao như tim sản, cao huyết áp… thì số lần khám thai sẽ nhiều hơn với nhịp độ khít hơn phụ thuộc vào các lý do y học.
Lịch khám thai định kỳ đối với một thai kỳ bình thường:   
- 3 tháng đầu khám thai 1 lần.   
- 3 tháng giữa khám thai 1 lần.   
- Tháng thứ 7,8 mỗi tháng khám 1 lần.   
- Tháng thứ 9: 2 tuần khám 1 lần.   
- 1 tuần cuối trước khi sanh khám 1 lần.


Tầm quan trọng và nội dung của khám thai 3 tháng đầu:

Tầm quan trọng:

Lần khám thai đầu tiên ở 3 tháng đầu rất quan trọng, vì:

- Bác sĩ sẽ chẩn đoán có thai hay không? Mấy thai?
- Bác sĩ sẽ chẩn đoán tuổi thai và tính ngày dự sanh: nhiều chị em không nhớ rõ kinh chót, không có kinh, kinh không đều…do khám thai 3 tháng đầu thì tuổi thai mới chẩn đoán được chính xác hơn, dự đoán ngày sanh sát hơn là những tháng giữa và tháng cuối thai kỳ. Từ đó mới có thể biết được khi sanh là thai đủ tháng hay non tháng, dự phòng được thai già tháng và nhất là sau này có thể phát hiện được thai suy dinh dưỡng trong tử cung.
- Bác sĩ sẽ phát hiện những bệnh lý của mẹ kèm thai như tim sản, tiểu đường, cao huyết  áp…từ đó sẽ tư vấn cho các bà mẹ nên tiếp tục hay chấm dứt thai kỳ sớm, cách điều trị, cách thức dưỡng thai và quyết định lịch khám thai tiếp theo.
- Bác sĩ sẽ phát hiện những bệnh lý phụ khoa kèm thai như khối u buồn trứng, u xơ tử cung, ung thư cổ tử cung kèm theo… từ đó sẽ tư vấn cho các bà mẹ cách điều trị thích hợp.    
Nội dung khám: các bà mẹ sẽ được:
- Khám toàn diện: tim phổi, cân trọng lượng, đo huyết áp, khám gan lách..

- Khám phụ khoa xem tình trạng viêm nhiễm âm đạo, cổ tử cung, các khối u tiểu khung.

- Thực hiện các xét nghiệm như nước tiểu, thử máu…

- Nếu cần thiết, bác sĩ sẽ cho siêu âm.   

Tầm quan trọng và nội dung của khám thai 3 tháng giữa:   
Tầm quan trọng
Khám thai 3 tháng giữa cũng rất quan trọng vì:
- Những dị tật, dị dạng thai nhi được chẩn đoán tương đối rõ ràng từ tuần lễ thứ 15 -19  thai kỳ. Thai càng lớn hơn, các dị tật dị dạng sẽ khó quan sát hơn. Từ đó, các bà mẹ sẽ được tư vấn để chấm dứt thai kỳ sớm, tránh ảnh hưởng đến tâm sinh lý về sau.

Những thời điểm khám thai quan trọng

Những thời điểm khám thai quan trọng

Càng ngày, các bà mẹ mang thai càng yên tâm hơn với sự theo dõi y tế chặt chẽ ngay từ giai đoạn đầu của thai kỳ. Sự tiến bộ về mặt y tế đi liền với việc phải trải qua nhiều xét nghiệm hơn. Có những xét nghiệm thường quá quen thuộc như xét nghiệm máuxét nghiệm nước tiểu, nhưng cũng có những bước xét nghiệm tầm soát dị tật thai nhi có thể gây lo lắng. Điều đó xuất phát một phần vì phải chờ đợi kết quả, và phần khác là do không được cung cấp thông tin rõ ràng.
 Y khoa Thịnh An, kho kiến thức về sản khoa, cung cấp cho các bà mẹ chuẩn bị mang thai những kiến thức về dinh 
Ngoài ra, các xét nghiệm tầm soát chỉ có ý nghĩa khi được thực hiện đúng thời điểm. Vì vậy trong suốt thai kỳ, có những thời điểm khám thai quan trọng không nên bỏ qua. Bài viết này sẽ giúp các bà mẹ tương lai hiểu rõ và chuẩn bị tốt hơn cho các xét nghiệm thai kỳ theo từng giai đoạn.

Lần khám thai đầu tiên: khi trễ kinh một tuần, hoặc khi thử que hai vạch hãy đến bệnh viện ngay. Có nhiều người biết có thai nhưng cố đợi đến hai ba tháng mới đi khám. Điều đó hoàn toàn không nên. Rất cần phải khám thai sớm để loại trừ trường hợp thai nằm ngoài tử cung, rất nguy hiểm nếu không phát hiện kịp thời. Bạn sẽ được siêu âm để xác định thai có nằm trong lòng tử cung hay chưa, đã có tim thai chưa? Nếu chưa thấy tim thai lúc mới 5 – 6 tuần tuổi, bạn cũng đừng lo lắng. Đó là vì thai còn quá nhỏ. Bạn sẽ được hẹn lại lần sau, khi thai được 7 – 8 tuần tuổi để xác định tim thai.

Đo độ mờ da gáy: ở thời điểm 11 – 13 tuần, siêu âm giúp tính tuổi thai cực kỳ chính xác. Ngoài ra, đây cũng là thời điểm duy nhất có thể đo độ mờ da gáy nhằm dự đoán một số bất thường nhiễm sắc thể nguy hiểm (gây bệnh Down, dị dạng tim, chi, thoát vị cơ hoành...) Qua 14 tuần, chỉ số này sẽ không còn chính xác nữa. Đa số trường hợp có độ mờ da gáy < 3mm được xếp vào nhóm nguy cơ thấp (ít có nguy cơ bị hội chứng Down). Nếu độ mờ da gáy >3mm, vào tuần thứ 18, thai phụ cần được chọc ối để chẩn đoán bệnh Down và siêu âm hình thái xem có dị dạng hay không. Theo thống kê với độ mờ da gáy dày 3,5 – 4,4mm có tỷ lệ bất thường nhiễm sắc thể là 21,1%; độ mờ da gáy ≥ 6,5mm thì thai nhi có bất thường nhiễm sắc thể lên tới 64,5%.

Xét nghiệm sàng lọc Triple test: giúp dự đoán nguy cơ bị Down và dị dạng nhiễm sắc thể của thai. Xét nghiệm này chỉ có giá trị khi được thực hiện vào tuần thai 14 – 17. Chi phí cho một lần làm Triple test là 250.000 đồng. Đây là một xét nghiệm khiến nhiều bà mẹ tương lai lo lắng đến mất ăn mất ngủ. Vì là xét nghiệm sàng lọc, nên sẽ có những người có nguy cơ thấp, nhưng vẫn sinh con mắc bệnh Down. Cũng như vậy, khi có kết quả cao, không có nghĩa là chắc chắn em bé bệnh Down. Triple test không có giá trị chẩn đoán chính xác mà chỉ dự đoán nguy cơ.

Nguy cơ đó được thể hiện dưới dạng “xác suất”, ví dụ 1/100. Cách ghi xác suất này có thể khiến nhiều người bối rối và lo lắng vì không hiểu rõ. Thậm chí có người mất ăn mất ngủ khi đọc thấy kết quả là 1/300. Con số đó có nghĩa là trong 300 người có kết quả xét nghiệm giống bạn thì 1 người có em bé bị Down. Và đừng quên rằng nếu con số 1:300 có nghĩa là bạn có 1/300 (hay 0,3%) nguy cơ sinh một đứa con dị tật, thì nó cũng có nghĩa là bạn có đến 299/300 (hoặc 99,7%) cơ hội sinh một đứa con bình thường.

Hiện nay, xác suất > 1/250 được xem là có nguy cơ cao, và thai phụ sẽ được tham vấn chọc ối. Xét nghiệm này sẽ cho biết chính xác em bé có bị Down hay không. Điều cần nhớ là việc chọc ối đồng nghĩa với việc bạn phải xem xét mình sẽ xử lý như thế nào nếu kết quả chẩn đoán cho biết bạn có một đứa con bị Down hoặc dị tật. Cuối cùng, quyết định là ở bạn. Có một số cha mẹ dù được tham vấn chọc ối nhưng đã quyết định không thực hiện, vì họ cho rằng dù kết quả có thế nào đi nữa họ cũng sẽ đón bé chào đời. Tuy nhiên, xét ở mặt khác, một số cha mẹ sau khi biết con mình sẽ bị Down vẫn quyết định sinh con. Việc biết trước điều đó sẽ giúp họ chuẩn bị tốt hơn cho hoàn cảnh đặc biệt sắp tới.

Siêu âm 4D: ở thời điểm 21 – 24 tuần, siêu âm có thể giúp phát hiện hầu hết các bất thường về hình thái của thai nhi như sứt môi, hở hàm ếch, dị dạng ở các cơ quan, nội tạng. Lần siêu âm này rất quan trọng vì nếu cần đình chỉ thai nghén thì phải làm trước tuần thứ 28. Ngoài ra nếu để muộn hơn mới siêu âm thì lúc đó thai nhi đã quá lớn sẽ khó phát hiện được các dị tật nếu có.

Chích ngừa uốn ván: ở lần khám thai lúc 30 – 32 tuần, bạn sẽ được làm xét nghiệm công thức máu, thử nước tiểu và chích ngừa uốn ván. Ngoài ra, siêu âm sẽ giúp phát hiện một số vấn đề hình thái xảy ra muộn như bất thường ở động mạch, tim và não, kiểm tra tình trạng phát triển của thai nhi.

Non-stress test: khoảng 35 – 36 tuần, bạn sẽ được siêu âm màu theo dõi doppler động mạch rốn, động mạch não, động mạch tử cung, kiểm tra nước ối, dây rốn... Bác sĩ cũng sẽ dự báo cân nặng bé lúc sinh. Một số nơi sẽ cho bạn làm Non-stress test nhằm kiểm tra sức khoẻ của bé và tìm hiểu xem bé có nhận đủ oxy hay không bằng một máy đo tim thai và chuyển động của thai trong vòng 30 phút. Một chiếc máy giống như dây thắt lưng quàng quanh bụng mẹ khi nằm sẽ ghi nhận sự thay đổi của tim thai tương ứng với chuyển động thai.

Từ giai đoạn này trở đi, bạn cần đến bệnh viện kiểm tra mỗi tuần hoặc bất cứ khi nào đau bụng, ra máu để theo dõi tim thai, cử động thai và xem tình trạng cổ tử cung đã mở hay chưa. Việc của bạn lúc này là giữ cho tinh thần thoải mái vui vẻ và nghỉ ngơi thật tốt, vì chẳng còn bao lâu nữa bạn sẽ đón bé chào đời...

Siêu âm thai như thế nào cho đúng?

Siêu âm thai như thế nào cho đúng?

Chín tháng đợi chờ, đứa con trong bụng liệu có khỏe mạnh hay không? Người mẹ muốn giải đáp mọi nghi ngờ sẽ phải đi kiểm tra thường xuyên bằng việc siêu âm thai. Mục đích chính của siêu âm thai là đánh giá tình trạng chung, phát hiện bệnh hoặc dị tật bẩm sinh của thai nhi để có hướng xử lý kịp thời. Việc siêu âm thai không hề làm ảnh hưởng đến thai nhi.
siêu âm thai
Thai phụ cần đi siêu âm thai để biết tình hình sức khỏe thai nhi

Một thai phụ cần tiến hành siêu âm thai tối thiểu 3 lần.

Lần 1: Khi thai được 6-12 tuần tuổi.

Đây là lần siêu âm cần thiết đối với các thai phụ. Lần siêu âm thai này sẽ cho bạn biết các thông tin:
- Xác định có thai hay không, thai ở trong hay ngoài tử cung.
- Tuổi thai và dự đoán ngày sinh.
- Số lượng thai nhi.
- Kiểm tra sự phát triển của thai.

Lần 2: Khi thai được 12-14 tuần tuổi.

Đây là thời điểm thuận lợi nhất để phát hiện các dị tật ở thai. Các bác sĩ sẽ siêu âm để đo độ mờ da gáy của thai nhi để từ đó xác định xem đứa trẻ khi ra đời có nguy cơ mắc hội chứng Down hay không. Việc đo độ mờ da gáy phối hợp với xét nghiệm PAPPA và Beta HCG máu mẹ sẽ giúp phát hiện 90% trẻ Down, đây là phương pháp giúp tầm soát hiệu quả hội chứng Down nhất hiện nay.
Ngoài ra, việc tiến hành siêu âm thai trong giai đoạn này còn giúp phát hiện được những bất thường về cấu tạo các bộ phận cơ thể quan trọng của thai như hộp sọ, não, xương, chân tay, ngực, phổi, tim, da bụng, gan, thận, ruột, bàng quang…của thai nhi để có hướng xử lý kịp thời.

Lần 3: Khi thai được khi thai được 16-20 tuần tuổi.

Đây là lần siêu âm mà hầu hết các bà mẹ đều thấy phấn khích, không chỉ vì đây là cột mốc quan trọng mà còn vì lúc này bé yêu không còn là một hình hài mơ hồ mà sẽ trông giống một đứa trẻ hơn!
Lần siêu âm thai này các bác sĩ sẽ tiến hành kiểm tra.
- Đầu của bé để xem có bất kỳ vấn đề gì về não hay có bị hở hàm ếch không.
- Xương sống và bụng của bé để biết chắc mọi thứ nằm đúng vị trí và đã phát triển.
- Kích thước và hình dạng của thai nhi.
-  Dạ dày, là bộ phận bạn nhìn thấy ở phía dưới tim. Bạn có thể nhìn thấy một ít nước ối mà bé đã nuốt, nó trông giống như một bong bóng màu đen nằm trong bụng bé.
-Thận và bàng quang của bé.
- Tay và chân của bé, mặc dù bác sĩ có thể sẽ không đếm số ngón tay và ngón chân.
- Nhau thai, cuống rốn và nước ối.
- Kích thước đầu, bụng và xương đùi để đảm bảo rằng chúng đang phát triển bình thường.

Lần siêu âm mở rộng: Khi thai được 30-32 tuần tuổi.

Thai phụ sẽ được tiến hành siêu âm màu, đánh giá tình trạng sức khoẻ thai nhi bằng việc đo các thông số Doppler động mạch rốn, động mạch não giữa. Đồng thời, siêu âm vào lúc này có thể phát hiện kịp thời tình trạng thai bị suy hay chậm phát triển. Từ đó các bác sĩ có thể:
- Chẩn đoán ngôi thai, sự tương xứng giữa cân nặng thai nhi và khung chậu người mẹ…từ đó có thể tiên lượng được cuộc sinh sắp tới dễ hay khó, có nguy cơ gì?
- Bác sĩ có thể phát hiện được những thai kỳ nguy cơ cao và từ đó cho nhập viện sớm trước ngày dự sinh.
- Cho nhập viện, mổ chủ động khi thai đủ trưởng thành (38 tuần) đối với những trường hợp phải sinh mổ như: nhau tiền đạo, ngôi mông con to, khung chậu hẹp, vết mổ lấy thai cũ…

Liên hệ để được bác sĩ tư vấn thêm.

Y khoa Việt Pháp
Địa chỉ: 112-phố Mai dịch - Quận Cầu Giấy - Hà Nội
Điện thoại: 0466741651
Di động: 0988410350 (Bs Cường)

Thứ Tư, 18 tháng 4, 2012

Phòng lây viêm gan B cho thai nhi

Phòng lây viêm gan B cho thai nhi
Bé Lê Khôi Nguyên- con chị H. - đã có kết quả xét nghiệm mẫu máu cuống rốn âm tính với HBV
ó chính là hi vọng từ thử nghiệm lần đầu được áp dụng tại Việt Nam.
Các bà mẹ mang thai có nồng độ virus viêm gan B (HBV) trong máu cao có thể phòng ngừa việc lây truyền bệnh sang con bằng phương pháp dùng thuốc giai đoạn cuối thai kỳ.
Đó chính là hi vọng từ thử nghiệm lần đầu được áp dụng tại Việt Nam, đang triển khai tại 4 cơ sở chuyên ngành phụ sản là Bệnh viện Phụ sản Hà Nội, Bệnh viện Phụ sản trung ương, khoa sản Bệnh viện Bạch Mai và Bệnh viện Việt - Pháp.

Dùng thuốc từ tuần thai 32

Chị L.T.H. (27 tuổi, Hà Nội) phát hiện mắc viêm gan B mạn tính trước khi có thai. Kết quả xét nghiệm cho thấy nồng độ virus trong máu của chị rất cao, lên đến hơn 10 triệu virus/ml máu. Khi đi khám thai tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương, chị H. được giới thiệu tham gia “Chương trình quốc gia phòng lây truyền virus viêm gan từ mẹ sang con”.
Theo đó, từ tuần thai thứ 32, chị H. được bác sĩ chỉ định dùng thuốc kháng virus cho đến khi sinh bé được 1 tháng. Xét nghiệm máu cuống rốn của bé trai con chị ngay sau khi sinh đã cho kết quả âm tính với HBV. Bé được tiếp tục theo dõi sức khỏe và hoàn tất các xét nghiệm liên quan cho đến khi tròn 12 tháng tuổi.
Theo ThS. Lê Thị Lan Anh (ĐH Y Hà Nội), chị H. là 1 trong 20 bà mẹ mang thai đang được hưởng lợi từ đề tài “hợp tác nghiên cứu phòng lây truyền viêm gan B từ mẹ sang con bằng thuốc kháng virus”. Việc kéo dài thời gian dùng thuốc cho đến sau khi bà mẹ sinh con 1 tháng, giúp việc điều trị dự phòng không chỉ có ý nghĩa với trẻ, mà còn giúp ngăn ngừa việc phát sinh những biến chứng nguy hiểm của bệnh viêm gan B thời kỳ hậu sản.
PGS.TS Nguyễn Văn Bàng - phó trưởng khoa Nhi Bệnh viện Bạch Mai, chủ nhiệm chương trình quốc gia phòng lây truyền virus viêm gan từ mẹ sang con - cho hay đa số bà mẹ có nồng độ HBV cao bị vàng da sau sinh nhưng không đến mức nguy hiểm. Song còn 5-10% bà mẹ sinh biến chứng viêm gan cấp, hôn mê gan, chảy máu gan nên cần thiết phải tiếp tục dùng thuốc dự phòng.
Hiện mới có 20 bà mẹ được giới thiệu tham gia dùng thuốc. Tuy nhiên, theo PGS Bàng, bất cứ bà mẹ mang thai nào có nồng độ virus máu cao (trên 10 triệu virus/ml máu) đều có thể liên hệ trực tiếp đến chương trình để dự phòng, tránh truyền bệnh cho con.
Trong giai đoạn thử nghiệm hiện tại, bệnh nhân sẽ được dùng thuốc miễn phí. Khi chương trình triển khai đại trà, nếu muốn dự phòng, tổng chi phí gia đình phải chi trả sẽ ở mức 15-20 triệu đồng/ca.

Ngừa lây nhiễm cho 100.000 trẻ/năm

Thực tế Việt Nam nằm trong vùng dịch tễ của nhiễm virus viêm gan B mạn tính với tỉ lệ mang HBsAg trung bình 15% (khoảng 12 triệu người mang HBsAg mạn tính, trong đó hơn 6 triệu người là nữ với hơn 2 triệu phụ nữ trong độ tuổi sinh sản).
“Gần đây chương trình quốc gia được Bộ Y tế cấp kinh phí nghiên cứu các phương pháp tiêm chủng ở trẻ sơ sinh - con các bà mẹ mang HBV mạn tính, nhưng kết quả vẫn có một tỉ lệ khá cao, hơn 10% số trẻ này trở thành người mang HBV mạn tính” - PGS Bàng nói.
Trẻ là con của bà mẹ mang HBV mạn tính được tiêm chủng ngay vaccin 12-24 giờ đầu sau khi sinh sẽ có thể thải trừ virus lên đến 70-80%. Nếu được tiêm thêm globulin miễn dịch đặc hiệu chống HBV ngay sau sinh và lúc 1 tháng tuổi sẽ giảm trừ thêm 10% tỉ lệ trở thành người mang HBV mạn tính.
Nghĩa là dù trẻ được tiêm phòng đầy đủ bằng các loại văcxin tốt nhất và thuốc miễn dịch đặc hiệu thì vẫn còn một tỉ lệ đáng kể (15-18%) thành người bệnh viêm gan mạn tính khi trưởng thành. Lý do là trong khi mang thai, virus HBV ở mẹ nhân lên mạnh mẽ khiến người mẹ có nồng độ virus trong máu quá cao (trên 10 triệu virus/ml máu), vượt quá khả năng ngăn cản của rau thai, tràn sang máu con từ trước khi sinh nên khi trẻ ra đời, các biện pháp phòng bệnh không hiệu quả nữa.
“Nếu theo đúng các quy trình phòng lây nhiễm HBV từ mẹ sang con, hàng năm vẫn có đến trên 100.000 trẻ sinh ra dù được phòng bệnh đúng vẫn trở thành người mang HBsAg mạn tính và sẽ bị xơ gan hoặc ung thư gan ở tuổi 25-30. Dùng thuốc kháng virus từ trong bụng mẹ có thể lấp khoảng trống này” - PGS Bàng khẳng định.
Quỳnh Liên. CHITI
Theo Tuổi trẻ

Vì sao stress làm suy giảm chức năng tình dục?

Vì sao stress làm suy giảm chức năng tình dục?
Nhiều người hiểu stress là thuật ngữ để chỉ mọi khó chịu thường xuyên tác động đến con người nhưng không biết rằng stress còn gây ra ở cơ thể một đáp ứng sinh học trước những kích thích vật chất, tâm lý hay giác quan, giống như một phản xạ với 3 giai đoạn: báo động, chống cự và kiệt quệ. Stress ảnh hưởng xấu đến tình trạng tinh thần, thể chất, giấc ngủ và đời sống tình dục.
Cơ thể phản ứng trong tình trạng bị stress: Đầu tiên, khi cơ thể đối diện với những tác động âm tính (buồn, lo sợ, tức giận…), hệ thần kinh gửi tín hiệu đến vùng dưới đồi trong não và vùng này ra lệnh cho tủy tuyến thượng thận giải phóng adrenalin. Hormon này cung cấp năng lượng cho cơ thể, làm nhịp và cung lượng tim tăng lên, đem lại nhiều ôxy cho cơ và mô, giúp cho gan tiết ra đường và mỡ. Trong giai đoạn đầu này, trí nhớ và phản xạ cũng được cải thiện. Đồng tử giãn nên nhìn rõ hơn. Dù tác nhân kích thích là gì thì đáp ứng sinh học diễn ra trong cơ thể vẫn không thay đổi.
Nếu tác nhân kích thích vẫn tiếp tục: Cơ thể sẽ bước vào giai đoạn chống cự. Trong tình trạng này, cơ thể huy động mọi nguồn lực để lặp lại sự cân bằng mới bằng cách tiết ra nhiều hormon khác như endorphine (có tác dụng gây yên tĩnh), cortisol, dopamin, serotonine và cả các hormon giới. Ở giai đoạn này, về phương diện sinh học, stress được coi như một tác nhân kích thích có lợi giúp cơ thể phản ứng để tồn tại trong những hoàn cảnh có thể xem là nguy hiểm.
Nhưng coi chừng để không đi quá xa: Nếu tình trạng stress vẫn kéo dài và cơ thể không còn khả năng đối phó vì năng lượng cần thiết đã tiêu hao quá lớn thì sẽ chuyển sang giai đoạn kiệt quệ. Cơ chế bảo vệ không còn hoạt động được nữa, điều đó làm cho cơ thể trở nên cực kỳ nhạy cảm với những tác nhân kích thích từ môi trường bên ngoài, rơi vào trạng thái quá căng thẳng, van an toàn không chịu đựng nổi nữa... khi đó xuất hiện cảm giác mỏi mệt, giận dữ, thậm chí cả trạng thái trầm cảm.
Trước tác động của stress, mỗi cá thể có đáp ứng khác nhau và trong cuộc sống luôn có những yếu tố làm cho trạng thái stress nặng lên: ở một vài giai đoạn của cuộc đời, một số trạng thái tâm lý (tuổi vị thành niên, khi có bệnh, người có sức khỏe tinh thần yếu kém…).
Suy giảm chức năng tình dục ở nam có thể do stress
Người ta biết nhiều về tác dụng giải tỏa stress của tình dục nhưng lại biết rất ít về ảnh hưởng của stress đến đời sống tình dục. Không thiếu gì những tác nhân gây stress (khó khăn trong nghề nghiệp, nghèo túng, tang tóc, tai nạn, bệnh tật...) và đều có thể gây ra những rối loạn về chức năng tình dục, có thể ngắn hay dài hạn (suy giảm ham muốn, khả năng cương dương…). Để không rơi vào vòng luẩn quẩn của thất bại, cần biết tìm ra các giải pháp.
Khi thấy giảm ham muốn, giảm tần suất quan hệ tình dục hay có rối loạn về cương dương, cần loại trừ yếu tố stress trước tiên. Ở Pháp, cứ 5 người đàn ông thì có một người bị rối loạn cương dương thường xuyên hay tạm thời. Trong đại đa số trường hợp, những trục trặc này có nguồn gốc tâm lý hay phối hợp (có một phần do tâm lý). Nhìn chung, có đến 29% nam giới bị rối loạn cương dương do stress, thường xảy ra ở những người đàn ông ở độ tuổi từ 35 - 49, đã có vợ con, giữ những trọng trách và phải lao động bằng trí óc nhiều hoặc gặp khó khăn trong công việc, lo lắng về sức khỏe và tiền bạc.
Stress có ảnh hưởng xấu đến tình trạng tinh thần, thể chất và cả giấc ngủ. Sự mất ngủ làm cho tâm trí không thanh thản và vì thế có ảnh hưởng đến chức năng tình dục (khoảng 4 trong số 10 nam giới thú nhận điều này). 86% số trường hợp có giảm tần suất quan hệ tình dục hay giảm ham muốn. Những rối loạn về cương dương không phụ thuộc vào tuổi mà thay đổi theo từng cá thể, mỗi người có cách kiểm soát stress khác nhau. Trạng thái mạnh yếu về tâm lý cũng tỷ lệ thuận với mức độ rối loạn. Có điều gần như thống nhất ý kiến là ở nam giới, quan hệ tình dục đều đặn và đem lại sự thoải mái làm giảm cường độ stress.
Stress gây rối loạn cương dương và tình trạng này lại gây ra những lo lắng và hậu quả là tạo ra vòng luẩn quẩn. Cần nhắc lại cơ chế gây cương dương chịu sự kiểm soát của hai hệ thần kinh có tác dụng đối nghịch: hệ phó giao cảm kích thích và hệ giao cảm thì ức chế. Một mặt, hệ phó giao cảm làm cho các mạch máu và cơ nhẵn của thể hang giãn ra, thu hút máu đến và tạo ra sự cương dương; mặt khác, hệ giao cảm lại có tác dụng làm co mạch và do đó làm mất đi sự cương dương. Và người ta biết rằng, stress tạo ra cơ hội thuận lợi cho cơ chế co mạch.
Giải pháp nào?
Sử dụng liệu pháp tâm lý hay dùng thuốc, đôi khi chỉ cần chia sẻ với thầy thuốc đã có thể giúp nam giới có thêm sự tự tin. Từ nhiều năm nay, việc điều trị rối loạn cương dương bằng thuốc đã tỏ ra có hiệu quả, giúp cho nhiều nam giới lập lại đời sống tình dục bình thường.
BS.Hồng Anh
Theo Sức khỏe & đời sống

Nên và không nên ăn gì khi bị viêm gan C?

Nên và không nên ăn gì khi bị viêm gan C?
Ảnh minh họa
 Dưới đây là những chỉ dẫn tổng quát về dinh dưỡng cho BN viêm gan C.