Chủ Nhật, 27 tháng 5, 2012

Điểm G của phụ nữ nằm ở đâu ?

Điểm G của phụ nữ nằm ở đâu ?

Điểm G được bác sĩ Ernst Grafenberg người Đức phát hiện ra vào đầu những năm 1950. Ông đã tình cờ tìm ra vùng này trong một lần khám phụ khoa cho một phụ nữ. Khi ông vô tình chạm tới điểm này, bà đã không kiềm chế được và khẽ rên lên vì sung sướng! Kể từ đó đến nay, các anh chàng vẫn mải mê tìm kiếm nó.


Tới những năm 80 của thế kỷ trước, người ta mới đặt tên bằng tên người đã khám phá đầu tiên, đó là điểm Grafenberg hay gọi tắt là điểm G.


Điểm G của phụ nữ nằm ở thành trước âm đạo, chỉ cách cửa vào (âm hộ) vài cm, dọc theo niệu đạo và gần với cơ thắt vòng của bàng quang. Khi được kích thích, điểm G tham gia vào tiến trình tạo ra cảm xúc tình dục, kể cả cảm giác cực khoái(orgasm).

Ngay từ khi mô tả lần đầu, Ernest Grafenberg cũng đã nói rằng điểm G có liên quan đến sự tiết dịch từ niệu đạo khi có khoái cực mà sau này người ta so sánh như sự xuất tinh ở nam.

Cũng giống như âm vật, mọi phụ nữ đều có điểm G nhưng có khoảng 10-40% phụ nữ không có cảm nhận gì đặc biệt với điểm G. Cũng là điều thường thấy ở tình dục nữ, không có 2 người phụ nữ giống nhau.

Nam không có điểm G nhưng vùng phát sinh cảm xúc tình dục tương ứng là vùng tầng sinh môn ngay dưới 2 tinh hoàn và phía trước hậu môn. Ở nam giới người ta gọi là điểm L ( sẽ nói rõ hơn).

Một quyển sách mới đã tiết lộ phụ nữ không chỉ có một điểm G duy nhất – vùng nhạy cảm dễ đem lại cực khoái. Theo tác giả, nhà sinh vật học Desmond Morris, còn có 3 vùng siêu nhạy cảm khác cũng nằm ở thành trước âm đạo.

Trong cuốn sách mới của mình mang tên The Naked Woman, Morris đã đặt tên cho những điểm đó là điểm U, điểm C, điểm A. Bác sĩ cho biết một khi người đàn ông tìm ra những điểm đó, anh ta có thể mang lại cho người tình những cơn cực khoái mê ly.

Ông nói: “Giá như tôi đã viết được cuốn sách này từ lúc còn là thiếu niên, tôi không thể tưởng tượng sẽ mang lại cho bạn gái bao nhiêu khoái cảm”.
 

Những điều cần biết về kích thích tố nam testosterone

Những điều cần biết về kích thích tố nam testosterone

Testosterone tạo nên phong cách đàn ông hay là nguyên nhân khiến quý ông rụng tóc, rụng cả rừng rậm ở “chỗ ấy”?

1. Testosterone được sản xuất bên trong tinh hoàn?

Đúng vậy, testosterone đóng vai trò quan trọng nhất trong các hormone nam tính - kích thích tố nam. (Ở nữ giới, buồng trứng sản sinh ra testosterone ở mức thấp).
 


Nhìn chung, testosterone chịu trách nhiệm trong quá trình phát triển cơ bắp, xương và phát triển giới tính. Khi các nam giới bước vào tuổi dậy thì, testosterone làm cho bạn có hiện tượng vỡ giọng, “cậu bé”, “hai hòn bi”, lông mặt và lông mu phát triển hơn

2. Quý ông có thể làm tăng lượng tostesterone theo cách tự nhiên?

Theo một vài nghiên cứu thì nếu quý ông chăm chỉ luyện tập thể dục đều đặn thì sẽ có khả năng làm cho các kích thích tố nam này tăng lên.

Ngoài ra, quý ông nên nhớ chất béo có thể sẽ làm giảm lượng testosterone có sẵn cho cơ thể. Do đó, hãy giảm cân và cắt giảm các loại thực phẩm nhiều chất béo hoặc liên quan đến bia rượu để giữ lại testosterone cho mình.
Nếu cơ thể bị thiếu hụt vitamin và khoáng chất thì rất có thể sẽ ảnh hưởng tới cả vấn đề nội tiết. Ăn nhiều các loại hạt (đặc biệt là bí ngô và hạt hướng dương), sò ốc, đậu, sữa chua và thịt nạc là một giải pháp khá hữu ích cho sự thiếu hụt này. Bởi những chất này có chứa hàm lượng kẽm cao, mà kẽm lại là khoáng chất thiết yếu cho quá trình sản xuất testosterone.

3. Testosterone làm nên phong cách đàn ông?

Testosterone giúp các nam giới trưởng thành như một người đàn ông thực thụ, và  nó cũng giúp các thiếu nữ trở thành các phụ nữ đúng nghĩa.

Tuy là nội tiết tố nam chủ yếu trong cơ thể, nhưng nó cũng là tiền thân của các nội tiết tố nữ estrogen cho nên testosterone cũng rất cần thiết cho cả phái đẹp.
4. Testosterone là nguyên nhân khiến nam giới rụng tóc, rụng cả rừng rậm ở “chỗ ấy”?

Trong nhiều trường hợp, testosterone suy giảm thành các dihydro-testosterone. Loại testosterone bị suy giảm này chính là nguyên nhân khiến các quys ông bị rụng tóc (ở nhiều người có khi dẫn đến hói đầu), rụng cả rừng rậm ở "chỗ ấy" và một số vùng trên cơ thể hoặc ảnh hưởng cả tới bộ phận tiền liệt tuyến không có ở nữ giới.
5. Lượng testosterone thấp là nguyên nhân khiến “cậu bé” khó “chào cờ”?

Câu trả lời là sai. Testosterone không liên quan gì đến khả năng “chào cờ” ở “cậu bé” của các nam giới cả. Dù là theo tuổi tác, lượng testosterone ở nam giới có thể giảm đi, nhưng chúng rất hiếm khi là nguyên nhân gây ra chứng rối loạn chức năng cương dương.
6. Thiếu hụt testosterone có nguy hiểm không?

Một số quý ông chỉ có phân nửa lượng testosterone hoạt động hiệu quả so với nhiều quý ông khác.

Thiếu hụt testosterone  nam giới có thể sẽ phải đối mặt với tình trạng yếu các cơ bắp, xương yếu, trọng lượng cơ thể tăng. Nếu trầm trọng hơn thì quý ông có thể gặp những nguy cơ về tim mạch và bệnh tiểu đường.
(Theo Menhealth)

Vì sao phụ nữ luôn thích ''cậu nhỏ" khổng lồ?

Vì sao phụ nữ luôn thích ''cậu nhỏ" khổng lồ?

Sự thật là hầu hết phụ nữ thích quý ông sở hữu "cậu nhỏ" lớn và điều này là hoàn toàn tự nhiên vì nó đã được lập trình sẵn trong ADN của họ.


Tuy nhiên, hầu hết các chị em sẽ không bao giờ nói thẳng với bạn điều này bởi vì họ không muốn làm tổn thương tình cảm của bất cứ ai. Dưới đây là 7 lý do tại sao chị em lại thích cậu nhỏ có kích cỡ to lớn.

“Cậu nhỏ” lớn khiến chị em bị kích thích tình dục ngay lập tức

Khi nói đến việc kích thích tình dục, nhiều phụ nữ bị ấn tượng bởi trực quan hơn. Không gì có thể nóng bỏng và bị kích thích nhanh hơn với phụ nữ khi họ nhìn thấy một anh chàng khỏa thân với một dương vật cương cứng cùng kích cỡ to lớn.

Hầu như khi chia sẻ riêng tư với nhau, những chị em đều khẳng định những điều về thị giác sẽ phản ứng nhanh nhất đến kích thích tình dục.

Điều này không có nghĩa là phụ nữ không quan tâm về nhân cách của một chàng trai, những gì các quý ông nghĩ và cách quý ông cư xử. Song với họ, một dương vật lớn sẽ là dấu cộng khi nói đến sự hấp dẫn tình dục.

“Cậu nhỏ” lớn - Cái nhìn đầu tiên của chị em

Một cuộc khảo sát đã được thực hiện và phát hiện ra rằng đại đa số các phụ nữ khi lần đầu tiên gặp gỡ các quý ông thì ngoài nhìn vào khuôn mặt của người đàn ông, họ hầu như tự động nháy mắt ở đáy quần của những quý ông đó trong một vài giây sau đó.

Rõ ràng điều này là một phản ứng tự nhiên rất khó bỏ mặc cho những chị em cũng luôn có ý thức về nó và cố gắng không để lộ liễu. Và từ các buổi nói chuyện riêng của các chị em, có thể khẳng định rằng tình trạng nhìn ở đáy quần của một người đàn ông luôn là chủ đề thường xuyên của các cuộc hội thoại.

Nàng rất thích 'cậu nhỏ' to nhưng không dám nói ra (Ảnh minh họa)
 Hầu hết phụ nữ luôn thích “thâm nhập sâu”

Đã có rất nhiều bài viết về lý do tại sao một người phụ nữ lại không thể cảm thấy bất cứ điều gì khi cậu nhỏ chỉ xâm nhập nâng khoảng vài cm trong âm đạo của các chị em.

Một số nguồn tin cho rằng thậm chí không có bất kỳ dây thần kinh cảm giác nào có thể xuất hiện khi cậu nhỏ xâm nhập quá nâng trong âm đạo. Tuy các nghiên cứu tình dục học mới nhất đã chứng minh điều này không đúng nhưng thực tế, một dương vật thâm nhập sâu vào âm đạo của chị em sẽ khiến cho chị em cảm thấy hấp dẫn hơn, mạnh mẽ hơn khi “vào cuộc”.

“Cậu nhỏ” lớn sẽ không bao giờ bị trượt ra ngoài khi đang “yêu”

Không gì có thể phá vỡ tâm trạng của các chị em trong cuộc vui nhiều hơn khi các quý ông liên tục phải liên tục định vị lại vị trí của dương vật của mình do hết lần này đến lần khác do bị trượt ra ngoài.

Một dương vật với kích cỡ dày rộng và đủ dài không bao giờ trượt ra và nhịp điệu “yêu” theo đó sẽ không bị phá bĩnh. Điều này cho phép một phụ nữ có thể “lên đỉnh”.

"Cậu nhỏ" dài có thể giúp kích hoạt cực khoái sâu và mạnh mẽ cho chị em

Nếu một người đàn ông với một cậu nhỏ dài có thể giúp kích thích cổ tử cung của người phụ nữ, giúp cả hai người kích hoạt cực khoái sâu và mạnh mẽ.

Nhiều người phụ nữ chưa bao giờ có niềm vui mãnh liệt này bởi vì họ không sở hữu người đàn ông với kích cỡ một dương vật đủ lớn.

Cô ấy sẽ lao ngay vào bạn khi bị kích thích (Ảnh minh họa)
 "Cậu nhỏ" lớn giúp đạt được cực khoái âm đạo

Nếu dương vật vừa khít trong quá trình thâm nhập nhịp nhàng, nó sẽ giúp vuốt ve tất cả các bức tường của âm đạo trong mỗi bước di chuyển của người đàn ông. Điều này giúp phụ nữ cảm thấy tuyệt vời nhất.

Ngoài ra, điều này cũng mang tới kinh nghiệm đáng kinh ngạc cho người đàn ông vì các quý ông có thể cảm nhận được cảm giác hút trên đầu dương vật của mình trong toàn bộ giao động quanh trục dương vật. Nó giúp cả hai đạt cực khoái một cách dễ dàng.

Cường độ cực khoái sẽ nhiều hơn nữa nếu có một “cậu nhỏ” lớn

Thực tế, không phải tất cả cực khoái đều giống nhau và bằng nhau. Điều này đặc biệt đúng với phụ nữ.

Với đàn ông, tất cả các cực khoái liên quan đến xuất tinh vì vậy một cậu nhỏ lớn với cường độ xuất tinh mạnh mẽ sẽ cho bạn cảm giác thăng hoa nhất.

(Theo aFamily)

Một số điều cần biết về bệnh mụn rộp sinh dục - Herpes sinh dục

Một số điều cần biết về bệnh mụn rộp sinh dục - Herpes sinh dục

Bệnh mụn rộp là bệnh do vi khuẩn? 

Không đúng, đó là bệnh do virut, một loại virut có khả năng lây truyền mạnh và sống trong cơ thể suốt đời, có 2 thể: virus herpes simplex 1 (HSV1) có nguồn gốc là virut gây chốc mép. Virus herpes 2 (HSV2) phát triển ở niêm mạc cơ quan sinh dục. Mụn rộp sinh dục là một bệnh lây truyền qua đường tình dục và gây bệnh cho cả nam và nữ.  

Bệnh mụn rộp tương đối hiếm? 

Không đúng, trong số những bệnh lây truyền qua đường tình dục thì bệnh mụn rộp sinh dục gặp rất nhiều, rất phổ biến ở châu Âu; ở Pháp có khoảng 2 triệu người mang virut nhưng chỉ có khoảng 350.000 người được chẩn đoán.  

Các triệu chứng của bệnh bao giờ cũng bộc lộ? 

Không đúng, 80% trường hợp bệnh phát không thể hiện triệu chứng gì cho nên làm cho việc lây truyền rất dễ xảy ra. Mụn rộp cũng rất hay phối hợp với sự lây nhiễm và lây truyền HIV. Bệnh mụn rộp sinh dục thường bộc lộ ra bằng những mụn nước nhỏ hay những nốt nhú trên niêm mạc vùng hậu môn hay vùng cơ quan sinh dục (ở âm hộ, dương vật và bìu). Các mụn nước mọc thành chùm có thể tiến triển thành những ổ loét; thường kèm đau (cảm giác bỏng rát, nhoi nhói) và ngứa tại chỗ, càng đau hơn khi bị dính nước tiểu. Các tổn thương cũng có thể không nhìn thấy nếu như phát triển trong âm đạo, thậm chí cả trên cổ tử cung hay trong niệu đạo của nam giới. 



Bệnh mụn rộp không gây ra các biến chứng nghiêm trọng? 

Không đúng, có thể có biến chứng từ nặng đến nhẹ: hệ thần kinh trung ương bị tổn thương, ví dụ viêm màng não vô khuẩn.  Những tổn thương ở cả những vị trí khác  như  ở mông, háng, đùi, ngón tay, mắt.

Có thể lầm lẫn mụn rộp sinh dục với bệnh nấm? 

Đúng, vì các triệu chứng rất giống nhau: cảm giác nhoi nhói, ngứa... trong trường hợp nghi ngờ cần hỏi ý kiến thầy thuốc để có chẩn đoán chính xác và nếu cần thì điều trị ngay. 

Bệnh mụn rộp có thể biểu hiện dưới dạng bùng phát từng đợt? 

Đúng, đợt đầu tiên thường kèm với các triệu chứng toàn thân (đau đầu, sốt). Sau đó virut tồn tại lặng lẽ trong các hạch rồi từng đợt trở nên hoạt động. Tần suất các đợt phụ thuộc vào khả năng phòng ngự của hệ thống miễn dịch và các yếu tố phát động  như bị mỏi mệt nặng, chế độ dinh dưỡng không cân đối, đang kỳ hành kinh, có vấn đề về stress, HIV dương tính... những yếu tố làm tăng nguy cơ bùng phát. 

Chỉ một lần quan hệ tình dục, có thể bị lây nhiễm? 

Đúng, bệnh rất dễ lây nhiễm trong đợt bùng phát: ngay khi xuất hiện các dấu hiệu cho đến khi lành sẹo hoàn toàn các tổn thương. Trong giai đoạn này, việc mang bao cao su có thể làm giảm bớt nguy cơ bị lây nhiễm chứ không phải loại bỏ hoàn toàn nguy cơ. Có thể bị lây bệnh mụn rộp sinh dục do những mụn nước ở gần vùng cơ quan sinh dục (khi không mang bao cao su), do đó nên cố gắng tránh hoàn toàn quan hệ tình dục khi có đợt bùng phát. 

Liệu có thể bị tổn thương giống như chốc mép nhưng lại phát triển ở cơ quan sinh dục không? 

Đúng, sự lây nhiễm có thể xảy ra khi có quan hệ tình dục theo đường miệng với người đang bị nhiễm HSV1. Ngược lại, cũng có thể bị nhiễm HSV2 ở miệng (môi, mép).  

Mụn rộp sinh dục có thể điều trị được không? 

Có nhiều cách điều trị để hạn chế các đợt bùng phát nhưng không thể làm hết hẳn virut, vì virut sẽ ở lại trong cơ thể suốt đời. Dù là bị nhiễm lần đầu hay tái phát thì dùng thuốc chống virut (acyclovir) theo đường toàn thân trong 10 ngày cũng có thể hạn chế được cường độ và thời gian kéo dài của đợt bùng phát.  

Mụn rộp sinh dục có đem lại nguy cơ nghiêm trọng cho thai nghén không? 

Có, cần phải báo cho thầy thuốc biết nếu như phụ nữ có thai đã từng bị bệnh mụn rộp sinh dục. Khi đó cần được điều trị để tránh mọi nguy cơ nghiêm trọng cho thai và trẻ sơ sinh. Mụn rộp nguyên phát và mụn rộp cổ tử cung hay phối hợp với sảy thai và đẻ non. Trong số những trẻ sinh ra với bệnh mụn rộp (nguy cơ bị nhiễm là 1 trên 3 với mụn rộp nguyên phát, dưới 1 trên 30 với mụn rộp tái phát) thì một nửa sẽ chết hoặc có tổn thương thần kinh.  

Điều trị mụn rộp khi có thai như thế nào? 

Dùng acyclovir 400mg uống 3 lần mỗi ngày trong 5 ngày hoặc acyclovir 200mg uống 5 lần mỗi ngày trong 7 ngày. Xem xét việc mổ lấy thai.

Khi trẻ sơ sinh bị phơi nhiễm, mụn rộp khi đẻ thì điều trị ngay cho trẻ có được không? 

Dùng acyclovir 10 mg/kg tiêm TM, 3 lần mỗi ngày, trong 21 ngày.
 

Giang mai - bệnh lây truyền qua đường tình dục

Giang mai - bệnh lây truyền qua đường tình dục


Giang mai (syphilis) là một bệnh lây truyền qua đường tình dục do xoắn khuẩn Treponema pallidum (xoắn khuẩn giang mai) gây ra. Đường lây truyền của bệnh giang mai hầu như luôn luôn là qua đường tình dục, mặc dù có những ca thí dụ về bệnh giang mai bẩm sinh do truyền từ mẹ sang con trong tử cung hoặc khi sinh.
Các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh giang mai rất nhiều, do đó trước khi phương pháp xét nghiệm huyết thanh học ra đời thì việc chẩn đoán chính xác bệnh giang mai rất khó khăn bởi vì nó thường bị nhầm lẫn với các bệnh khác, đặc biệt là trong giai đoạn 3.

Xoắn khuẩn Treponema pallidum (xoắn khuẩn giang mai)

Giang mai có thể điều trị được bằng thuốc kháng sinh như penicillin. Nếu không chữa trị, bệnh giang mai có thể gây biến chứng cho tim, động mạch chủ, não, mắt, và xương, trong một số trường hợp có thể gây tử vong.

Bệnh giang mai phát triển theo bốn giai đoạn chính: giai đoạn 1, giai đoạn 2, giai đoạn ủ bệnh và giai đoạn 3.

Giai đoạn 1

Đây là giai đoạn rất quan trọng để phát hiện và điều trị kịp thời. Khoảng 3-90 ngày sau khi tiếp xúc với nguồn bệnh (trung bình 21 ngày), sẽ xuất hiện tổn thương da ở các điểm tiếp xúc. Vết loét xuất hiện ở những nơi tiếp xúc với xoắn khuẩn giang mai, thường là ở bộ phận sinh dục như: môi lớn, môi bé, âm đạo, cổ tử cung, quy đầu, dương vật hoặc trực tràng. Tổn thương này, được gọi là hạ cam, là một dạng viêm loét, có đặc điểm nông, hình tròn hay bầu dục kích thước 0.3 đến 3cm, bờ nhẵn, màu đỏ, không ngứa, không đau, không có mủ; đáy vết loét thâm nhiễm cứng và kèm theo nổi hạch hai bên vùng bẹn, cứng và cũng không đau. Các triệu chứng trên có thể tự biến đi sau 3 đến 6 tuần lễ kể cả không điều trị nên nhiều người tưởng lầm là khỏi bệnh nhưng thực sự là vi khuẩn lúc đó đã vào máu, bệnh vẫn tiếp tục phát triển với những biểu hiện khác.

Vết loét hạ cam trên ngón tay. Khác với các bệnh lây truyền qua đường tình dục khác, bệnh giang mai không chỉ giới hạn ở những bộ phận sinh dục, mà còn có thể lây truyền qua các tiếp xúc gần khác

Giai đoạn 2

Giai đoạn 2 xảy ra từ 4 đến 10 tuần sau giai đoạn 1. Giai đoạn này có rất nhiều biểu hiện khác nhau, ví dụ như: nốt ban đối xứng, màu hồng như hoa đào (đào ban) không ngứa trên toàn thân hoặc tứ chi bao gồm cả lòng bàn tay, bàn chân, hình ảnh đào ban màu đỏ hồng hoặc hồng tím như cánh hoa đào, ấn vào thì mất, không nổi cao trên mặt da, không bong vảy và tự mất đi. Thường khu trú hai bên mạng sườn, ngực, bụng, chi trên. Đào ban xuất hiện dần trong vòng 1 đến 2 tuần, tồn tại không thay đổi trong vòng 1 -3 tuần sau đó nhạt màu dần rồi mất đi.

Hoặc bệnh có thể làm xuất hiện các mảng sẩn, nốt phỏng nước, vết loét ở da và niêm mạc. Mảng sẩn, sẩn các loại, có nhiều kích thước khác nhau, như bằng hạt đỗ, đinh gim, hoặc sẩn hình liken, ranh giới rõ ràng màu đỏ như quả dâu, không liên kết với nhau, thường hay bong vảy và có viền da ở xung quanh sẩn, nếu các sẩn có liên kết với nhau sẽ tạo thành các mảng, hay sẩn mảng, các sản ở kẽ da do bị cọ sát nhiều có thể bị trợt ra, chảy nước, trong nước này có chứa rất nhiều xoắn khuẩn nên rất dễ lây khi tiếp xúc với những bệnh nhân này. Sẩn mủ ít gặp hơn đào ban và các loại sẩn trên, chủ yếu ở những người nghiện rượu, trông giống như viêm da mủ nông và sâu. Tại các khu vực ẩm ướt của cơ thể (thường là âm hộ hoặc bìu), phát ban trở nên bằng phẳng, rộng, màu trắng, hoặc các thương tổn giống như mụn cóc. Các triệu chứng khác thường gặp ở giai đoạn này bao gồm sốt, đau họng, mệt mỏi, sụt cân, đau đầu, nổi hạch. Một số trường hợp hiếm gặp có thể kèm theo viêm gan, thận, viêm khớp, viêm màng xương, viêm dây thần kinh thị giác, viêm màng bồ đào, và viêm giác mạc kẽ. Các triệu chứng này thường tự biến mất sau 3-6 tuần.

Triệu chứng của bệnh giang mai giai đoạn thứ phát xuất hiện trên lòng bàn tay, cũng có khi ở lòng bàn chân.
Giang mai giai đoạn 2 ở bệnh nhân 52 tuổi mắc bệnh AIDS; các vết loét và sẩn xuất hiện trên khuôn mặt, ngực, cánh tay
Giang mai giai đoạn 2 ở bệnh nhân 23 tuổi với các nốt phỏng nước trên lưng.

Giai đoạn tiềm ẩn

Giang mai tiềm ẩn được xác định khi có bằng chứng huyết thanh của bệnh nhưng không có dấu hiệu hoặc triệu chứng của bệnh. Giai đoạn này chia làm 2 loại: thời gian tiềm ẩn dưới 1 năm sau giai đoạn 2 (sớm) và thời gian tiềm ẩn kéo dài hơn 1 năm sau giai đoạn 2 (muộn). Giang mai tiềm ẩn sớm có thể tái phát các triệu chứng bệnh, giang mai tiềm ẩn muộn không có triệu chứng và không lây bằng giang mai tiềm ẩn sớm.

Giai đoạn 3

Giang mai giai đoạn 3 có thể xảy ra khoảng 3-15 năm sau những triệu chứng của giai đoạn 1 và được chia thành ba hình thức khác nhau: giang mai thần kinh (6,5%), giang mai tim mạch (10%) và củ giang mai (15%). Những người bị bệnh giang mai giai đoạn này không lây bệnh.
  • Củ giang mai xuất hiện từ 1-46 năm sau khi nhiễm bệnh (trung bình 15 năm), có hình cầu hoặc mặt phẳng không đối xứng, màu đỏ như mận, hơi ngả tím, kích thước bằng hạt ngô, mật độ chắc, ranh giới rõ ràng, các củ giang mai tiến triển không lành tính, nhất thiết hoại tử hoặc hoại tử teo hoặc tạo loét, rất chậm lành và ít lây hơn, sau khi khỏi thường để lại sẹo. Nếu củ, gôm khu trú vào các tổ chức quan trọng và không được điều trị sẽ đe doạ tính mạng bệnh nhân.
  • Giang mai thần kinh là bệnh liên quan đến hệ thống thần kinh trung ương. Nó có thể xảy ra sớm: không có triệu chứng hoặc biểu hiện lâm sàng bằng viêm màng não, hay sự phân ly giữa biến đổi dịch não tủy đã rõ rệt và triệu chứng lâm sàng còn thô xơ. Hoặc xảy ra muộn: gây ra tổn thương ngoài viêm màng não, mạch máu não, còn tổn thương não khu trú hoặc tổn thương thoái hóa ở não. Giang mai thần kinh thường xảy ra 4-25 năm sau khi nhiễm bệnh. Bệnh có thể gây suy nhược trầm cảm, rối loạn ý thức từng thời kỳ, động kinh, đột quỵ hay gây ra ảo giác đối với người bệnh.
  • Giang mai tim mạch thường xảy ra 10-30 năm sau khi nhiễm bệnh. Các biến chứng thường gặp nhất là phình mạch.
Giang mai gây tổn thương trên lưng của bệnh nhân
Củ giang mai trên mũi trong giai đoạn 3

Điều trị

Tuy là bệnh nguy hiểm nhưng có thuốc điều trị khỏi hẳn với hiệu quả cao, miễn là phải được phát hiện sớm và điều trị đúng chỉ dẫn của thầy thuốc.

Giai đoạn đầu

Lựa chọn đầu tiên cho việc điều trị các bệnh giang mai không biến chứng là một liều duy nhất penicillin G tiêm bắp. Doxycycline và tetracycline cũng là sự lựa chọn thay thế, tuy nhiên không thể sử dụng ở phụ nữ mang thai. Ceftriaxone có thể có hiệu quả tương tự như điều trị bằng penicillin.

Giai đoạn biến chứng

Do penicillin G ít xâm nhập vào hệ thống thần kinh trung ương cho nên đối với những bệnh nhân giang mai thần kinh nên được tiêm penicillin liều cao vào tĩnh mạch tối thiểu là 10 ngày. Nếu bị dị ứng với penicilline thì có thể được sử dụng cetriaxone thay thế. Điều trị tại thời điểm này sẽ hạn chế sự tiến triển hơn nữa của bệnh, nhưng không thể cải thiện các thiệt hại do bệnh đã gây ra.

Phản ứng Jarisch-Herxheimer

Một trong những tác dụng phụ của điều trị là phản ứng Jarisch-Herxheimer. Phản ứng phụ thường bắt đầu trong vòng một giờ sau khi tiêm thuốc và kéo dài trong 24 giờ với các triệu chứng sốt, đau cơ, nhức đầu, và nhịp tim nhanh.

Phòng ngừa

Hiện nay vẫn chưa vác xin chủng ngừa có hiệu quả cho công tác phòng chống. Không nên quan hệ tình dục hay tiếp xúc vật lý trực tiếp với một người bị bệnh để tránh lây truyền bệnh giang mai, có thể sử dụng bao cao su đúng cách, tuy nhiên vẫn có thể không hoàn toàn an toàn. Giang mai không lây qua nhà vệ sinh, các hoạt động hàng ngày, bồn tắm, hay dụng cụ ăn uống hoặc quần áo.

Dịch tễ học

12 triệu người nhiễm giang mai vào năm 1999 với hơn 90% trường hợp ở các nước đang phát triển. Nó ảnh hưởng từ 700.000 và 1.600.000 thai phụ mỗi năm dẫn đến xẩy thai tự nhiên, thai chết lưu, và giang mai bẩm sinh. Trong vùng Sahara ở châu Phi, giang mai góp phần làm tử vong khoảng 20% trẻ sơ sinh.
Trong thế giới phát triển, các ca nhiễm bệnh giang mai đã suy giảm cho đến năm 1980 và 1990 do sử dụng rộng rãi các thuốc kháng sinh. Từ năm 2000, tỷ lệ giang mai đã gia tăng tại Mỹ, Anh, Australia và châu Âu chủ yếu ở nam giới quan hệ tình dục với nam giới (đồng tính luyến ái) do thực hành tình dục không an toàn.
Tại Hoa Kỳ, nhân viên y tế báo cáo khoảng 32.000 người mắc bệnh giang mai trong năm 2002, phần lớn ở tuổi 20–39. Cao nhất ở nữ tuổi 20–24 và nam tuổi 35–39. Năm 2001 có 492 trẻ sơ sinh bị cha mẹ truyền bệnh giang mai, năm 2002 số này tụt xuống một chút – 412.

Lịch sử

Các tên gọi khác

Tên gọi "giang mai" được đặt ra bởi một bác sĩ kiêm nhà thơ người Ý: Girolamo Fracastoro trong sử thi bằng tiếng Latinh viết vào năm 1530 của ông, có tiêu đề Syphilis sive gallicus(Giang mai hay các bệnh của người Pháp). Các nhân vật chính của bài thơ là một người chăn cừu tên là Syphilus (có lẽ là một lỗi chính tả biến thể của Sipylus, một nhân vật trong Metamorphoses của Ovid). Syphilus được biết đến như là người đầu tiên bị mắc bệnh này, do thần Apollo trừng phạt vì các thách thức của Syphilus. Từ nhân vật này đã bắt nguồn một cái tên cho căn bệnh giang mai.

Cho đến thời điểm đó, như ghi chú Fracastoro, giang mai đã được gọi là "bệnh của người Pháp" ở Ý, Ba LanĐức, và "bệnh của người Ý" tại Pháp. Ngoài ra, người Hà Lan gọi nó là "bệnh của người Tây Ban Nha", người Nga gọi nó là "căn bệnh của người Ba Lan", người Thổ Nhĩ Kỳ gọi nó là "bệnh của người Thiên Chúa giáo" hay "bệnh Frank" (frengi) và Tahiti gọi nó là "bệnh của người Anh" . Những cái tên "quốc gia" là do bệnh thường được lây lan bởi các thủy thủ nước ngoài và các binh sĩ do họ thường xuyên quan hệ tình dục với gái mại dâm ở địa phương. 

Trong thế kỷ 16, nó đã được gọi là "đại thủy" để phân biệt nó với bệnh đậu mùa bởi vì trong giai đoạn đầu của bệnh, các ban nước lớn phát ra tương tự như bệnh đậu mùa.

Nguồn gốc

Nguồn gốc chính xác của bệnh giang mai không được xác định chính xác. Có ba lý thuyết đã được đề xuất. Các sử gia và nhà nhân loại học cho rằng giang mai có mặt trong số những người dân bản địa của châu Mỹ trước khi người châu Âu đây. Tuy nhiên, vấn đề các chủng giang mai đã xuất hiện hàng thiên niên kỷ trên toàn thế giới hay là bệnh bị giới hạn ở Châu Mỹ trong thời kỳ tiền Columbus đã được đem ra tranh luận.


Điều trị mụn rộp sinh dục Herpes

Điều trị mụn rộp sinh dục Herpes


Mụn rộp (herpes) là một loại bệnh do vi rút gây nên. Nếu không biết cách phòng và chữa bệnh kịp thời, mụn rộp sẽ lan rộng và rất khó điều trị khỏi hẳn. Dưới đây các chuyên gia sẽ giúp chúng ta cách điều trị căn bệnh này hiệu quả hơn.

 
1. Thủ phạm gây bệnh

Có 2 loại vi rút chính gây nên bệnh mụn rộp: HSV1 (mụn rộp ở môi) và HSV2 (mụn rộp ở âm đạo). Giống như các bệnh do vi rút gây nên, mụn rộp là một bệnh lây lan. Đặc biệt là những phụ nữ bị bệnh mụn rộp ở âm đạo có thể truyền bệnh này cho người bạn đời của mình khi quan hệ tình dục.

2. Mụn rộp có thể xuất hiện ở đâu?

Mụn rộp có thể xuất hiện ở môi, mắt, tay, chân… Về lý thuyết, mụn rộp có thể phát triển khắp nơi trên cơ thể. Tuy nhiên  số lượng những người bị mụn rộp ở cơ quan sinh dục vẫn chiếm số đông.


3. Nguyên nhân

Khác với nhiều người thường nghĩ bệnh mụn rộp chỉ có thể lây lan giữa 2 người với nhau. Trên thực tế bất cứ ai trong chúng ta đều có thể lây căn bệnh này khi đi bơi, dùng nhà vệ sinh công cộng, quan hệ tình dục… Tuy nhiên bệnh này chỉ lây từ người sang người, súc vật không phải là trung gian truyền bệnh

4. Vì sao ngày càng có nhiều người bị mụn rộp?

Ngại ngùng hay xấu hổ không dám nói căn bệnh này ngay cả với bác sỹ là nguyên nhân chính làm tăng số lượng người mắc bệnh mụn rộp, đặc biệt là những người bị mắc bệnh mụn rộp ở âm đạo. Do không được điều trị kịp thời, bệnh nhanh chóng lây lan sang các vùng bên cạnh và những vùng khác nhau trên cơ thể người bệnh. 



Không thể tự điều trị khỏi bệnh còn gây cho người bệnh những tác động xấu về tâm lý như căng thẳng, stress, lo âu... và rơi vào vòng luẩn quẩn, bế tắc.

Hiện nay ở Pháp có hơn 2 triệu người bị bệnh mụn rộp ở cơ quan sinh dục và ần 70% số này gặp trục trặc trong chuyện phòng; 1/3 số này ngại ngùng không dám đến gặp bác sỹ hoặc nói với người bạn đời của mình và 4/10 người quá lo âu.


5. Vài lời khuyên giúp bạn nhanh khỏi bệnh

Khi phát hiện mình bị mụn rộp bạn cần nhanh chóng đi khám bác sỹ. Các xét nghiệm sẽ cho chẩn đoán chính xác và việc điều trị sẽ đạt kết quả tối ưukhi bạn tuân thủ các nguyên tắc:

- Không sờ vào, không gãi hoặc băng bó những vùng bị tổn thương

- Sử dụng bao cao su trong quan hệ tình dục khi người bạn đời của bạn bị mụn rộp.

- Rửa tay bằng xà phòng sau khi rửa, chạm vào… những vùng tổn thương

- Không dùng chung những dụng cụ như găng tay, khăn mặt… trong nhà tắm, nhà vệ sinh

- Không thơm, hôn… những người đang bị mụn rộp ở môi.

- Không đưa tay lên mắt đề phòng bệnh có thể lây lan lên phần này.

Thứ Bảy, 26 tháng 5, 2012

BỆNH LÂY NHIỄM QUA ĐƯỜNG TÌNH DỤC


(TNO) Bệnh lây nhiễm qua đường tình dục là gì, làm thế nào để không mắc phải các bệnh đó?

Dưới đây là những thông tin rất cần thiết đối với những người có quan hệ tình dục, theo Stayteen.
- Bệnh lây nhiễm qua đường tình dục là gì? Là những bệnh lây lan qua đường quan hệ tình dục, phổ biến nhất là bệnh Chlamydia, HIV/AIDS, mụn giộp, lậu, giang mai, sùi mào gà, rận mu.
- Bệnh lây nhiễm qua đường tình dục có thể tấn công bất kỳ ai, nam hay nữ, bất kể tuổi tác, chủng tộc. Teen và người trưởng thành thường mắc các bệnh này nhiều hơn những người khác.
- Bạn có thể mắc các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục ở bất kỳ hình thức quan hệ tình dục nào, quan hệ qua đường âm đạo, đường miệng hay hậu môn. Một số bệnh loại này có thể được truyền qua da hay chỉ đơn giản chỉ qua một nụ hôn. Điều này có nghĩa là bạn phải biết rõ một người trước khi gần gũi người ấy.
- Khó mà biết được người nào đó có mắc bệnh lây nhiễm qua đường tình dục hay không. Đôi khi các bệnh này có những triệu chứng mà người mắc bệnh có thể thấy hoặc cảm nhận được. Nhưng cũng có khi người mắc bệnh không biết được mình đang mắc bệnh. Ngay cả khi bạn không thể thấy các dấu hiệu của bệnh thì bệnh vẫn có thể lây nhiễm cho người khác.
- Có những bệnh lây nhiễm qua đường tình dục có thể được chữa trị hoàn toàn, nhưng có những bệnh không thể nào chữa khỏi. Nếu mắc phải những bệnh không thể chữa trị được, bạn chỉ có thể cố gắng ngăn chặn các triệu chứng và kiểm soát tình hình.
Nếu không được chữa trị, các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục có thể dẫn đến biến chứng nguy hiểm như viêm xương chậu, làm hỏng các cơ quan, khô âm đạo, ung thư cổ tử cung, hoặc tử vong. Nếu bạn nghĩ bạn gặp phải rắc rối, bạn cần đến khám bác sĩ ngay.
Những điều cần biết về bệnh lây nhiễm qua đường tình dục Các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục có thể dẫn đến biến chứng nguy hiểm - Ảnh: Shutterstock
Làm gì giảm nguy cơ mắc bệnh?
- Trao đổi: Sự trao đổi cởi mở sẽ giúp xây dựng niềm tin và sự tôn trọng giữa hai người, đồng thời giúp giảm nguy cơ mắc bệnh. Thêm vào đó, hãy tìm hiểu xem bạn nên áp dụng biện pháp ngừa thai nào khi quan hệ.
- Thực hành tình dục an toàn hơn:  dành cho nam và nữ rất có ích để ngăn chặn sự lây lan các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục nếu bao cao su được sử dụng phù hợp và đúng cách mỗi khi có quan hệ tình dục. Đa số người có quan hệ tình dục không biết cách sử dụng, và điều này khiến cho họ dễ bị lây nhiễm hơn.
- Chuẩn bị: Bạn cần phải chuẩn bị cho mọi tình huống trước khi quan hệ tình dục. Hãy mang theo bên mình bao cao su và phải đảm bảo là người ấy không mắc bệnh lây nhiễm qua đường tình dục.
- Kiểm tra: Việc kiểm tra sẽ có thể giúp bạn biết được liệu mình và người ấy có bị mắc các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục hay không. Nhiều bệnh loại này không có triệu chứng mà bạn có thể nhận thấy. Do vậy, một người trông có vẻ sạch sẽ và khỏe mạnh không có nghĩa là người ấy thực sự khỏe mạnh. Một số bệnh lây nhiễm qua đường tình dục không thể tìm ra qua các xét nghiệm trong vài tuần hay vài tháng. Vì thế, bạn nên trao đổi với các nhà chuyên môn về thời gian tiến hành xét nghiệm.
- Tránh dùng rượu và thuốc kích thích: Điều này sẽ giúp bạn giảm thiểu nguy cơ mắc phải các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục, mang thai hoặc bị ép quan hệ tình dục trong tình trạng say rượu hay say thuốc.

Khó tin những ca cấp cứu từ buồng massage

Khó tin những ca cấp cứu từ buồng massage
Các bác sĩ khoa Ngoại Thần kinh, chuyên điều trị về cột sống tại BV Chợ Rẫy TPHCM chứng kiến không ít trường hợp vào cấp cứu và bị liệt do đi massage.
Liệt hai chân vì…massage

Ngày 22/5, trao đổi với P.V, BS Nguyễn Ngọc Khang, Phó trưởng khoa Ngoại Thần Kinh, Bệnh viện Chợ Rẫy cho biết cứ vài tháng lại có một, hai trường hợp nhập viện cấp cứu do đi massage, đó là chưa kể những ca đi massage về bị tổn thương nhưng ngại không dám nói.

Cách đây không lâu, bác sĩ Khang đã điều trị cho ông Trần Văn N, 53 tuổi, ngụ tại quận Tân Bình, TP.HCM.

Bác sĩ Khang cho biết những ca cấp cứu do đi massage không phải ít. Ảnh: Thanh Huyền

Bệnh nhân nhập viện trong tình trạng hai chân liệt, không đi lại được.

Qua điều tra bệnh sử, bác sĩ Khang biết được ông N. từng đi massage và bị nạn trong cơ sở V. Trong khi nhân viên thực hiện thao tác dùng chân nhấn vào các đốt sống thì ông thấy đau nhói. Ông đã yêu cầu cô nhân viên kia dừng lại và bỏ về. Về đến nhà, 4 tiếng sau, hai chân của ông N. yếu dần và liệt hẳn.

Qua chụp phim, các bác sĩ nhận thấy ông N. đã bị chèn ép tủy ngực cấp. Bệnh nhân bị tụ máu ngoài màng cứng từ đốt sống số 6 tới đốt sống số 10.

Để cứu ông N. khỏi nguy cơ tàn phế, các bác sĩ khoa Ngoại Thần Kinh đã mổ cấp cứu, cắt bỏ hai cung của đốt sống số 8, 9 vùng ngực để lấy máu tụ trong lòng ống sống và ngoài tủy, giải áp tủy.

Sau khi phẫu thuật 2 ngày, rất may chân của ông N. cử động lại được. Ông đã chuyển về bệnh viện tuyến cơ sở để điều trị tiếp.

Ngoài trường hợp của ông N., bác sĩ Khang cũng từng gặp một ca chuyển đến cấp cứu ngay trong lúc làm massage. Bệnh nhân tên Hùng, 40 tuổi, ngụ tại quận 5.

Anh Hùng may mắn không bị chèn ép tủy nhưng kết quả chẩn đoán bị giãn dây chằng cổ và tổn thương mặt khớp đốt sống ngực.

“Tôi để ý thấy thông thường khi giẫm lưng các cô nhân viên massage hay dùng ngón chân nhấn vào khớp nối giữa các đốt sống để làm giãn dây chằng, đem lại cảm giác sảng khoái cho khách. Điều này là phản khoa học. Ở những nơi massage uy tín người ta không bao giờ nhấn trực tiếp vào đốt sống. Nhân viên massage sẽ giẫm lên hai bên cạnh cột sống, dùng ngón chân miết xuôi theo các dẻ sườn.” – Bác sĩ Khang nói.

Từ đó, bác sĩ Khang cảnh báo người dân không nên để giẫm lưng khi đi massage, hãy massage ở những cơ sở uy tín, đặc biệt không nhờ con giẫm lưng ở nhà bởi trẻ con vô tình chạy, nhảy có thể làm tổn thương đến cột sống.

“60 kg đè lên thì chết chắc”

Bác sĩ Khang nhận định những ca bị tai nạn do massage đa phần là nam giới ở độ tuổi trung niên. Hầu hết khi nhập viện, các tổn thương của họ là ở đốt sống vùng ngực (đốt sống ở vị trí này ít vận động, không chịu được áp lực mạnh.)

Massage không đúng cách dễ gây họa. (ảnh minh họa)

PGS – TS – BS Nguyễn Văn Thắng, chuyên khoa Xương khớp, Bệnh viện Chấn thương chỉnh hình TP.HCM cũng nhận định tình trạng người dân lạm dụng việc massage, đi massage không đúng cách là quá nguy hiểm.

“Giẫm lưng không đúng cách có thể làm hai mấu gai đốt sống giập lên nhau, làm giập nát mô mềm, vỡ mạch máu, tổn thương dây thần kinh, nhẹ thì bị liệt tạm thời, còn nặng sẽ đứt ngang tủy sống và liệt vĩnh viễn” – Tiến sĩ Thắng cho biết.

Ngoài ra, khi giẫm lưng massage, theo tiến sĩ Thắng tương quan về trọng lượng cơ thể hết sức quan trọng: “Ông khách chỉ có 40 kg mà cô nhân viên giẫm lưng nặng tới 60 kg thì…chết là đương nhiên rồi.”

Tiến sĩ Thắng khuyên người dân phải biết lựa chọn loại hình thư giãn, thể thao phù hợp với lứa tuổi. Đối với những người cao tuổi chỉ nên làm những bài massage đơn giản, nhẹ nhàng.

Theo VietNamNet

LỒNG RUỘT Ở TRẺ NHỎ

Lồng ruột ở trẻ nhỏ

Lồng ruột là do một đoạn ruột non chui vào một đoạn ruột già. Dấu hiệu đầu tiên là trẻ bị đau bụng từng cơn, bỏ ăn. Nếu để quá 24 giờ, trẻ có thể bị hoại tử ruột, dẫn đến tử vong.
Lồng ruột là gì?
Trong quá trình phát triển của bào thai, đoạn đầu của ruột già bao gồm manh tràng và đại tràng được cố định vào thành bụng, còn ruột non thì không. Nhưng trong trường hợp manh tràng và đại tràng không được cố định, không dính vào thành bụng, cộng với nhu động quá mạnh của ruột khiến cho ruột non chui vào lòng ruột già sẽ gây ra lồng ruột.
Nếu búi lồng lớn, ruột non và cả những mạch máu nuôi dưỡng đi kèm cũng chui vào đoạn ruột già, khiến ruột bị tắc, các mạch máu nghẽn lại, đoạn ruột lồng sẽ bị hoại tử.
Lồng ruột thường xảy ra ở trẻ còn bú mẹ, hay gặp nhất ở lứa tuổi 4 – 9 tháng. Đặc biệt ở trẻ khoẻ mạnh, bụ bẫm, ham ăn do nhu động ruột mạnh nên càng dễ bị lồng ruột. Ngay cả trong trường hợp cha mẹ, người trông trẻ nô đùa với trẻ làm trẻ cười quá nhiều, hoặc tung trẻ lên cao, rung lắc mạnh… cũng có thể khiến trẻ bị lồng ruột. Tuy nhiên, tới 90% trẻ bị lồng ruột lần đầu tiên không rõ nguyên nhân. Có một số giả thiết cho rằng kích thước của ruột có sự mất cân đối hoặc do quá sản tế bào lympho, trẻ có polip, bị viêm đường hô hấp trên và viêm ruột cũng có thể khiến trẻ bị lồng ruột.
Biểu hiện của lồng ruột
Những biểu hiện sớm nhất thường thấy ở trẻ bị lồng ruột là trẻ đau bụng từng cơn, nôn, bỏ bú. Bệnh thường xảy ra đột ngột khiến trẻ đang khỏe mạnh, chơi đùa bình thường bỗng khóc thét lên, có khi khóc lặng người đi, ưỡn người. Khi hết cơn đau, trẻ lại bú bình thường. Nhưng khoảng 10-20 phút sau, một cơn đau bụng khác lại đến… Cứ như vậy nhiều lần khiến trẻ mệt lả, nằm lịm đi, vã mồ hôi, da xanh tái.
Cùng với đau bụng, trẻ bị nôn, xuất hiện ngay từ cơn đau đầu tiên vì khi trẻ bị lồng ruột sẽ gây ra tắc ruột hoặc bán tắc. Lúc đầu trẻ nôn ra dịch màu xanh ve, nếu để lâu trẻ sẽ nôn ra dịch ruột màu vàng. Do nôn nhiều, trẻ lại không ăn uống được nên cơ thể bị mất nước, dẫn đến rối loạn các chất điện giải, làm cho trẻ rất mệt.
Khi có những biểu hiện trên mà trẻ vẫn không được đưa đến bệnh viện để chữa trị thì khoảng 6-12 tiếng sau, trẻ sẽ đi ngoài ra máu tươi có lẫn chút nhầy, có khi còn lẫn cục máu đông. Đó là dấu hiệu muộn của lồng ruột. Tuy nhiên, đi đại tiện ra máu cũng có thể xuất hiện sớm ở trẻ nhỏ do lồng ruột quá chặt. Khi thấy trẻ đại tiện ra máu, nhiều người tưởng trẻ bị kiết lỵ nên cho uống thuốc chữa kiết lỵ nhưng chỉ làm cho bệnh nặng thêm. Nếu cứ để tình trạng đó khoảng 24 giờ không xử trí gì thì trẻ sẽ nôn liên tục, bụng trướng dần lên, và có thể nguy hiểm đến tính mạng.
Tuy nhiên, không phải trẻ nào lồng ruột cũng có những biểu hiện trên. Nếu nghi ngờ trẻ bị lồng ruột (trẻ khóc thét, bỏ bú, nôn) thì cần đưa trẻ đến bệnh viện để chụp X-quang và siêu âm thì mới có thể chẩn đoán chính xác.

Điều trị lồng ruột

Khi trẻ có những dấu hiệu đầu tiên của bệnh lồng ruột thì cần đưa trẻ đến ngay bệnh viện để việc xử trí được đơn giản và không để lại hậu quả nghiêm trọng. Nếu trẻ bị lồng ruột được phát hiện sớm thì có thể áp dụng phương pháp tháo lồng: bơm hơi qua hậu môn để đẩy chỗ ruột lồng ra.
Ngoài ra, có thể dùng chất cản quang hoặc dùng nước muối sinh lý 9%o để tháo lồng dưới sự kiểm tra của siêu âm, máy chiếu X-quang. Tuy vậy, nhiều trường hợp vẫn phải phẫu thuật tháo lồng do chỗ lồng quá chặt hoặc do trẻ đến viện muộn (quá 6 tiếng). Còn nếu sau 24 tiếng, khi khối ruột lồng đã bị hoại tử, thủng ruột, viêm phúc mạc, thì phải phẫu thuật cắt đại tràng ngoài ổ bụng hoặc cắt nửa đại tràng phải. Sau khi mổ, trẻ phải được chăm sóc tốt, ủ ấm, truyền dịch. Nếu trẻ không được chăm sóc và hồi sức sau mổ tốt, trẻ có thể bị tử vong do suy kiệt và viêm phổi nặng.

Bạn có biết?

  • Bệnh lồng ruột thường gặp nhiều ở trẻ từ 3 đến 12 tháng tuổi và nhiều nhất ở trẻ 9 tháng tuổi.
  • Bệnh lồng ruột phần lớn thường xảy ra bất thình lình ở những trẻ em khỏe mạnh, bụ bẫm, ở bé trai nhiều hơn bé gái
Theo nhiều bác sĩ ngoại khoa, hiện nay vẫn chưa xác định được nguyên nhân gây bệnh lồng ruột, do vậy cũng chưa có cách phòng ngừa hữu hiệu căn bệnh này. Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng do chế độ ăn dặm, thay đổi sữa đột ngột đã làm nhu động ruột của trẻ thay đổi đột ngột dễ gây bệnh lồng ruột. Để ngăn chặn yếu tố nguy cơ gây bệnh lồng ruột, khi cho trẻ ăn dặm, lúc chuyển đổi sữa theo độ tuổi của trẻ các bà mẹ nên cho trẻ ăn từ từ với liều lượng tăng dần.
Theo NLD

PHÒNG CÁC BỆNH LÂY TRUYỀN QUA ĐƯỜNG TÌNH DỤC Ở TRẺ VỊ THÀNH NIÊN



Tổng quan hệ thống về hiệu quả các chương trình ban đầu nhằm ngừa bệnh lây qua đường tình dục ở vị thành niên.

Yamada J, DiCenso A, Feldman L, Cormillott P, Wade K, Wignall R, Thomas H
Mục tiêu của tác giả
Xác định liệu các chương trình phòng ngừa ban đầu có hiệu quả ngừa bệnh lây qua đường tình dục (STD) ở thanh thiếu niên từ 10 đến 19 tuổi.
Tìm kiếm
AIDSLINE, CATLINE, CINAHL, Current Contents, Dissertation Abstracts, ERIC, HealthSTAR, MEDLINE, PsycINFO, và Sociological Abstracts được tìm tính từ thời điểm bắt đầu đến 1998; EMBASE được tìm từ 1993 đến 1998. Từ khóa và từ để tìm có trong phần phụ lục của tổng quan. Các tổng quan gần đây và các nghiên cứu gốc cũng được tìm trong Public Health Effectiveness Database (Region of Hamilton-Wentworth, Social and Public Services Division, PHRED Programme) và Cochrane Library. Các tạp chí chính (liệt kê trong bài báo) được tìm thủ công từ số đầu tiên năm 1993 đến tháng 10/1998. Xem xét phần tài liệu tham khảo của các bài báo thu được. Tiếp xúc các chuyên gia trong lĩnh vực này và ở các cơ quan khác (liệt kê trong bài báo) để tìm nghiên cứu không công bố.
Chọn lựa nghiên cứu: thiết kế nghiên cứu
Ban đầu, thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên (RCT), thử nghiệm lâm sàng đối chứng (CCT), hoặc thiết kế đoàn hệ phân tích được xem xét trước. Tuy nhiên, sau đó các nghiên cứu dùng thiết kế đoàn hệ phân tích bị loại do tìm được đủ số lượng RCT và CCT. Các nghiên cứu không có nhóm chứng đồng thời bị loại. Chỉ các nghiên cứu báo cáo bằng tiếng Anh, hoặc ngôn ngữ mà sẵn có người dịch, được thu nhận. Quá trình theo dõi trong các nghiên cứu được thu nhận biến thiên từ ngay sau can thiệp đến 3 năm sau can thiệp.
Chọn lựa nghiên cứu: can thiệp đặc hiệu
Xem xét các nghiên cứu về bất kỳ chương trình phòng ngừa ban đầu nào, được thiết kế để ngừa STD bằng cách trì hoãn thời điểm bắt đầu giao hợp hoặc thúc đẩy hành vi tình dục an toàn. Bao gồm: chương trình dựa vào trường học, phòng khám dựa vào trường học, các nhà lâm sàng độc lập, dịch vụ dựa vào thực hành, chương trình cộng đồng, chương trình cấp bao cao su, hoặc các chương trình phòng ngừa ban đầu thích hợp khác. Các nghiên cứu bị loại nếu chúng giải quyết các vấn đề phòng ngừa nhiễm STD thứ phát (phòng ngừa thứ phát), hoặc mục tiêu chính của can thiệp là để ngừa thai. Hầu hết các nghiên cứu được thu nhận xem xét các can thiệp dựa vào trường học, với 63% tập trung vào giáo dục STD trong lớp học. Phần lớn các can thiệp dựa trên cơ sở lý thuyết (71%), với 13 cơ sở lý thuyết khác nhau được xác định.
Chọn lựa nghiên cứu: người tham gia
Chỉ các nghiên cứu gồm thanh thiếu niên tuổi từ 10 đến 19 được xem xét để thu nhận. Các nghiên cứu được thu nhận nếu tuổi trung bình nhỏ hơn hoặc bằng 19, hoặc nghiên cứu gồm đối tượng lớn tuổi hơn nhưng có trình bày kết quả riêng biệt của nhóm tuổi nhỏ hơn hoặc bằng 19. Nghiên cứu bị loại nếu mẫu không đại diện cho dân số chung, ví dụ, người đồng giới, người lang thang, thiếu niên đường phố, nghiện hoặc dùng ma túy, thanh thiếu niên bị tù, và mại dâm. Phần trăm nữ giới trong các nghiên cứu được thu nhận thay đổi từ 0 đến 100%.
Chọn lựa nghiên cứu: kết cục
Tổng quan chỉ giới hạn trong các nghiên cứu dùng các kết cục tập trung cụ thể vào các hành vi dự định hoặc thật sự. Các nghiên cứu bị loại nếu tác động của can thiệp chỉ được đo trên kiến thức và thái độ. Các nghiên cứu được thu nhận xem xét ít nhất một trong các kết cục sau: khởi điểm giao hợp (hoặc kiêng tiếp tục); dùng bao cao su; số bạn tình; tần suất giao hợp; tần suất giao hợp không bảo vệ; số trường hợp STD được chẩn đoán.
Chọn lựa nghiên cứu: Làm thế nào để quyết định tính thích hợp của các nghiên cứu gốc?
Hai nhà tổng quan độc lập đánh giá tính thích hợp của mỗi bài báo thu được. Bất kỳ sự không thống nhất nào đều được thảo luận để đạt sự đồng thuận, và khi không giải quyết được, người thứ ba sẽ xem xét nghiên cứu.
Đánh giá giá trị
Dùng một công cụ chuẩn cho điểm chất lượng do các thành viên của Public Health Research Education and Development Program (PHRED) phát triển. Lượng giá các tiêu chuẩn sau: sai lệch lựa chọn, thiết kế nghiên cứu, yếu tố gây nhiễu, làm mù, phương pháp thu thập số liệu, và cách xử lý các trường hợp rút lui hoặc bỏ cuộc. Mỗi tiêu chuẩn được xếp loại tốt, trung bình hoặc yếu, và sau đó cho điểm toàn thể (tốt, trung bình hoặc yếu). Hai nhà tổng quan độc lập đánh giá chất lượng của mỗi bài báo thu được. Bất kỳ sự không thống nhất nào đều được thảo luận để đạt sự đồng thuận, và khi không giải quyết được, người thứ ba sẽ xem xét nghiên cứu.
Data extraction
Hai nhà tổng quan độc lập trích xuất dữ liệu của mỗi nghiên cứu, dùng bảng mẫu do PHRED phát triển. Bất kỳ sự không thống nhất nào giữa hai nhà tổng quan đều được thảo luận. Dữ liệu được trích xuất theo các tiêu chí sau: chi tiết tài liệu tham khảo, thiết kế nghiên cứu, chất lượng nghiên cứu, đối tượng tham gia, can thiệp, đối chứng, đo kết cục, kết quả và bình luận. Dữ liệu được trích xuất riêng cho từng giới nếu được. Kết cục nghiên cứu được mã hóa là '0' nếu không có khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa can thiệp và chứng, là '+' nếu sự khác biệt dương tính có ý nghĩa, và là '-' nếu sự khác biệt âm tính có ý nghĩa. Các can thiệp thu nhận trong tổng quan được mô tả theo mười tiêu chí thiết kế can thiệp của Stanton và cs. (xem Ấn bản khác của các đề tài liên quan)
Phương pháp kết hợp: các nghiên cứu được kết hợp thế nào?
Các nghiên cứu được kết hợp trong một tóm tắt diễn giải. Không thực hiện phân tích tổng hợp do số liệu kết cục của các nghiên cứu được trình bày theo các hình thức khác nhau.
Phương pháp kết hợp: sự khác nhau giữa các nghiên cứu được khảo sát thế nào?
Sự khác biệt giữa các nghiên cứu được thảo luận trong bài.
Kết quả của tổng quan
Hai mươi bốn thử nghiệm đối chứng (gồm 3 RCT) với 34.281 đối tượng (3 nghiên cứu dường như đã dùng chung một quần thể) được thu nhận.
Có 4 nghiên cứu (n=1.391) có giá trị được xếp loại 'trung bình' và 20 nghiên cứu còn lại xếp loại 'yếu'. Một trong số các can thiệp được xem xét bởi 1 trong 4 nghiên cứu loại 'trung bình' được thực hiện tại cơ sở trường đại học (đối tượng tham gia gồm sinh viên nữ chưa tốt nghiệp), trong khi 3 nghiên cứu kia thực hiện tại cộng đồng (đối tượng tham gia gồm người Mỹ gốc Phi có thu nhập thấp và thanh thiếu niên Tây Ban Nha tại Hoa Kỳ).
Thời điểm bắt đầu giao hợp hoặc tiết chế (11 nghiên cứu): chỉ một nghiên cứu xếp loại trung bình đo kết cục này và không cho kết quả có ý nghĩa. Một nghiên cứu loại yếu ghi nhận sự can thiệp đưa đến cải thiện có ý nghĩa thống kê.
Dùng bao cao su (20 nghiên cứu): 8 nghiên cứu (3 xếp loại trung bình) cho thấy việc dùng bao cao su cải thiện có ý nghĩa thống kê.
Số bạn tình (12 nghiên cứu): 4 nghiên cứu (một được xếp loại trung bình) cho thấy số bạn tình giảm có ý nghĩa thống kê.
Tần số của quan hệ tình dục (11 nghiên cứu): 3 nghiên cứu (một được xếp loại trung bình) cho thấy giảm tần số quan hệ tình dục.
Tần suất của giao hợp không bảo vệ (7 nghiên cứu): 5 nghiên cứu (2 được xếp loại trung bình) cho thấy tần số giao hợp không bảo vệ giảm có ý nghĩa thống kê.
Các ca được chẩn đoán STD (4 nghiên cứu): không có nghiên cứu loại trung bình nào đánh giá các ca được chẩn đoán STD.
Thông tin về giá cả
Không có nghiên cứu nào lượng giá hiệu quả chi phí của từng chương trình.
Kết luận của tác giả
Tổng quan thấy rằng có thể cải thiện hành vi thanh thiếu niên để bảo vệ tránh STD. Cũng nhận thấy rằng cả hai loại can thiệp nhằm ngừa STD dựa vào trường học và dựa vào cộng đồng không làm tăng số thanh thiếu niên bắt đầu có quan hệ tình dục, hoặc không làm tăng tần số giao hợp.
Bình luận CRD
Tổng quan này giải quyết một câu hỏi thích hợp dùng các tiêu chuẩn thu nhận và loại trừ rõ ràng. Việc tìm y văn toàn diện và bao gồm nỗ lực nhằm nhận diện dữ liệu không công bố. Hai nhà tổng quan độc lập đánh giá sự tương thích và giá trị các nghiên cứu được thu nhận, và trích xuất dữ liệu. Dữ liệu của các nghiên cứu đã thu nhận được lập bảng, nhưng các kết quả chỉ gồm loại '+' (sự khác biệt dương tính có ý nghĩa), '-' (sự khác biệt âm tính có ý nghĩa) hoặc '0' (không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa can thiệp và chứng) cho mỗi tiêu chí đánh giá kết cục. Không có tiêu chí nào về mức độ của ảnh hưởng được báo cáo. Đánh giá ảnh hưởng chung của can thiệp dùng hệ thống 'đếm phiếu' (vote counting) mà không tính đến mức độ ảnh hưởng thật sự, khoảng tin cậy và chiều của từng nghiên cứu, chỉ cung cấp một cái nhìn rất chung mà có thể làm sai lạc và mất thông tin.
Gợi ý ứng dụng tổng quan vào thực hành và nghiên cứu
Thực hành: Các tác giả nêu rằng can thiệp nên tập trung vào cung cấp bao cao su, thông tin và minh họa cách dùng. Do nhiều nhóm chứng trong các nghiên cứu được tiếp tục cung cấp chương trình qui ước, có khuyến cáo rằng, ở mức tối thiểu, các chương trình qui ước đang có nên tiếp tục. Các nỗ lực thiết kế chương trình đổi mới nên tập trung vào năm khía cạnh mà một can thiệp hiệu quả cần: thiết kế dựa trên lý thuyết, cung cấp các thông tin thật về STD, bài tập xây dựng kỹ năng, dùng người điều phối đã được huấn luyện, và khoảng thời gian tối thiểu 8 giờ.
Nghiên cứu: Các tác giả nêu rằng rất cần thiết kế và lượng giá các can thiệp nhằm ngừa STD dựa vào trường học và dựa vào cộng đồng cho thanh niên Ontario.
Nguồn tài chính
Bộ y tế Ontari, Phân bang sức khỏe cộng đồng, chương trình PHRED.
Tiểu sử
Yamada J, DiCenso A, Feldman L, Cormillott P, Wade K, Wignall R, Thomas H. Tổng quan hệ thống về hiệu quả của chương trình can thiệp ban đầu nhằm ngăn bệnh lây truyền qua đường tình dục ở vị thành niên. Dundas, ON, Canada: Bộ y tế Ontario, Khu vực Hamilton-Wentworth, Ban dịch vụ sức khỏe xã hội và cộng đồng. Đề án thực hành hiệu quả sức khỏe cộng đồng. 1999
Đường dẫn URL đến nghiên cứu gốc
http://old.hamilton.ca/phcs/ephpp/Research/Full-Reviews/98-99/Adolescent -STD-Prevention-review.pdf
Những bài xuất bản có liên quan
Stanton B, Kim N, Galbraith J, Parrot M. Vấn đề thiết kế được đề cập đến trong các đánh giá đã công bố về can thiệp giảm nguy cơ HIV ở vị thành niên: Tổng quan. J Adolesc Health 1996;18:387-96.
Hiện trạng danh mục chủ đề
Danh mục chủ đề theo CRD
Danh mục chủ đề
Adolescent; Adolescent Behavior; Adult; Age Factors; Primary Prevention; Program Evaluation; Sexually Transmitted Diseases /prevention & control
Số gia nhập
12002008014
Ngày nhập cơ sở dữ liệu
31 tháng 3 năm 2003
Hiện trạng hồ sơ
Hồ sơ này là bản tóm tắt có cấu trúc được các nhà phê bình CRD viết. Bài gốc đã được kiểm soát các tiêu chuẩn chất lượng. Từ tháng 9/1996 bản tóm tắt đã được gửi cho các tác giả để viết bàn luận. Các thông tin thêm vào được kết hợp vào trong báo cáo. Được đánh dấu là [A:....].