Tổng quan hệ thống về hiệu quả các chương trình ban đầu nhằm ngừa bệnh lây qua đường tình dục ở vị thành niên.
Yamada J, DiCenso A, Feldman L, Cormillott P, Wade K, Wignall R, Thomas H
Mục tiêu của tác giả
Xác
định liệu các chương trình phòng ngừa ban đầu có hiệu quả ngừa bệnh lây
qua đường tình dục (STD) ở thanh thiếu niên từ 10 đến 19 tuổi.
Tìm kiếm
AIDSLINE,
CATLINE, CINAHL, Current Contents, Dissertation Abstracts, ERIC,
HealthSTAR, MEDLINE, PsycINFO, và Sociological Abstracts được tìm tính
từ thời điểm bắt đầu đến 1998; EMBASE được tìm từ 1993 đến 1998. Từ
khóa và từ để tìm có trong phần phụ lục của tổng quan. Các tổng quan
gần đây và các nghiên cứu gốc cũng được tìm trong Public Health
Effectiveness Database (Region of Hamilton-Wentworth, Social and Public
Services Division, PHRED Programme) và Cochrane Library. Các tạp chí
chính (liệt kê trong bài báo) được tìm thủ công từ số đầu tiên năm 1993
đến tháng 10/1998. Xem xét phần tài liệu tham khảo của các bài báo thu
được. Tiếp xúc các chuyên gia trong lĩnh vực này và ở các cơ quan khác
(liệt kê trong bài báo) để tìm nghiên cứu không công bố.
Chọn lựa nghiên cứu: thiết kế nghiên cứu
Ban
đầu, thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên (RCT), thử nghiệm lâm sàng đối
chứng (CCT), hoặc thiết kế đoàn hệ phân tích được xem xét trước. Tuy
nhiên, sau đó các nghiên cứu dùng thiết kế đoàn hệ phân tích bị loại do
tìm được đủ số lượng RCT và CCT. Các nghiên cứu không có nhóm chứng
đồng thời bị loại. Chỉ các nghiên cứu báo cáo bằng tiếng Anh, hoặc ngôn
ngữ mà sẵn có người dịch, được thu nhận. Quá trình theo dõi trong các
nghiên cứu được thu nhận biến thiên từ ngay sau can thiệp đến 3 năm sau
can thiệp.
Chọn lựa nghiên cứu: can thiệp đặc hiệu
Xem
xét các nghiên cứu về bất kỳ chương trình phòng ngừa ban đầu nào, được
thiết kế để ngừa STD bằng cách trì hoãn thời điểm bắt đầu giao hợp hoặc
thúc đẩy hành vi tình dục an toàn. Bao gồm: chương trình dựa vào trường
học, phòng khám dựa vào trường học, các nhà lâm sàng độc lập, dịch vụ
dựa vào thực hành, chương trình cộng đồng, chương trình cấp bao cao su,
hoặc các chương trình phòng ngừa ban đầu thích hợp khác. Các nghiên cứu
bị loại nếu chúng giải quyết các vấn đề phòng ngừa nhiễm STD thứ phát
(phòng ngừa thứ phát), hoặc mục tiêu chính của can thiệp là để ngừa
thai. Hầu hết các nghiên cứu được thu nhận xem xét các can thiệp dựa
vào trường học, với 63% tập trung vào giáo dục STD trong lớp học. Phần
lớn các can thiệp dựa trên cơ sở lý thuyết (71%), với 13 cơ sở lý
thuyết khác nhau được xác định.
Chọn lựa nghiên cứu: người tham gia
Chỉ
các nghiên cứu gồm thanh thiếu niên tuổi từ 10 đến 19 được xem xét để
thu nhận. Các nghiên cứu được thu nhận nếu tuổi trung bình nhỏ hơn hoặc
bằng 19, hoặc nghiên cứu gồm đối tượng lớn tuổi hơn nhưng có trình bày
kết quả riêng biệt của nhóm tuổi nhỏ hơn hoặc bằng 19. Nghiên cứu bị
loại nếu mẫu không đại diện cho dân số chung, ví dụ, người đồng giới,
người lang thang, thiếu niên đường phố, nghiện hoặc dùng ma túy, thanh
thiếu niên bị tù, và mại dâm. Phần trăm nữ giới trong các nghiên cứu
được thu nhận thay đổi từ 0 đến 100%.
Chọn lựa nghiên cứu: kết cục
Tổng
quan chỉ giới hạn trong các nghiên cứu dùng các kết cục tập trung cụ
thể vào các hành vi dự định hoặc thật sự. Các nghiên cứu bị loại nếu
tác động của can thiệp chỉ được đo trên kiến thức và thái độ. Các
nghiên cứu được thu nhận xem xét ít nhất một trong các kết cục sau:
khởi điểm giao hợp (hoặc kiêng tiếp tục); dùng bao cao su; số bạn tình;
tần suất giao hợp; tần suất giao hợp không bảo vệ; số trường hợp STD
được chẩn đoán.
Chọn lựa nghiên cứu: Làm thế nào để quyết định tính thích hợp của các nghiên cứu gốc?
Hai
nhà tổng quan độc lập đánh giá tính thích hợp của mỗi bài báo thu được.
Bất kỳ sự không thống nhất nào đều được thảo luận để đạt sự đồng thuận,
và khi không giải quyết được, người thứ ba sẽ xem xét nghiên cứu.
Đánh giá giá trị
Dùng
một công cụ chuẩn cho điểm chất lượng do các thành viên của Public
Health Research Education and Development Program (PHRED) phát triển.
Lượng giá các tiêu chuẩn sau: sai lệch lựa chọn, thiết kế nghiên cứu,
yếu tố gây nhiễu, làm mù, phương pháp thu thập số liệu, và cách xử lý
các trường hợp rút lui hoặc bỏ cuộc. Mỗi tiêu chuẩn được xếp loại tốt,
trung bình hoặc yếu, và sau đó cho điểm toàn thể (tốt, trung bình hoặc
yếu). Hai nhà tổng quan độc lập đánh giá chất lượng của mỗi bài báo thu
được. Bất kỳ sự không thống nhất nào đều được thảo luận để đạt sự đồng
thuận, và khi không giải quyết được, người thứ ba sẽ xem xét nghiên
cứu.
Data extraction
Hai
nhà tổng quan độc lập trích xuất dữ liệu của mỗi nghiên cứu, dùng bảng
mẫu do PHRED phát triển. Bất kỳ sự không thống nhất nào giữa hai nhà
tổng quan đều được thảo luận. Dữ liệu được trích xuất theo các tiêu chí
sau: chi tiết tài liệu tham khảo, thiết kế nghiên cứu, chất lượng
nghiên cứu, đối tượng tham gia, can thiệp, đối chứng, đo kết cục, kết
quả và bình luận. Dữ liệu được trích xuất riêng cho từng giới nếu được.
Kết cục nghiên cứu được mã hóa là '0' nếu không có khác biệt có ý nghĩa
thống kê giữa can thiệp và chứng, là '+' nếu sự khác biệt dương tính có
ý nghĩa, và là '-' nếu sự khác biệt âm tính có ý nghĩa. Các can thiệp
thu nhận trong tổng quan được mô tả theo mười tiêu chí thiết kế can
thiệp của Stanton và cs. (xem Ấn bản khác của các đề tài liên quan)
Phương pháp kết hợp: các nghiên cứu được kết hợp thế nào?
Các
nghiên cứu được kết hợp trong một tóm tắt diễn giải. Không thực hiện
phân tích tổng hợp do số liệu kết cục của các nghiên cứu được trình bày
theo các hình thức khác nhau.
Phương pháp kết hợp: sự khác nhau giữa các nghiên cứu được khảo sát thế nào?
Sự khác biệt giữa các nghiên cứu được thảo luận trong bài.
Kết quả của tổng quan
Hai
mươi bốn thử nghiệm đối chứng (gồm 3 RCT) với 34.281 đối tượng (3
nghiên cứu dường như đã dùng chung một quần thể) được thu nhận.
Có
4 nghiên cứu (n=1.391) có giá trị được xếp loại 'trung bình' và 20
nghiên cứu còn lại xếp loại 'yếu'. Một trong số các can thiệp được xem
xét bởi 1 trong 4 nghiên cứu loại 'trung bình' được thực hiện tại cơ sở
trường đại học (đối tượng tham gia gồm sinh viên nữ chưa tốt nghiệp),
trong khi 3 nghiên cứu kia thực hiện tại cộng đồng (đối tượng tham gia
gồm người Mỹ gốc Phi có thu nhập thấp và thanh thiếu niên Tây Ban Nha
tại Hoa Kỳ).
Thời điểm bắt đầu giao hợp hoặc tiết
chế (11 nghiên cứu): chỉ một nghiên cứu xếp loại trung bình đo kết cục
này và không cho kết quả có ý nghĩa. Một nghiên cứu loại yếu ghi nhận
sự can thiệp đưa đến cải thiện có ý nghĩa thống kê.
Dùng
bao cao su (20 nghiên cứu): 8 nghiên cứu (3 xếp loại trung bình) cho
thấy việc dùng bao cao su cải thiện có ý nghĩa thống kê.
Số bạn tình (12 nghiên cứu): 4 nghiên cứu (một được xếp loại trung bình) cho thấy số bạn tình giảm có ý nghĩa thống kê.
Tần số của quan hệ tình dục (11 nghiên cứu): 3 nghiên cứu (một được xếp loại trung bình) cho thấy giảm tần số quan hệ tình dục.
Tần
suất của giao hợp không bảo vệ (7 nghiên cứu): 5 nghiên cứu (2 được xếp
loại trung bình) cho thấy tần số giao hợp không bảo vệ giảm có ý nghĩa
thống kê.
Các ca được chẩn đoán STD (4 nghiên cứu): không có nghiên cứu loại trung bình nào đánh giá các ca được chẩn đoán STD.
Thông tin về giá cả
Không có nghiên cứu nào lượng giá hiệu quả chi phí của từng chương trình.
Kết luận của tác giả
Tổng
quan thấy rằng có thể cải thiện hành vi thanh thiếu niên để bảo vệ
tránh STD. Cũng nhận thấy rằng cả hai loại can thiệp nhằm ngừa STD dựa
vào trường học và dựa vào cộng đồng không làm tăng số thanh thiếu niên
bắt đầu có quan hệ tình dục, hoặc không làm tăng tần số giao hợp.
Bình luận CRD
Tổng
quan này giải quyết một câu hỏi thích hợp dùng các tiêu chuẩn thu nhận
và loại trừ rõ ràng. Việc tìm y văn toàn diện và bao gồm nỗ lực nhằm
nhận diện dữ liệu không công bố. Hai nhà tổng quan độc lập đánh giá sự
tương thích và giá trị các nghiên cứu được thu nhận, và trích xuất dữ
liệu. Dữ liệu của các nghiên cứu đã thu nhận được lập bảng, nhưng các
kết quả chỉ gồm loại '+' (sự khác biệt dương tính có ý nghĩa), '-' (sự
khác biệt âm tính có ý nghĩa) hoặc '0' (không có sự khác biệt có ý
nghĩa giữa can thiệp và chứng) cho mỗi tiêu chí đánh giá kết cục. Không
có tiêu chí nào về mức độ của ảnh hưởng được báo cáo. Đánh giá ảnh
hưởng chung của can thiệp dùng hệ thống 'đếm phiếu' (vote counting) mà
không tính đến mức độ ảnh hưởng thật sự, khoảng tin cậy và chiều của
từng nghiên cứu, chỉ cung cấp một cái nhìn rất chung mà có thể làm sai
lạc và mất thông tin.
Gợi ý ứng dụng tổng quan vào thực hành và nghiên cứu
Thực
hành: Các tác giả nêu rằng can thiệp nên tập trung vào cung cấp bao cao
su, thông tin và minh họa cách dùng. Do nhiều nhóm chứng trong các
nghiên cứu được tiếp tục cung cấp chương trình qui ước, có khuyến cáo
rằng, ở mức tối thiểu, các chương trình qui ước đang có nên tiếp tục.
Các nỗ lực thiết kế chương trình đổi mới nên tập trung vào năm khía
cạnh mà một can thiệp hiệu quả cần: thiết kế dựa trên lý thuyết, cung
cấp các thông tin thật về STD, bài tập xây dựng kỹ năng, dùng người
điều phối đã được huấn luyện, và khoảng thời gian tối thiểu 8 giờ.
Nghiên cứu: Các tác giả nêu rằng rất
cần thiết kế và lượng giá các can thiệp nhằm ngừa STD dựa vào trường
học và dựa vào cộng đồng cho thanh niên Ontario.
Nguồn tài chính
Bộ y tế Ontari, Phân bang sức khỏe cộng đồng, chương trình PHRED.
Tiểu sử
Yamada
J, DiCenso A, Feldman L, Cormillott P, Wade K, Wignall R, Thomas H.
Tổng quan hệ thống về hiệu quả của chương trình can thiệp ban đầu nhằm
ngăn bệnh lây truyền qua đường tình dục ở vị thành niên. Dundas, ON,
Canada: Bộ y tế Ontario, Khu vực Hamilton-Wentworth, Ban dịch vụ sức
khỏe xã hội và cộng đồng. Đề án thực hành hiệu quả sức khỏe cộng đồng.
1999
Đường dẫn URL đến nghiên cứu gốc
http://old.hamilton.ca/phcs/ephpp/Research/Full-Reviews/98-99/Adolescent -STD-Prevention-review.pdf
Những bài xuất bản có liên quan
Stanton
B, Kim N, Galbraith J, Parrot M. Vấn đề thiết kế được đề cập đến trong
các đánh giá đã công bố về can thiệp giảm nguy cơ HIV ở vị thành niên:
Tổng quan. J Adolesc Health 1996;18:387-96.
Hiện trạng danh mục chủ đề
Danh mục chủ đề theo CRD
Danh mục chủ đề
Adolescent;
Adolescent Behavior; Adult; Age Factors; Primary Prevention; Program
Evaluation; Sexually Transmitted Diseases /prevention & control
Số gia nhập
12002008014
Ngày nhập cơ sở dữ liệu
31 tháng 3 năm 2003
Hiện trạng hồ sơ
Hồ
sơ này là bản tóm tắt có cấu trúc được các nhà phê bình CRD viết. Bài
gốc đã được kiểm soát các tiêu chuẩn chất lượng. Từ tháng 9/1996 bản
tóm tắt đã được gửi cho các tác giả để viết bàn luận. Các thông tin
thêm vào được kết hợp vào trong báo cáo. Được đánh dấu là [A:....].