Về tác dụng của vaccin ngừa ung thư cổ tử cung |
Nhà khoa học Đức Harald zur Hausen thuộc Trung tâm nghiên cứu ung thư ở Heideberg, Đức đã phát hiện thấy sự có mặt của HPV trong hơn 97% các ca ung thư cổ tử cung, âm hộ, âm đạo. Phát minh của ông đã chỉ ra cơ chế xâm nhập và gây bệnh của HPV trên tử cung người phụ nữ cũng như các phần khác của bộ máy sinh sản đồng thời mở ra tiền đề cho việc nghiên cứu vaccin phòng ngừa căn bệnh phổ biến thứ hai ở phụ nữ (sau bệnh ung thư vú). Nhờ phát minh này, Hausen đã cùng với hai nhà khoa học Pháp được nhận chung giải Nobel Y học năm 2008 và 50% giá trị giải thưởng (1,4 triệu đô la Mỹ). | |
HPV là gì?
Cho
đến nay, HPV không thể điều trị bằng dược phẩm vì thế phòng bệnh là số
1 và vai trò phòng ngừa của vaccin là quan trọng nhất.
Các vaccin lần lượt ra đời
Tháng
6/2006, lần đầu tiên Cơ quan Quản lý thuốc và thực phẩm Mỹ (FDA) cấp
phép cho một vaccin có tên gardasil của hãng dược phẩm Merk & Co
được phép lưu hành với chỉ định phòng ngừa ung thư cổ tử cung, ung thư
âm hộ, âm đạo. Vaccin được sản xuất từ protein vỏ của HPV và có tác
dụng kích thích hệ miễn dịch của cơ thể chống lại sự xâm nhập của
virut. Gardasil đã chứng minh tác dụng phòng ngừa 4 týp HPV 6, 11, 16,
18. - bốn týp HPV được cho là nguy hiểm nhất trong số các týp gây bệnh
cho người. Các kết quả thử nghiệm cho thấy vaccin đạt hiệu quả 100% với
2 chủng virut này. Gardasil được chỉ định tiêm phòng cho phụ nữ trong
độ tuổi từ 9 – 26.
Các
nhà khoa học đánh giá sự xuất hiện của gardasil là một sự kiện khoa học
của năm 2006 và là “một dấu ấn” trong y khoa thế giới. Sở dĩ như vậy là
do tỷ lệ nhiễm HPV cũng như các bệnh gây ra do virut này thực sự là một
nguy cơ lớn cho phụ nữ và là gánh nặng cho y khoa thế giới. Và năm
2008, gardasil được trao giải thưởng Galien - một giải thưởng danh giá
trong lĩnh vực dược phẩm. Sau khi gardasil được lưu hành, cervarix –
một vaccin do hãng GlaxoSmithKline, Anh đã được phép lưu hành ở Anh và
châu Âu với chỉ định phòng ngừa ung thư cổ tử cung và các tổn thương
tiền ung thư cho phụ nữ tuổi từ 10 - 45. Cervarix được cho là vaccin
ngừa ung thư do HPV thế hệ thứ 2 nhưng là vaccin đầu tiên cho phụ nữ
trên 26 tuổi. Có hai điểm khác biệt của cervarix so với gardasil là
vaccin này được bổ sung một chất hỗ trợ có tên ASO4 – một chất được
hãng sản xuất báo cáo là có tác dụng làm tăng đáp ứng miễn dịch của cơ
thể và kéo dài thời gian tác dụng và cervarix chỉ có tác dụng ngừa hai
týp HPV là týp 16 và 18. Ngay sau khi được phép lưu hành, cervarix đã
được tiêm phòng cho các thiếu nữ Anh ở độ tuổi teen. Tháng 5 năm 2007,
Úc là quốc gia tiếp theo cấp phép cho cervarix. Dư luận của quốc đảo
này đánh giá đây là một bước đi quan trọng trong lộ trình tiến tới loại
trừ gánh nặng ung thư cổ tử cung cho phụ nữ.
Hiệu quả phòng ngừa
Cả
hai loại vaccin tiên phong trong lĩnh vực này đều là các vaccin bất
hoạt (do được sản xuất từ một phần virut) nên loại trừ nguy cơ gây
nhiễm virut cũng như độc tố từ chính vaccin.
Các
kết quả thử nghiệm của gardasil trên 11.000 phụ nữ Mỹ trong độ tuổi từ
9 – 26 chưa tiếp xúc với 4 týp HPV đã cho thấy vaccin có hiệu quả gần
như 100% trong việc phòng ngừa bệnh gây ra bởi 4 týp HPV, bao gồm tiền
ung thư cổ tử cung, âm hộ, âm đạo và u sùi sinh dục. Kết quả cũng cho
thấy vaccin kém hiệu quả hơn ở những phụ nữ nhiều tuổi hoặc đã nhiễm
với một trong 4 týp HPV, đã bị bệnh u sùi sinh dục, tiền ung thư hay
ung thư do HPV.
Các
thử nghiệm của cervarix trên 1.100 phụ nữ Nam Mỹ, Brazil; 660 phụ nữ
Đức và Ba Lan cũng cho thấy hiệu quả phòng ngừa HPV là rất cao, thậm
chí còn có bằng chứng cho thấy tác dụng phòng ngừa các týp HPV ngoài 16
và 18 như týp 31 và 45. Ở lứa tuổi từ 15 – 25, hiệu quả của vaccin là
100% trong vòng 12 tháng và tác dụng kéo dài 4 năm rưỡi sau đó
Tuy
nhiên, cả hai loại vaccin này đều có những hạn chế nhất định. Hạn chế
đầu tiên phải nhắc đến là không phòng ngừa được tất cả các týp HPV
trong khi hai týp 16, 18 chỉ là nguyên nhân gây nên 70% ca ung thư vì
thế không ngăn ngừa được tất cả các trường hợp ung thư cổ tử cung và u
sùi sinh dục. Điều này cũng có nghĩa là dù đã tiêm vaccin, phụ nữ vẫn
phải được tầm soát ung thư bởi xét nghiệm phát hiện (xét nghiệm
Papmears) định kỳ và cũng không ngăn ngừa được các bệnh lây truyền qua
đường tình dục khác. Vì thế việc bảo vệ không tiếp xúc với HPV và bệnh
lây qua đường tình dục vẫn là vấn đề quan trọng.
Đối tượng tiêm vaccin
Theo
chỉ định của nhà sản xuất, gardasil được dùng cho phụ nữ từ 9 – 26 tuổi
và cervarix dùng cho phụ nữ từ 10 – 45 tuổi. Có hai lý do để đưa ra chỉ
định này là vaccin mới được thử nghiệm trên nhóm đối tượng phụ nữ ở độ
tuổi này và hiệu quả của vaccin ở nhóm tuổi này là cao nhất. Trên thực
tế, các kết quả nghiên cứu bước đầu cho thấy, ở độ tuổi cao hơn (trên
26 tuổi với gardasil và trên 45 tuổi với cervarix) thì hiệu quả tác
dụng giảm đi. Nói như vậy không có nghĩa là ở độ tuổi cao hơn thì
vaccin không có hiệu quả mà chỉ là hiệu quả giảm đi. Trong khi nguy cơ
ung thư cổ tử cung do HPV gây ra không giới hạn ở độ tuổi nào thì việc
ngăn ngừa bằng vaccin ở tất cả các phụ nữ còn hoạt động tình dục là cần
thiết. Hơn nữa, vaccin loại này không gây độc hại cho cơ thể.
Hiện
nay, nhiều phụ nữ băn khoăn là đã nhiễm HPV có nên tiêm vaccin hay
không? Và có phải làm xét nghiệm trước khi tiêm phòng hay không?
Theo
ý kiến của nhiều nhà khoa học trên thế giới, hiệu quả phòng ngừa của
vaccin sẽ là tuyệt đối nếu người phụ nữ đó chưa có quan hệ tình dục,
chưa có hoặc hiện tại không nhiễm HPV. Nhưng như trên đã nói, HPV có
hàng trăm týp mà xét nghiệm hiện tại mới chỉ phát hiện là có nhiễm HPV
hay không chứ chưa chỉ điểm ra được là nhiễm týp nào. Mặt khác, các
vaccin hiện có lại có hiệu quả phòng ngừa với các týp gây bệnh phổ biến
nhất. Vì thế, ngay cả khi kết quả xét nghiệm là dương tính với HPV thì
chưa chắc đó đã là các týp HPV gây bệnh hoặc tất cả các chủng HPV. Việc
tiêm vaccin khi đó được cho là vẫn có hiệu quả (tuy không tuyệt đối)
với các týp HPV khác và như vậy vẫn có hiệu quả phòng ngừa. Ngoài ra,
cần nói thêm rằng, việc làm các xét nghiệm nên được xem là công việc
thường xuyên định kỳ đối với phụ nữ ở độ tuổi có hoạt động tình dục cho
dù đã tiêm hay chưa tiêm vaccin. Bởi lẽ hiệu quả của vaccin đối với các
týp kể trên có thể là 100% nhưng cũng mới chỉ ngừa được 70% số ca ung
thư chứ chưa phải là tuyệt đối và hiệu quả này chỉ kéo dài 4 – 5 năm
trong điều kiện tiêm đủ 3 mũi theo phác đồ.
Và
cuối cùng, nên gọi hai vaccin này là gì? Trong các y văn hiện có trên
thế giới, người ta có thể gọi theo hai cách: vaccin ngừa ung thư cổ tử
cung hoặc vaccin ngừa HPV. Cả hai cách gọi này đều không sai nếu như
chúng ta hiểu đúng về tác dụng của chúng.
ThS. Hải Nam
|
|