Chủ Nhật, 15 tháng 7, 2012

Bệnh tiêu chảy: nguyên nhân và cách điều trị


Bệnh tiêu chảy: nguyên nhân và cách điều trị

1.Bệnh tiêu chảy

  • Bệnh tiêu chảy hay còn gọi tên dân gian là ỉa chảy là bệnh được đặc trưng bởi phân lỏng, tăng khối lượng phân, tăng tần số đi đại tiện, tiêu chảy có hai dạng là tiêu chảy cấp tínhtiêu chảy mạn tính
benh tieu chay
bệnh tiêu chảy

2.Nguyên ngân gây bệnh tiêu chảy

  • Bệnh thường có liên quan đến những nguyên nhân sau:
    •  nhiễm khuẩn- đây là nguyên nhân thường gặp nhất.Nguyên nhân này là do mất cân bằng giữa vi khuẩn có lợi và vi khuẩn có hại trong đường ruột của chúng ta(do vệ sinh ăn uống kém.v.v)các vi khuẩn có hại khi xâm nhập vào đường ruột chúng ta và nếu chúng mạnh hơn vi khuẩn có lợi chúng sẽ sẽ lấn áp các vi khuẩn có lợi và tiết ra độc tố gây nên tiêu chảy.
    • Nhưng cũng có thể do tích luỹ trong khoang bụng những dịch có áp suất thẩm thấu cao không hấp thụ được, như trong trường hợp thiếu hụt lactose hoặc do những kích thích ở dạ dày-ruột, một nguyên nhân nữa là cũng có thể do ruột có cấu tạo hoặc khả năng nhu động không bình thường.

3.Điều trị bệnh tiêu chảy

  • Như chúng ta đã biết, tình trạng tiêu chảy cũng là một phản ứng có lợi cho cơ thể nhằm đưa hết những chất lạ có hại cho cơ thể như độc tố hoặc các men do vi khuẩn gây hại tiết ra đi ra khỏi cơ thể (theo cơ chế lấy nước trong cơ thể đưa vào ruột để việc thải chất độc ra khỏi cơ thể được dễ dàng hơn). Cho nên ưu tiên hàng đầu trong điều trị bệnh là làm cân bằng vi sinh vật đường ruột(Vi khuẩn có lợi > hoặc = Vi khuẩn có hại) và bù nước và chất điện giải. Các nhóm thuốc ưu tiên sử dụng:
  • Nhóm bù nước và chất điện giải:ORESOL là một điển hình. Nước và chất điện giải đóng góp một vai trò quan trọng trong cơ thể chúng ta, chúng tạo ra sự cân bằng về sinh hoá trong cơ thể cho nên nếu thiếu hụt cơ thể sẽ có những rối loạn nhất định.
  • Men vi sinh: đây thực ra là các vi khuẩn sống(tất nhiên là VK có lợi) được đông khô, khi vào trong ruột chúng sinh sôi rất nhanh tạo ra một đội quân hùng hậu trấn áp các vi khuẩn có hại để lập lại trạng thái cân bằng.
  • Chất hấp thụ: Attapulgit, than hoạt tính chẳng hạn. Chúng có tác dụng hấp thụ các độc tố,khí hơi trong đường ruột.
  • Nhóm hỗ trợ: Khi bị tiêu chảy, bệnh nhân thường có biểu hiện đau bụng, đau quoặn thắt ở vùng rốn, tuy nhiên, bệnh nhân không nên tuỳ tiện sử dụng thuốc hỗ trợ giảm đau mà chỉ nên dùng cao xoa bóp, dầu gió, cao đắp rốn từ thảo dược hoặc cao dán rốn dạng hấp thu mạnh có hỗ trợ điều trị tiêu chảy và chữa đau bụng.
Cần lưu ý: trong điều trị tiêu chảy không nên lạm dụng các thuốc làm giảm nhu động ruột như Loperamid, Opioid.v.v.vì lý do độc tố, vi khuẩn có hại cần được đưa ra khỏi cơ thể thông qua việc đi tiêu mà loại thuốc này làm cản trở quá trình đi tiêu. Bên cạnh đó chúng cũng có một số tác dụng phụ mà ta cần phải thận trọng khi dùng nhất là đối với người lớn tuổi và trẻ em
  • Tiêu chảy cấp tính: Nhóm thuốc chống tiêu chảy chính là các chất hấp phụ như attapulgit, kaolin, pectin và nhóm các thuốc làm giảm nhu động ruột như diphenoxylat, loperamid và codein. Các thuốc nhuận tràng tạo khối phân lớn cũng được dùng như methylcellulose do tính chất hấp thu của chúng. Chất ức chế calmodulin là zaldarid có hiệu quả làm giảm triệu chứng tiêu chảy.
  • Tiêu chảy mãn tính: Thường có liên quan đến một bệnh nào đó trên cơ thể, nên việc chữa triệu chứng tiêu chảy không thích hợp bằng chữa nguyên nhân gây bệnh, ví dụ như dùng cholestyramin chữa tiêu chảy liên quan đến sự hấp thu các acid mật kém. Trong trường hợp không loại trừ được bệnh đã gây ra tiêu chảy mạn tính thì có thể mới chữa triệu chứng, ví dụ như tiêu chảy của bệnh nhân đái tháo đường.

Bệnh tiểu đường: Nguyên nhân, triệu chứng và cách điều trị

Bệnh tiểu đường: Nguyên nhân, triệu chứng và cách điều trị

1. Bệnh tiểu đường là gì ?

bệnh tiểu đường

2. Nguyên nhân gây bệnh tiểu đường.

  • Nguyên nhân chính gây bệnh tiểu đường là do thiếu hóc môn của tuyến tụy.
  • Đây là một tuyến tiêu hóa lớn, không chỉ có chức năng tiết ra dịch tụy để tiêu hóa thức ăn trong ruột, mà còn bài xuất hóc môn insulin đổ vào máu để điều chỉnh lượng đường trong máu và giúp các tế bào của cơ thể sử dụng được chất đường.
  • Những tổn thương ở tụy làm cho nó không tiết ra được insulin sẽ gây hậu quả là đường máu tăng cao và đến mức nào đó (quá ngưỡng hấp thu lại của thận) thì lượng đường dư thừa trong máu sẽ bị đào thải qua nước tiểu gây nên bệnh tiểu đường.

3. Triệu chứng bệnh tiểu đường.

  • Người bị bệnh tiểu đường thường có bốn triệu chứng gợi ý để nghĩ đến bệnh là: ăn nhiều – uống nhiều – tiểu nhiều và sút cân nhiều.
  • Lượng nước tiểu thường từ 3-4 lít hoặc hơn trong 24 giờ, nước trong, khi khô thường để lại vết bẩn hoặc mảng trắng hoặc có ruồi, kiến bâu vào nước tiểu.
  • Ngoài ra, người bị tiểu đường có thể bị béo phì hay gầy sút, lở loét dễ bị nhiễm trùng (mụn nhọt, bắp chuối, nhọt tổ ong…) dai dẳng, khó điều trị. Nặng hơn nữa có thể bị hôn mê, co giật do hạ đường huyết và toan hóa máu.

4. Điều trị bệnh tiểu đường.

  • Luôn theo dõi tình trạng của bệnh, nếu thấy có những chuyển biến bất thường thì nên đến ngay bác sỹ, không nên tự điều trị.
  • Chế độ ăn uống hợp lý và điều độ, đủ chất Đạm – Béo – Bột – Đường – Vitamin – Muối khoáng – Nước.
  • Không nên thay đổi thói quan ăn uống quá nhanh và thay đổi khối lượng của các bữa ăn.
  • Duy trì được hoạt động thể lực bình thường hàng ngày.
  • Ngoài ra có thể dùng thuốc (insulin) để điều trị bệnh tiểu đường theo hướng dẫn của bác sĩ.

Bệnh giang mai: Nguyên nhân, triệu chứng, cách điều trị

Bệnh giang mai: Nguyên nhân, triệu chứng, cách điều trị

1. Bệnh giang mai là gì ?

  • Bệnh giang mai là bệnh lây truyền qua đường tình dục do một loại vi khuẩn hình xoắn như lò xo gọi là xoắn khuẩn giang mai gây ra.
  • Bệnh giang mai là bệnh nguy hiểm, nếu không được điều trị đúng đắn, có thể ảnh hưởng đến nhiều cơ quan của người bệnh, thậm chí ảnh hưởng đến cả thai nhi.
bệnh giang mai

2. Nguyên nhân gây bệnh giang mai.

  • Bệnh do xoắn khuẩn giang mai gây ra, trước tiên gây cho da và niêm mạc, sau vào các phủ tạng như tổ chức dưới da, xương, thần kinh và tim mạch.
  • Nếu mẹ bị bệnh giang mai thì lây cho con khi mang thai và gây giang mai bẩm sinh.
  • Bệnh lây truyền chủ yếu qua đường tình dục, qua truyền máu và từ mẹ sang thai qua rau.
  • Trẻ bị giang mai bẩm sinh khi bú nhờ cũng có thể lây cho bà mẹ này. Thời gian ủ bệnh thường 3-4 tuần lễ.

3. Triệu chứng bệnh giang mai.

Giai đoạn 1
  • Rất quan trọng để phát hiện và điều trị kịp thời.
  • Biểu hiện chính của bệnh giang mai giai đoạn này là vết loét giang mai tại bộ phận sinh dục như ở quy đầu (với nam), môi lớn, môi bé, âm đạo, cổ tử cung (với nữ).
  • Vết loét có đặc điểm nông, hình tròn hay bầu dục, bờ nhẵn, màu đỏ, không ngứa, không đau, không có mủ; đáy vết loét thâm nhiễm cứng và kèm theo nổi hạch hai bên vùng bẹn, cứng và cũng không đau.
  • Vết loét này có thể tự biến đi sau 6 đến 8 tuần lễ kể cả không điều trị nên nhiều người tưởng lầm là khỏi bệnh nhưng thực sự là vi khuẩn lúc đó đã vào máu, bệnh vẫn tiếp tục phát triển với những biểu hiện khác.
Giai đoạn 2
  • Thường bắt đầu sau khi có vết loét từ 6 đến 9 tháng, chủ yếu biểu hiện bằng các tổn thương trên da với các nốt ban màu hồng như hoa đào (đào ban), vết sẩn, nốt phỏng nước, vết loét ở da và niêm mạc.
Giai đoạn 3
  • Bệnh Giang mai phát triển trong các phủ tạng như não, gan, cơ bắp tim mạch …, gây nên các bệnh cảnh khác nhau tùy bộ phận cơ thể bị nhiễm giang mai.

4. Điều trị bệnh giang mai.

Tuy là bệnh nguy hiểm nhưng có thuốc điều trị khỏi hẳn với hiệu quả cao, miễn là phải được phát hiện sớm và điều trị đúng chỉ dẫn của thầy thuốc.
Giai đoạn đầu
  • Lựa chọn đầu tiên cho việc điều trị các bệnh giang mai không biến chứng là một liều duy nhất penicillin G tiêm bắp.
  • Doxycycline và tetracycline cũng là sự lựa chọn thay thế, tuy nhiên không thể sử dụng ở phụ nữ mang thai.
Giai đoạn biến chứng
  • Do penicillin G ít xâm nhập vào hệ thống thần kinh trung ương cho nên đối với những bệnh nhân giang mai thần kinh nên được tiêm penicillin liều cao vào tĩnh mạch tối thiểu là 10 ngày. Nếu bị dị ứng với penicilline thì có thể được sử dụng cetriaxone thay thế.
  • Điều trị tại thời điểm này sẽ hạn chế sự tiến triển hơn nữa của bệnh, nhưng không thể cải thiện các thiệt hại do bệnh giang mai đã gây ra.

Ngộ độc: nguyên nhân, triệu chứng và cách điều trị

Ngộ độc: nguyên nhân, triệu chứng và cách điều trị

Ngộ độc là tình trạng hiếm nhưng nghiêm trọng, gây ra: Khó nói hay nuốt, yếu mặt, mờ mắt, rủ mí mắt, khó thở, buồn nôn, ói mửa và đau bụng, tê liệt…các biến chứng bao gồm: Khó nói, khó nuốt, yếu mỏi kéo dài và khó thở.

Ngộ độc đến trong ba dạng chính:

ngộ độc
- Trẻ sơ sinh bị ngộ độc. Hình thức này phổ biến nhất của bệnh ngộ độc bắt đầu sau khi bào tử vi khuẩn Clostridium botulinum phát triển trong đường ruột của bé. Nó thường xảy ra trong độ tuổi từ 2 đến 6 tháng.
- Qua thực phẩm bị ngộ độc. Các vi khuẩn có hại phát triển mạnh và sản xuất các chất độc trong môi trường với thiếu ôxy, chẳng hạn như trong thực phẩm đóng hộp.
- Vết thương ngộ độc. Nếu các vi khuẩn này vào một vết thương, nó có thể gây nhiễm trùng nguy hiểm và tạo ra các độc tố.

Triệu chứng khi ngộ độc

Các dấu hiệu và triệu chứng của ngộ độc thực phẩm thường bắt đầu từ 12 đến 36 giờ sau khi độc tố vào cơ thể. Nếu ngộ độc trẻ sơ sinh có liên quan đến thực phẩm, chẳng hạn như mật ong, các vấn đề nói chung sẽ bắt đầu trong khung thời gian này. Tuy nhiên, các triệu chứng của bệnh ngộ độc vết thương thường bắt đầu khoảng 10 ngày sau khi đang bị nhiễm bệnh do vi khuẩn.
Các dấu hiệu và triệu chứng qua thực phẩm và ngộ độc vết thương bao gồm:
- Khó nuốt hay nói .
- Yếu cả hai bên của khuôn mặt.
- Mờ mắt.
- Rủ mí mắt.
- Khó thở.
- Buồn nôn, ói mửa và đau bụng (chỉ có ở bệnh ngộ độc qua thực phẩm).
- Tê liệt.

Trẻ sơ sinh bị ngộ độc:

- Táo bón (thường là dấu hiệu đầu tiên).
- Mềm do yếu cơ chuyển động, và vấn đề kiểm soát đầu.
- Khóc yếu.
- Khó chịu.
- Nhỏ nước dãi.
- Rủ mí mắt.
- Mệt mỏi.
- Khó khăn bú hay cho ăn.
- Tê liệt.
Một số dấu hiệu và triệu chứng thường không có mặt với các bệnh ngộ độc, trong đó không có độ cao huyết áp hay nhịp tim, rối loạn không có và không có sốt. Tuy nhiên, đôi khi sốt hiện diện với vết thương ngộ độc.
Tìm kiếm sự chăm sóc y tế khẩn cấp, nếu nghi ngờ rằng đã bị ngộ độc. Điều trị sớm sẽ tăng cơ hội sống sót. Tìm kiếm sự chăm sóc y tế kịp thời cũng có thể phục vụ để thông báo cho cơ quan y tế công cộng, những người có thể giúp người khác từ ăn uống bị ô nhiễm thực phẩm.
Bởi vì tất cả các loại bệnh ngộ độc có khả năng có thể gây ra cái chết, tất cả các loại bệnh ngộ độc được coi là trường hợp khẩn cấp y tế.

Nguyên nhân của ngộ độc

Trẻ sơ sinh bị ngộ độc:

Trẻ sơ sinh ngộ độc sau khi tiêu thụ các bào tử của vi khuẩn, mà sau đó phát triển và nhân lên trong ruột và tạo ra độc tố. Nguồn gốc của bệnh ngộ độc cho trẻ sơ sinh có thể từ mật ong, nhưng nhiều khả năng tiếp xúc với đất bị ô nhiễm với vi khuẩn.

Qua thực phẩm bị ngộ độc:

Nguồn gốc của bệnh ngộ độc qua thực phẩm thường từ thực phẩm đóng hộp tại nhà, chẳng hạn như đậu xanh, ngô và củ cải đường. Tuy nhiên, bệnh cũng đã xảy ra từ ớt, khoai tây nướng và dầu truyền với tỏi. Khi ăn thức ăn có chứa các độc tố, nó sẽ phá vỡ chức năng thần kinh, gây tê liệt.

Vết thương ngộ độc:

Khi vi khuẩn C. botulinum nhập vào một vết thương, có thể là một chấn thương mà không nhận thấy, nó có thể nhân lên và tạo ra độc tố. Vết thương ngộ độc đã tăng lên trong những thập kỷ gần đây ở những người tiêm chích heroin, có thể chứa các bào tử của vi khuẩn. Một số người cũng đã nhận được bệnh ngộ độc từ hít phải các bào tử từ cocaine.

Có lợi ích cho độc tố botulinum ?

- Có thể tự hỏi làm thế nào độc hại như vậy bao giờ có thể có lợi, nhưng các nhà khoa học đã tìm thấy rằng tác động làm tê liệt của các chất độc botulinum và làm cho nó hữu ích trong trường hợp nhất định. Độc tố Botulinum (Botox, Myobloc) có thể là một thuốc có hiệu quả khi được sử dụng với số lượng rất nhỏ.
- Độc tố Botulinum đã được sử dụng để làm giảm nếp nhăn trên khuôn mặt bằng cách ngăn ngừa co thắt của cơ bắp dưới da, và cho các trường hợp y tế khác, chẳng hạn như co thắt mí mắt và mồ hôi nách nặng. Tuy nhiên, hiếm hoi đã có lần xuất hiện của tác dụng phụ nghiêm trọng, chẳng hạn như tê liệt cơ bắp mở rộng ra ngoài vùng được điều trị, với việc sử dụng các chất độc botulinum vì lý do y tế.

Biến chứng của ngộ độc

Bởi vì nó ảnh hưởng đến kiểm soát cơ bắp trong cơ thể, độc tố botulinum có thể gây ra nhiều biến chứng. Mối nguy hiểm ngay lập tức nhất là sẽ không thể thở, đó là nguyên nhân gây tử vong nhiều nhất ở bệnh ngộ độc. biến chứng khác có thể bao gồm:
- Khó nói.
- Khó nuốt.
- Kéo dài sự yếu mỏi.
- Khó thở.
điều trị ngộ độc

Phòng và điều trị ngộ độc

Đối với trường hợp ngộ độc thực phẩm, các bác sĩ đôi khi làm sạch hệ tiêu hóa bằng cách gây ói mửa và cho thuốc để tăng đi tiêu. Nếu có bệnh ngộ độc ở vết thương, bác sĩ có thể cần phải phẫu thuật loại bỏ mô bị nhiễm bệnh.

Kháng độc tố:

Nếu được chẩn đoán ban đầu với các bệnh ngộ độc qua thực phẩm hoặc các vết thương, tiêm thuốc kháng độc làm giảm nguy cơ biến chứng. Các thuốc kháng độc tự gắn nó với độc tố mà vẫn còn lưu hành trong máu và giữ nó làm hại dây thần kinh. Các thuốc kháng độc có thể không gắn với độc tố, tuy nhiên, đảo ngược bất cứ thiệt hại thần kinh đã được thực hiện.
Thuốc kháng độc không đề nghị cho trường hợp ngộ độc trẻ sơ sinh, vì nó không ảnh hưởng đến các vi trùng gây bệnh trong hệ thống tiêu hóa của bé. Một điều trị được gọi là globulin miễn dịch bệnh ngộ độc được sử dụng để chữa trị cho trẻ sơ sinh.

Hỗ trợ thở:

Nếu gặp khó thở, có thể sẽ cần phải có thông khí cơ khí. Các lực thở không khí vào phổi của thông qua một ống đưa vào trong đường thở bằng mũi hoặc miệng. Có thể dùng máy thở cho đến vài tuần khi các tác động của độc tố dần dần giảm bớt .
Phục hồi chức năng:
Khi khôi phục lại, cũng có thể cần điều trị để cải thiện giọng nói, nuốt và các chức năng khác bị ảnh hưởng bởi căn bệnh này.

PHÒNG CHỐNG NGỘ ĐỘC:

Sử dụng đúng kỹ thuật đóng hộp:
Hãy chắc chắn sử dụng các kỹ thuật thích hợp khi các loại thực phẩm đóng hộp tại nhà để đảm bảo rằng bất kỳ vi trùng bệnh ngộ độc trong thức ăn được tiêu hủy.
- Áp suất nấu ăn những thực phẩm này tại 121C trong ít nhất 30 phút.
- Hãy xem xét những thực phẩm này cho sôi 10 phút trước khi phục vụ mình.
- Chuẩn bị và thực phẩm lưu trữ một cách an toàn.
Không được ăn thực phẩm bảo quản nếu vỏ hộp của nó phồng lên hoặc nếu thực phẩm có mùi hư. Tuy nhiên, hương vị và mùi sẽ không phải luôn luôn cho sự hiện diện của C. botulinum. Một số chủng không làm cho thức ăn mùi hôi hay mùi vị bất thường.
Trẻ sơ sinh bị ngộ độc:
Để giảm nguy cơ ngộ độc cho trẻ sơ sinh, tránh cho mật ong ngay cả một hương vị rất nhỏ với em bé ở độ tuổi dưới 1 năm.
Vết thương ngộ độc:
Để ngăn chặn vết thương ngộ độc và các bệnh nghiêm trọng khác, không bao giờ tiêm hoặc hít ma túy

Triệu chứng ngộ độc


Triệu chứng khi ngộ độc

Các dấu hiệu và triệu chứng của ngộ độc thực phẩm thường bắt đầu từ 12 đến 36 giờ sau khi độc tố vào cơ thể. Nếu ngộ độc trẻ sơ sinh có liên quan đến thực phẩm, chẳng hạn như mật ong, các vấn đề nói chung sẽ bắt đầu trong khung thời gian này. Tuy nhiên, các triệu chứng của bệnh ngộ độc vết thương thường bắt đầu khoảng 10 ngày sau khi đang bị nhiễm bệnh do vi khuẩn.
Các dấu hiệu và triệu chứng qua thực phẩm và ngộ độc vết thương bao gồm:
- Khó nuốt hay nói .
- Yếu cả hai bên của khuôn mặt.
- Mờ mắt.
- Rủ mí mắt.
- Khó thở.
- Buồn nôn, ói mửa và đau bụng (chỉ có ở bệnh ngộ độc qua thực phẩm).
- Tê liệt.

Trẻ sơ sinh bị ngộ độc:

- Táo bón (thường là dấu hiệu đầu tiên).
- Mềm do yếu cơ chuyển động, và vấn đề kiểm soát đầu.
- Khóc yếu.
- Khó chịu.
- Nhỏ nước dãi.
- Rủ mí mắt.
- Mệt mỏi.
- Khó khăn bú hay cho ăn.
- Tê liệt.
Một số dấu hiệu và triệu chứng thường không có mặt với các bệnh ngộ độc, trong đó không có độ cao huyết áp hay nhịp tim, rối loạn không có và không có sốt. Tuy nhiên, đôi khi sốt hiện diện với vết thương ngộ độc.
Tìm kiếm sự chăm sóc y tế khẩn cấp, nếu nghi ngờ rằng đã bị ngộ độc. Điều trị sớm sẽ tăng cơ hội sống sót. Tìm kiếm sự chăm sóc y tế kịp thời cũng có thể phục vụ để thông báo cho cơ quan y tế công cộng, những người có thể giúp người khác từ ăn uống bị ô nhiễm thực phẩm.
Bởi vì tất cả các loại bệnh ngộ độc có khả năng có thể gây ra cái chết, tất cả các loại bệnh ngộ độc được coi là trường hợp khẩn cấp y tế.

Nguyên nhân của ngộ độc

Trẻ sơ sinh bị ngộ độc:

Trẻ sơ sinh ngộ độc sau khi tiêu thụ các bào tử của vi khuẩn, mà sau đó phát triển và nhân lên trong ruột và tạo ra độc tố. Nguồn gốc của bệnh ngộ độc cho trẻ sơ sinh có thể từ mật ong, nhưng nhiều khả năng tiếp xúc với đất bị ô nhiễm với vi khuẩn.

Qua thực phẩm bị ngộ độc:

Nguồn gốc của bệnh ngộ độc qua thực phẩm thường từ thực phẩm đóng hộp tại nhà, chẳng hạn như đậu xanh, ngô và củ cải đường. Tuy nhiên, bệnh cũng đã xảy ra từ ớt, khoai tây nướng và dầu truyền với tỏi. Khi ăn thức ăn có chứa các độc tố, nó sẽ phá vỡ chức năng thần kinh, gây tê liệt.

Vết thương ngộ độc:

Khi vi khuẩn C. botulinum nhập vào một vết thương, có thể là một chấn thương mà không nhận thấy, nó có thể nhân lên và tạo ra độc tố. Vết thương ngộ độc đã tăng lên trong những thập kỷ gần đây ở những người tiêm chích heroin, có thể chứa các bào tử của vi khuẩn. Một số người cũng đã nhận được bệnh ngộ độc từ hít phải các bào tử từ cocaine.

Có lợi ích cho độc tố botulinum ?

- Có thể tự hỏi làm thế nào độc hại như vậy bao giờ có thể có lợi, nhưng các nhà khoa học đã tìm thấy rằng tác động làm tê liệt của các chất độc botulinum và làm cho nó hữu ích trong trường hợp nhất định. Độc tố Botulinum (Botox, Myobloc) có thể là một thuốc có hiệu quả khi được sử dụng với số lượng rất nhỏ.
- Độc tố Botulinum đã được sử dụng để làm giảm nếp nhăn trên khuôn mặt bằng cách ngăn ngừa co thắt của cơ bắp dưới da, và cho các trường hợp y tế khác, chẳng hạn như co thắt mí mắt và mồ hôi nách nặng. Tuy nhiên, hiếm hoi đã có lần xuất hiện của tác dụng phụ nghiêm trọng, chẳng hạn như tê liệt cơ bắp mở rộng ra ngoài vùng được điều trị, với việc sử dụng các chất độc botulinum vì lý do y tế.

Biến chứng của ngộ độc

Bởi vì nó ảnh hưởng đến kiểm soát cơ bắp trong cơ thể, độc tố botulinum có thể gây ra nhiều biến chứng. Mối nguy hiểm ngay lập tức nhất là sẽ không thể thở, đó là nguyên nhân gây tử vong nhiều nhất ở bệnh ngộ độc. biến chứng khác có thể bao gồm:
- Khó nói.
- Khó nuốt.
- Kéo dài sự yếu mỏi.
- Khó thở.
điều trị ngộ độc

Phòng và điều trị ngộ độc

Đối với trường hợp ngộ độc thực phẩm, các bác sĩ đôi khi làm sạch hệ tiêu hóa bằng cách gây ói mửa và cho thuốc để tăng đi tiêu. Nếu có bệnh ngộ độc ở vết thương, bác sĩ có thể cần phải phẫu thuật loại bỏ mô bị nhiễm bệnh.

Kháng độc tố:

Nếu được chẩn đoán ban đầu với các bệnh ngộ độc qua thực phẩm hoặc các vết thương, tiêm thuốc kháng độc làm giảm nguy cơ biến chứng. Các thuốc kháng độc tự gắn nó với độc tố mà vẫn còn lưu hành trong máu và giữ nó làm hại dây thần kinh. Các thuốc kháng độc có thể không gắn với độc tố, tuy nhiên, đảo ngược bất cứ thiệt hại thần kinh đã được thực hiện.
Thuốc kháng độc không đề nghị cho trường hợp ngộ độc trẻ sơ sinh, vì nó không ảnh hưởng đến các vi trùng gây bệnh trong hệ thống tiêu hóa của bé. Một điều trị được gọi là globulin miễn dịch bệnh ngộ độc được sử dụng để chữa trị cho trẻ sơ sinh.

Hỗ trợ thở:

Nếu gặp khó thở, có thể sẽ cần phải có thông khí cơ khí. Các lực thở không khí vào phổi của thông qua một ống đưa vào trong đường thở bằng mũi hoặc miệng. Có thể dùng máy thở cho đến vài tuần khi các tác động của độc tố dần dần giảm bớt .
Phục hồi chức năng:
Khi khôi phục lại, cũng có thể cần điều trị để cải thiện giọng nói, nuốt và các chức năng khác bị ảnh hưởng bởi căn bệnh này.

PHÒNG CHỐNG NGỘ ĐỘC:

Sử dụng đúng kỹ thuật đóng hộp:
Hãy chắc chắn sử dụng các kỹ thuật thích hợp khi các loại thực phẩm đóng hộp tại nhà để đảm bảo rằng bất kỳ vi trùng bệnh ngộ độc trong thức ăn được tiêu hủy.
- Áp suất nấu ăn những thực phẩm này tại 121C trong ít nhất 30 phút.
- Hãy xem xét những thực phẩm này cho sôi 10 phút trước khi phục vụ mình.
- Chuẩn bị và thực phẩm lưu trữ một cách an toàn.
Không được ăn thực phẩm bảo quản nếu vỏ hộp của nó phồng lên hoặc nếu thực phẩm có mùi hư. Tuy nhiên, hương vị và mùi sẽ không phải luôn luôn cho sự hiện diện của C. botulinum. Một số chủng không làm cho thức ăn mùi hôi hay mùi vị bất thường.
Trẻ sơ sinh bị ngộ độc:
Để giảm nguy cơ ngộ độc cho trẻ sơ sinh, tránh cho mật ong ngay cả một hương vị rất nhỏ với em bé ở độ tuổi dưới 1 năm.
Vết thương ngộ độc:
Để ngăn chặn vết thương ngộ độc và các bệnh nghiêm trọng khác, không bao giờ tiêm hoặc hít ma túy

Dậy thì sớm :nguyên nhân, triệu chứng và cách điều trị


Dậy thì sớm :nguyên nhân, triệu chứng và cách điều trị

Dậy thì sớm ở một số trẻ em là một quá trình phức tạp được gọi là điều chỉnh trục dưới đồi-tuyến yên-sinh dục (HPG) khi xảy ra ở tuổi dậy thì.

Định nghĩa về bệnh dậy thì sớm

Tuổi dậy thì là khi thay đổi cơ thể của một đứa trẻ thành một người trưởng thành. Nó bao gồm sự tăng trưởng nhanh chóng của xương và cơ bắp, những thay đổi về hình dạng cơ thể và kích thước, phát triển khả năng của cơ thể để sinh sản.
Tuổi dậy thì thường bắt đầu ở trẻ em gái ở độ tuổi từ 8 và 12 và ở các bé trai ở độ tuổi từ 9 và 14. Tuổi dậy thì sớm là tuổi dậy thì bắt đầu trước khi cho bé gái 8 tuổi và trước khi cho bé trai 9 tuổi.
Nguyên nhân của dậy thì sớm thường có thể không được tìm thấy. Hiếm khi, các điều kiện như nhiễm trùng, rối loạn nội tiết tố, các khối u, những bất thường não hoặc chấn thương có thể gây dậy thì sớm. Điều trị dậy thì sớm thường bao gồm các thuốc làm chậm phát triển hơn.
dậy thì sớm

Triệu chứng dậy thì sớm

Các dấu hiệu và triệu chứng của dậy thì sớm bao gồm phát triển trong các bước sau trước khi 8 tuổi ở nữ và trước 9 tuổi ở bé trai.
Trẻ gái
  • Vú tăng trưởng.
  • Kinh nguyệt.
Trẻ trai
  • Mở rộng tinh hoàn và dương vật.
  • Râu (thường phát triển đầu tiên trên môi trên).
  • Tăng cường tiếng nói.
Cả hai trẻ gái và trẻ trai
  • Lông mu hoặc nách.
  • Tăng trưởng nhanh.
  • Mụn trứng cá.
  • Mùi cơ thể người lớn.
Đến gặp bác sĩ khi
Thực hiện một cuộc hẹn với bác sĩ của con quý vị cho một đánh giá nếu con có bất kỳ dấu hiệu hoặc triệu chứng của dậy thì sớm.

Nguyên nhân gây dậy thì sớm

Để hiểu rõ nguyên nhân gây dậy thì sớm ở một số trẻ em, là hữu ích để biết những gì gây ra ở tuổi dậy thì bắt đầu. Một quá trình phức tạp được gọi là điều chỉnh trục dưới đồi-tuyến yên-sinh dục (HPG) khi xảy ra ở tuổi dậy thì. Quá trình này bao gồm các bước sau:
Não bắt đầu quá trình. Một phần của não gọi là vùng dưới đồi sản xuất gonadotropin-releasing hormone (Gn-RH).
Các hormone tuyến yên phát hành thêm. Gn-RH chỉ huy tuyến yên – một tuyến hình nhỏ đậu của bộ não – phát hành thêm hai kích thích tố: luteinizing hormone (LH) và hormone kích thích nang trứng (VSATTP).
Hormone sinh dục được sản xuất. LH và FSH làm cho buồng trứng sản xuất kích thích tố tham gia vào sự tăng trưởng và phát triển các đặc điểm tình dục nữ (estrogen) và tinh hoàn để sản xuất hormon chịu trách nhiệm cho sự tăng trưởng và phát triển các đặc điểm tình dục nam (testosterone). Các tuyến thượng thận cũng bắt đầu sản xuất estrogen và testosterone.
Thay đổi vật lý xảy ra. Việc sản xuất estrogen và testosterone gây ra những thay đổi vật lý của tuổi dậy thì.
Lý do quá trình này bắt đầu sớm trong một số trẻ em phụ thuộc vào loại dậy thì sớm: Dậy thì sớm hoặc dậy thì sớm trung tâm ngoại vi.
Dậy thì sớm trung ương
Thường không có nguyên nhân nhận dạng cho các loại dậy thì sớm.
Trong dậy thì sớm trung tâm, toàn bộ trục HPG bắt đầu quá sớm. Mặc dù chúng bắt đầu sớm hơn, mô hình và thời gian của các bước trong quá trình này là khác thường. Đối với phần lớn trẻ em với tình trạng này, không có vấn đề y tế cơ sở và không có lý do nhận dạng cho trục HPG khi nó bắt đầu.
Trong trường hợp hiếm hoi, những điều sau đây có thể gây dậy thì sớm trung ương:
Một khối u trong não hoặc dây cột sống (hệ thống thần kinh trung ương).
Bị nhiễm trùng, chẳng hạn như viêm não hay viêm màng não.
Một khiếm khuyết trong hiện tại bộ não khi sinh, chẳng hạn như sự tích tụ chất lỏng dư thừa (tràn dịch não) hoặc khối u không phải ung thư (hamartoma).
Bức xạ vào não hay cột sống.
Tổn thương não hoặc dây cột sống.
Sự tắc nghẽn dòng máu chảy tới (thiếu máu cục bộ) não.
Hội chứng McCune-Albright – một căn bệnh di truyền có ảnh hưởng đến xương, màu da và gây ra vấn đề nội tiết.
Tăng sản thượng thận bẩm sinh – một nhóm các rối loạn di truyền liên quan đến sản xuất nội tiết tố bất thường của tuyến thượng thận
Suy giáp – một tình trạng mà tuyến giáp không sản xuất đủ hormone.
Dậy thì sớm ngoại vi
Estrogen hoặc testosterone trong cơ thể của trẻ gây ra loại dậy thì sớm.
Dậy thì sớm ngoại vi là ít phổ biến hơn so với dậy thì sớm trung tâm, sẽ xảy ra mà không có sự tham gia của Gn-RH. Thay vào đó, nguyên nhân là phát hành của estrogen hay testosterone vào cơ thể vì vấn đề với buồng trứng, tinh hoàn, tuyến thượng thận hoặc tuyến yên.
Trong cả hai gái và trai, sau đây có thể dẫn đến dậy thì sớm bị ngoại vi:
Một khối u ở tuyến thượng thận hoặc trong tuyến yên tiết ra estrogen hoặc là testosterone.
Hội chứng McCune-Albright.
Tiếp xúc với các nguồn bên ngoài của estrogen hay testosterone, chẳng hạn như các loại kem hoặc thuốc mỡ.
Dậy thì sớm ngoại vi ở trẻ gái cũng có thể được kết hợp với:
  • U nang buồng trứng.
  • Các khối u buồng trứng.
Dậy thì sớm ngoại vi ở trẻ trai cũng có thể là do:
Một khối u trong các tế bào sản xuất tinh trùng (tế bào mầm), hoặc trong các tế bào mà sản xuất testosterone (tế bào Leydig).
Gene đột biến – một rối loạn hiếm gặp gọi là gonadotropin, là do một khiếm khuyết ở gen, có thể dẫn đến việc sản xuất ban đầu của testosterone ở các bé trai, thường là ở độ tuổi từ 1 đến 4.

Điều trị dậy thì sớm

Điều trị dậy thì sớm phụ thuộc vào nguyên nhân.
Điều trị dậy thì sớm trung ương
Hầu hết trẻ em bị dậy thì sớm trung tâm, trong đó không có điều kiện y tế cơ sở, có thể điều trị hiệu quả bằng thuốc. Điều trị này, được gọi là điều trị St-RH, thường bao gồm một mũi tiêm thuốc hàng tháng, như leuprolide, dừng trục HPG và chậm phát triển hơn nữa. Đứa trẻ tiếp tục nhận được thuốc này cho đến khi đến tuổi bình thường của tuổi dậy thì. Một khi dừng thuốc, quá trình dậy thì bắt đầu lại.
Điều trị tình trạng y tế cơ sở
Nếu một điều kiện y tế đang gây dậy thì sớm của trẻ, điều trị các điều kiện đó là cần thiết để ngăn chặn sự tiến bộ của tuổi dậy thì. Ví dụ, nếu một đứa trẻ có một khối u sản xuất các hormon và gây dậy thì sớm, sự tiến triển của tuổi dậy thì thường sẽ dừng lại khi khối u được phẫu thuật cắt bỏ.
Đối phó và hỗ trợ
Trẻ em bắt đầu tuổi dậy thì sớm có thể cảm nhận khác nhau từ các đồng nghiệp, có thể gây ra các vấn đề xã hội và cảm xúc như lòng tự trọng thấp, trầm cảm và lạm dụng thuốc. Là cha mẹ, cũng có thể có vấn đề đối phó với sự phát triển sớm của trẻ.
Nếu con hoặc các thành viên khác của gia đình đang gặp khó khăn trong đối phó, tìm kiếm sự tư vấn. Tư vấn tâm lý có thể giúp gia đình hiểu rõ hơn và xử lý các cảm xúc, những vấn đề và thách thức đi cùng với dậy thì sớm. Nếu có thắc mắc hoặc muốn hướng dẫn về cách tìm một cố vấn có trình độ, nói chuyện với một thành viên của nhóm chăm sóc sức khỏe.

Phòng chống dậy thì sớm

Một số các yếu tố nguy cơ dậy thì sớm, chẳng hạn như giới tính và chủng tộc, không thể tránh khỏi. Nhưng, có những điều có thể làm để giảm nguy cơ của trẻ phát triển dậy thì sớm, bao gồm:
Giữ tránh nguồn bên ngoài của estrogen và testosterone – thuốc theo toa cho người lớn trong nhà, bổ sung chế độ ăn uống có chứa estrogen hay testosterone, ví dụ.
Khuyến khích duy trì một trọng lượng khỏe mạnh

Động đực : nguyên nhân, triệu chứng và cách điều trị


Động đực : nguyên nhân, triệu chứng và cách điều trị

1.Động đực là gì ?

  •  Động đực là biểu hiện tình dục của  một phần tự nhiên của cuộc sống toàn diện. Nhưng nếu đang bị ám ảnh với ý nghĩ tình dục, cảm xúc hoặc hành vi có ảnh hưởng đến sức khỏe, công việc, các mối quan hệ  hoặc các phần khác của cuộc sống, có thể đã có hành vi tình dục cưỡng chế ép buộc.
  •  Ép buộc quan hệ tình dục đôi khi được gọi hypersexuality, chứng hay động đực hay nghiện tình dục – có thể liên quan đến một trải nghiệm tình dục thú vị bình thường mà trở thành một nỗi ám ảnh. Hoặc ép buộc quan hệ tình dục có thể bao gồm hình ảnh tưởng tượng hoặc các hoạt động ngoài các giới hạn của văn hóa, pháp lý hay đạo đức chấp nhận hành vi tình dục.

dong-duc

2.Triệu chứng của động đực

  • Các hành vi ép buộc tình dục ở ngoài phạm vi thực hiện thường được chấp nhận, gọi là paraphilias khi những hành vi này từ cưỡng bách thường xuyên phong cách mặc quần áo đến có ham muốn tình dục đối với trẻ em (ấu dâm).
  • Các triệu chứng cưỡng bách hành vi tình dục khác nhau về loại hình và mức độ nghiêm trọng. Một số dấu hiệu cho thấy có thể đấu tranh với hành vi tình dục ép buộc bao gồm:
- Xung động tình dục đang căng thẳng và cảm thấy như thể đang ngoài tầm kiểm soát.
- Mặc dù cảm thấy định hướng tham gia vào các hành vi tình dục nhất định, có thể hoặc không thể tìm thấy một nguồn các hoạt động của niềm vui hay sự hài lòng.
- Sử dụng cưỡng bách hành vi tình dục như là thoát ra từ các vấn đề khác, chẳng hạn như sự cô đơn, lo âu, trầm cảm hoặc căng thẳng.
- Tiếp tục tham gia vào các hành vi tình dục nguy hiểm bất chấp hậu quả nghiêm trọng, chẳng hạn như khả năng nhận được hoặc cho người khác một căn bệnh qua đường tình dục, sự mất mát của các mối quan hệ quan trọng, gặp khó khăn trong công việc hay các vấn đề pháp lý.
- Có vấn đề thiết lập và duy trì sự gần gũi tình cảm, ngay cả khi lập gia đình hoặc trong một mối quan hệ cam kết.
Có một loạt các hoạt động tình dục có thể được cảnh báo dấu hiệu của hành vi tình dục cưỡng bách. Ví dụ như:
- Có nhiều bạn tình hoặc ngoại tình.
- Quan hệ tình dục với các đối tác ẩn danh hoặc gái mại dâm.
- Tránh sự tham gia của tình cảm trong mối quan hệ tình dục.
- Sử dụng thương mại giới tính qua điện thoại và các dịch vụ Internet.
- Tham gia vào thủ dâm quá mức.
- Thường xuyên sử dụng vật liệu khiêu dâm.
- Tham gia vào quan hệ tình dục masochistic hoặc tàn bạo.
- Bệnh thích khỏa thân.
- Có một định hình về đối tác tình dục không thể đạt được.

3.Nguyên nhân gây động đực

  • Sự mất cân bằng các hóa chất não tự nhiên. Một số hóa chất cấp cao trong não (dẫn truyền thần kinh) như dopamine, serotonin và norepinephrine có thể liên quan đến hành vi tình dục cưỡng bách. Những hóa chất trong não cũng giúp điều chỉnh tâm trạng.
  • Hàm lượng hoóc môn giới tính. Androgen là hormon giới tính xảy ra tự nhiên trong cả đàn ông và phụ nữ. Mặc dù androgen cũng có một vai trò quan trọng trong ham muốn tình dục, không rõ ràng chính xác chúng có liên quan đến hành vi tình dục cưỡng bách như thế nào.
  • Điều kiện ảnh hưởng đến não. Một số bệnh hoặc vấn đề sức khỏe có thể gây thiệt hại đến các bộ phận của bộ não có ảnh hưởng đến hành vi tình dục. xơ cứng, động kinh, bệnh Huntington và chứng mất trí – tất cả được kết hợp với hành vi tình dục cưỡng bách. Ngoài ra, điều trị bệnh Parkinson với một số loại thuốc chủ vận dopamine có thể gây ra hành vi ép buộc tình dục.
  • Thay đổi trong não bộ. Ép buộc quan hệ tình dục là một chứng nghiện mà thực sự có thể làm thay đổi của các mạch thần kinh não bộ theo thời gian, mạng lưới các dây thần kinh cho phép các tế bào não đến giao tiếp với nhau. Những thay đổi này có thể gây ra các phản ứng dễ chịu bằng cách tham gia vào hành vi tình dục và các phản ứng khó chịu khi hành vi này là dừng lại.

Nguy cơ gây bệnh động đực

  • Hành vi tình dục cưỡng bách có thể xảy ra ở cả nam giới và phụ nữ, mặc dù phổ biến nhất ở nam giới. Nó cũng có thể ảnh hưởng đến bất cứ ai không phân biệt sở thích tình dục dù là dị tính, đồng tính hay lưỡng tính.
  • Ép buộc quan hệ tình dục thường xảy ra ở những người có:
- Vấn đề lạm dụng rượu hay ma túy.
- Một tình trạng tâm lý, chẳng hạn như là một chứng rối loạn tâm trạng, rối loạn kiểm soát xung động hoặc vấn đề sức khỏe tâm thần khác.
- Một lịch sử của lạm dụng chất thay thế hay tình dục.

benh-dong-duc

4.Biến chứng của bệnh động đực

  • Hành vi tình dục cưỡng bách có thể có nhiều hậu quả tiêu cực ảnh hưởng đến cả bản thân và người khác. có thể:
- Cuộc đấu tranh với cảm giác tội lỗi, xấu hổ và lòng tự trọng thấp.
- Phát triển điều kiện y tế tâm thần khác, chẳng hạn như căng thẳng cực độ, trầm cảm và lo âu.
- Bỏ rơi hoặc nói dối để gia đình và đối tác, huỷ hoại các mối quan hệ có ý nghĩa.
- Tích lũy mua các dịch vụ nội dung khiêu dâm và tình dục.
- Nhiễm HIV, viêm gan hoặc bệnh qua đường tình dục khác, hoặc thông qua một bệnh truyền qua đường tình dục với người khác.
- Tham gia vào sử dụng chất không lành mạnh, chẳng hạn như lạm dụng ma túy hoặc rượu.
- Bị bắt giữ đối với tội phạm tình dục.
- Mất tập trung hoặc tham gia vào các hoạt động tình dục nơi làm việc, rủi ro công việc.
- Phải đối mặt với thời kỳ mang thai không mong muốn và hậu quả của nó.

5.Điều trị bệnh động đực

  • Điều trị cho hành vi tình dục thường bao gồm việc cưỡng chế tâm lý trị liệu, thuốc men và các nhóm tự lực. Mục tiêu chính của điều trị là để giúp quản lý và giảm các hành vi quá mức trong khi duy trì các hoạt động tình dục lành mạnh.
  • Những người nghiện khác, vấn đề sức khỏe nghiêm trọng về tinh thần hoặc những người gây nguy hiểm cho những người khác có thể hưởng lợi từ điều trị nội trú ban đầu. Cho dù bệnh nhân nội trú hoặc ngoại trú, điều trị có thể căng thẳng đầu tiên. Và có thể điều trị định kỳ, điều trị liên tục trong những năm qua rất hữu ích để ngăn ngừa tái phát.
  • Hãy tìm một nhà cung cấp sức khỏe tâm thần, chẳng hạn như một bác sĩ tâm thần hay tâm lý học, những người có kinh nghiệm trong điều trị các rối loạn hành vi tình dục. Bác sĩ gia đình có thể cung cấp cho tên của một chuyên gia, hoặc có thể liên hệ với một trung tâm y tế và yêu cầu giới thiệu.
  • Nếu có hành vi ép buộc tình dục, cũng có thể cần phải điều trị cho một tình trạng sức khỏe tâm thần. Những người có hành vi tình dục ép buộc thường có vấn đề lạm dụng rượu hoặc ma túy hoặc các vấn đề sức khỏe tâm thần khác mà cần phải điều trị, hành vi đặc biệt là ám ảnh cưỡng chế, lo lắng hay rối loạn tâm trạng như trầm cảm.
  • Tìm sự giúp đỡ cho một hành vi tình dục có thể khó khăn bởi vì nó như một vấn đề sâu sắc cá nhân. Cố gắng dấu bất kỳ sự xấu hổ hay lúng túng và tập trung vào những lợi ích của việc điều trị. Hãy nhớ rằng không một mình – cuộc đấu tranh rất nhiều người với tình dục kêu gọi mà là cực kỳ mạnh mẽ và khó quản lý. Cung cấp dịch vụ sức khỏe tâm thần hiểu điều này và được đào tạo để có sự hiểu biết, kín đáo và hữu ích. Hãy nhớ, những gì nói với một bác sĩ hoặc nhân viên tư vấn sức khỏe tâm thần được bảo mật trừ trường hợp thừa nhận với quy hoạch hoặc hành vi tội phạm hoặc làm tổn hại đến bản thân hoặc người khác.
  • Tâm lý trị liệu. Một số hình thức của tâm lý có thể giúp cưỡng chế hành vi tình dục. Chúng bao gồm:
  • Psychodynamic tâm lý. Điều này dưới hình thức tâm lý trị liệu tập trung vào nâng cao nhận thức về những suy nghĩ vô thức và hành vi, phát triển những hiểu biết mới vào động lực và giải quyết xung đột.
  • liệu pháp hành vi nhận thức. Hình thức trị liệu này giúp xác định không lành mạnh, niềm tin và hành vi tiêu cực và thay thế bằng lành mạnh, tích cực.
  • Nhóm điều trị. Gặp gỡ thường xuyên với một nhóm, theo hướng dẫn của một chuyên gia sức khỏe tâm thần để khám phá những cảm xúc và các mối quan hệ.
  • Gia đình trị liệu hoặc tư vấn hôn nhân. Ép buộc hành vi tình dục ảnh hưởng đến toàn bộ gia đình, vì vậy nó rất hữu ích để liên quan đến trẻ em đối tác hoặc trong các buổi trị liệu.
  • Thuốc men. Một số thuốc có thể hữu ích bởi vì nó tác động về hóa chất trong não liên quan đến những suy nghĩ ám ảnh và hành vi và làm giảm các chất hóa học, cung cấp khi hành động những hành vi này. Những thuốc hoặc thuốc tốt nhất phụ thuộc vào tình hình tổng thể và điều kiện sức khỏe tâm thần hoặc các chứng nghiện khác có thể có.
  •  Có thể phải thử một số loại thuốc, hoặc kết hợp các loại thuốc để tìm thấy những gì tốt nhất cho mình với các tác dụng phụ ít nhất. Thuốc dùng để điều trị hành vi tình dục cưỡng bách thường được sử dụng chủ yếu cho các điều kiện khác. Chúng bao gồm:
  • Thuốc chống trầm cảm. Những người thường được sử dụng để điều trị hành vi tình dục cưỡng bách là chất ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRIs). Chúng bao gồm fluoxetine (Prozac), paroxetin (Paxil), sertraline (Zoloft) và những loại khác.
  • Tâm trạng ổn định. Ví dụ như lithium (Eskalith, Lithobid). Những thuốc này thường được dùng để điều trị rối loạn lưỡng cực (hưng trầm cảm), nhưng có thể làm giảm không kiểm soát được thúc đẩy tình dục.
  • Naltrexone (ReVia). Thuốc này thường được sử dụng để điều trị chứng nghiện rượu và ngăn chặn các phần của bộ não  mà cảm thấy hài lòng với hành vi gây nghiện nhất định.
  • Anti-androgen. Những thuốc này làm giảm tác dụng sinh học của hormone giới tính (androgen) ở nam giới. Một ví dụ là medroxyprogesterone. Bởi vì chúng làm giảm tình dục thúc đẩy, chống androgen thường được sử dụng ở nam giới có hành vi ép buộc tình dục là nguy hiểm cho người khác, chẳng hạn như ấu dâm.
  • Luteinizing hormone giải phóng hormone (LHRH). Uống thuốc có thể làm giảm tình dục suy nghĩ ám ảnh bằng cách giảm sản xuất testosterone.
  • Thuốc chống lo âu. Ví dụ bao gồm clonazepam (KLONOPIN), lorazepam (ATIVAN), chlordiazepoxide (Librium), diazepam (Valium) và alprazolam (Xanax). Những thuốc này được sử dụng để giảm lo âu nghiêm trọng và gây hấn trong các tình huống khẩn cấp, nhưng nói chung là tránh vì chúng có thể làm trầm trọng thêm hành vi cưỡng chế trong thời gian dài.

Phòng chóng bệnh động đực

  • Không phải rõ ràng cách cưỡng bách hành vi tình dục có thể được ngăn chặn, nhưng một vài điều có thể giúp giữ nó trong kiểm soát:
  • Nhận trợ giúp ban đầu cho các vấn đề với các hành vi tình dục. Xác định và điều trị các triệu chứng sớm có thể giúp ngăn ngừa cưỡng bách hành vi tình dục từ nhẹ trở nên tệ hơn theo thời gian, hoặc leo thang thành một vòng xoáy đi xuống của xấu hổ, vấn đề tự trọng và hành vi có hại.
  • Tìm kiếm sự điều trị sớm cho các rối loạn sức khỏe tâm thần. Hành vi tình dục ép buộc có thể trở nên tồi tệ bởi trầm cảm, lo lắng hoặc hành vi ám ảnh cưỡng chế.
  • Xác định và tìm sự giúp đỡ cho vấn đề lạm dụng ma túy và rượu. Khi bị rối loạn sức khỏe tâm thần, lạm dụng có thể gây ra mất kiểm soát và bất hạnh mà làm suy giảm và có thể thúc đẩy hướng tới hành vi tình dục không lành mạnh.
  • Tìm kiếm sự điều trị lạm dụng tình dục trẻ em. Nhiều người có hành vi tình dục cưỡng bách đã lạm dụng tình dục khi còn nhỏ. Chuyên môn thích hợp điều trị có thể giúp chữa lành những vết sẹo cảm xúc

Rối loạn cương dương: Nguyên nhân, triệu chứng, cách điều trị.

Rối loạn cương dương: Nguyên nhân, triệu chứng, cách điều trị.

1. Rối loạn cương dương là gì ?

  • Rối loạn cương dương (liệt dương) hay còn gọi là yếu sinh lý  là sự rối loạn chức năng tình dục ở nam giới khi dương vật không đủ hay không giữ được độ cứng làm mất khả năng đi vào âm đạo khi giao hợp. Hay nói cách khác độ cương cứng của dương vật không đủ để tiến hành cuộc giao hợp một cách trọn vẹn.
  • Tuy rối loạn cương dương là một chứng rất phổ biến. Khoảng 5% người nam trên 40 tuổi và 15-25% nam giới trên 65 tuổi có triệu chứng rối loạn cương dương.
rối loạn cương dương

2. Nguyên nhân gây rối loạn cương dương.

Có cả hai yếu tố chính gây ra chứng liệt dương:  tâm thần và cơ thể. Hai yếu tố này có thể ảnh hưởng riêng biệt, cũng có thể cùng lúc.
  • Cơ chế cương được kiểm soát bằng một hệ thống thần kinh tự động. Những dây thần kinh đối giao cảm đi từ xương thiên 2-4 giữ nhiệm vụ chính. vì vậy đối với những bệnh nhân khi bị tổn thương hoặc bị cắt phần trên của xương thiên sẽ có nguy cơ mắc chứng rối loạn cương dương cao.
  • Những yếu tố bệnh lý: trầm cảm, đái tháo đường, sử dụng hóa chất có tác hại đến tinh thần, thần kinh (rượu, bia, ma tuý, cần sa và các loại thuốc cấm v.v….) cũng là nguyên nhân dẫn đến liệt dương.
  • Ngoài ra những yếu tố tâm lý , ví dụ như những kích thích nhận được từ mắt, tai, mũi (khi nhìn thấy một hình ảnh kích thích, nghe một chuyện gợi dục, tưởng tượng một cảnh…, hay một xúc cảm,một thay đổi về nội tiết) cũng là nguyên nhân gây cương, làm liệt hay rối loạn cương dương.
nguyên nhân rối loạn cương dương

3. Triệu chứng của rối loạn cương dương.

  • Tinh hoàn nhỏ hơn bình thường.
  • Dương vật không bình thường, không thể cương cứng.
  • Tinh thần không thoải mái, tâm trạng lo lắng, thiếu sức sống.
  • Xuất tinh sớm.

4. Cách điều trị rối loạn cương dương.

  • Thường xuyên tập thể dục thể thao, giữ tinh thần và cơ thể khỏe mạnh.
  • Hạn chế sử dụng các chất kích thích : rượu, bia, ma túy, …
  • Dùng các bài thuốc bổ dương, thuốc cường dương.
  • Phẫu thuật, sử dụng thanh kim loại dễ uốn nhét vào thể xốp bên dưới dương vật.

Xuất tinh sớm


Xuất tinh sớm: Nguyên nhân, triệu chứng, cách điều trị

1. Xuất tinh sớm là gì ?

  • Xuất tinh sớm là hiện tượng xuất tinh sau một khoảng thời gian ngắn không theo chủ định và mong muốn của người đàn ông.
  • Đây là một bệnh sinh lý thường gặp, theo thống kê thì khoảng 20% nam giới rơi vào tình trạng xuất tinh sớm. Nguyên nhân gây ra hiện tượng này phần lớn có nguồn gốc tâm lý.
  • Xuất tinh sớm không hề có lợi, tác hại của nó khiến: giảm khoái cảm tình dục, gây rối loạn cương dương ở nam giới, dẫn đến cơ thể mệt mỏi…
xuất tính sớm

2. Nguyên nhân gây xuất tinh sớm.

  • Ngoài nguyên nhân bẩm sinh, hầu hết các trường hợp xuất tinh sớm là do vấn đề tâm lí – bao gồm: lo lắng, căng thẳng hoặc do những kích thích quá độ mà người nam không tự điều khiển được cảm xúc của mình …
  • Những người có thói quen thủ dâm nhiều hoặc có cấu tạo dương vật khác biệt cũng có nguy cơ bị xuất tinh sớm.
  • Dưới góc độ sinh lý các nhà khoa học cho rằng xuất tinh sớm do sự rối nhiễu của hệ thống các receptor và các chất dẫn truyền thần kinh serotonin.

3. Triệu chứng xuất tinh sớm.

  • Thời gian giao hợp ngắn , có thể có các trường hợp sau :
    - Chỉ vừa chạm nhẹ vào cơ quan sinh dục đã xuất tinh.
    - Vừa vào đến âm đạo đã xuất tinh.
    - Sau một vài động tác.
    - Sau một phút.
  • Không tự kiểm soát được phản xạ xuất tinh, tức là không có khả năng trì hoãn để kéo dài thời gian xuất tinh.
  • Cảm giác không thoả mãn sau xuất tinh: cùng với yếu tố thứ 2, đây là yếu tố quan trọng. Cảm giác không thoả mãn xảy ra ở cả 2 vợ chồng, gây ra tổn hại đến mối quan hệ vợ chồng.

4. Điều trị xuất tinh sớm.

  • Chủ yếu là qua điều trị tâm lí: thư giãn, cố gắng không lo nghĩ đến “công tác” kéo dài cuộc giao hợp, hoạt động giao hợp chậm lại hoặc cố nghĩ đến chuyện gì khác trong lúc đang lúc hưng phấn cực độ, mang bao cao su để làm dương vật ít nhạy cảm v.v…
  • Hoạt động tình dục đều đặn thường xuyên với tâm lý ổn định thì sẽ bào mòn đi cảm giác nóng bỏng lúc đầu là một phương pháp áp dụng trong điều trị xuất tinh sớm.
  • Người bị xuất tinh sớm nên tránh dùng rượu, thuốc lá, thuốc cấm.
  • Ngoài ra có thể dùng một số loại thuốc đặc biệt để kéo dài thời gian giao hợp, chống xuất tinh sớm

Bệnh sởi: nguyên nhân, triệu chứng và cách điều trị


Bệnh sởi: nguyên nhân, triệu chứng và cách điều trị

Bệnh sởi

bệnh Sởi là một bệnh truyền nhiễm cấp tính với các triệu chứng sốt, phát ban, chảy nước mũi, ho, mắt đỏ… bệnh có thể gặp ở trẻ em, người lớn nếu không có miễn dịch phòng bệnh, có thể gây thành dịch. Bệnh sởi tuy ít gây tử vong nhưng biến chứng có thể gặp là: viêm tai giữa, viêm phổi, tiêu chảy, khô loét giác mạc mắt và đôi khi viêm não sau sởi, đặc biệt ở trẻ em suy dinh dưỡng…
benh soi

CÁC TRIỆU CHỨNG CỦA BỆNH SỞI:

- Khoảng 10 tới 12 ngày sau khi tiếp xúc với siêu vi sởi, những triệu chứng sau đây có thể xẩy ra:
1. Sốt
2. Ho khan
3. Chảy nước mũi
4. Mắt đỏ
5. Không chịu được ánh sáng
6. Những nốt nhỏ xíu với trung tâm mầu xanh trắng xuất hiện bên trong miệng nơi gò má. Những nốt này có tên là đốm Koplik.
7. Người mọc ra những đốm đỏ lớn, phẳng, chập vào nhau
Diễn Biến Của Bệnh
Bệnh sởi thường bắt đầu với một cơn sốt khá nhẹ, kèm theo những triệu chứng nhưho, chảy mũi, mắt đỏ và đau cổ họng. Khoảng 2, 3 ngày sau, đốm Koplik nổi lên, đốm này là dấu hiệu đặc biệt của bệnh sởi. Sau đó, bệnh nhân có thể bị sốt cao lên tới 104 hay 105 độ F. Cùng lúc đó, những mảng đỏ nổi lên, thường là ở trên mặt, theo đường tóc và sau tai. Những vết đỏ hơi ngứa này có thể dấn lan xuống ngực, lưng và cuối cùng xuống tới đùi và bàn chân. Khoảng một tuần sau, những vết nhỏ này sẽ nhạt dần, vết nào xuất hiện trước sẽ hết trước.

NGUYÊN NHÂN GÂY BỆNH SỞI:

- Lây qua đường hô hấp.
- Lây trực tiếp khi bệnh nhân ho, hắt hơi, nói chuyến…
- Lây gián tiếp ít gặp vì virus sởi dễ bị diệt ở ngoại cảnh.
Bệnh sởi gây ra do siêu vi sởi. Bệnh này hay lây đến nỗi 90% những người tiếp xúc với bệnh nhân sẽ bị lây sởi nếu chưa chích ngừa. Siêu vi sởi có ở mũi và cổ họng của bệnh nhân.
Họ thường đã có thể lây bệnh cho người khác 4 ngày trước khi vết đỏ xuất hiện. Khi bệnh nhân ho, hắt xì, hay nói chuyện, những giọt nước nhỏ xíu có chứa siêu vi sẽ bắn ra không khí và người khác có thể hít vào hoặc những giọt này có thể rơi xuống một nơi nào đó nhưmặt bàn, điện thoại…Khi ta sờ vào những nơi này và đưa tay lên mũi hay miệng, ta sẽ bị lây bệnh
Một khi siêu vi sởi vào cơthể bệnh nhân, chúng thường mọc vào trong những tế bào đằng sau cổ họng và phổi. Sau đó bệnh sẽ lan khắp cơthể kể cả hệ hô hấp và da.
Mầm bệnh:
virus sởi thuốc họ Paramyxoviridae, virus hình cầu, đường kính 120 – 250nm, sức chịu đựng yếu, dễ bị diệt với các thuốc khử trùng thông thường, ánh sáng mặt trời, sức nóng… Ở nhiệt độ 56 độ C bị diệt trong 30 phút.
Virus sởi có hai kháng nguyên
- Kháng nguyên ngưng kết hồng cầu (Hemagglutinin).
- Kháng nguyên tan hồng cầu (Hemolysin)
Khi virus vào trong cơ thể bệnh nhân sẽ kích thích sinh kháng thể. Bằng kĩ thuật kết hợp bổ thể và kĩ thuật ức chế ngưng kết hồng cầu… giúp cho chẩn đoán bệnh.
Kháng thể xuất hiện từ ngày thứ 2 – 3 sau khi mọc ban và tốn tại lâu dài. Miễn dịch trong sở là miễn dịch bền vững.

Điều trị

Chủ yếu là điều trị triệu chứng – săn sóc và nuôi dưỡng.
- Hạ sốt: phương pháp vật lí, thuốc hạ sốt thông thường (Paracetamol).
- An thần.
- Thuốc ho, long đờm
- Kháng histamin: Dimedron, Pipolphen.
- Sát trùng mũi họng: nhỏ mắt nhỏ mũi bằng dung dịch Chloromycetin, Argyrol…
- Kháng sinh chỉ dùng khi có bội nhiễm và dùng cho trẻ dưới 2 tuổi, và trẻ suy dinh dưỡng.
- Khi có biến chứng: viêm thanh quản, viêm não, sởi ác tính thì dùng kháng sinh và corticoid.
- Các biện pháp hồi sức tùy theo triệu chứng của bệnh nhân: hồi sức hô hấp khi có suy hô hấp (thở O2, hô hấp hỗ trợ…) hồi sức tim mạch…
- Chế độ ăn uống tốt.

các biến chứng của bệnh sởi:

 Biến chứng đường hô hấp

Viêm thanh quản
- Giai đoạn sớm, là do virus sởi: xuất hiện ở giai đoạn khởi phát, giai đoạn đầu của mọc ban thường mất theo ban,hay có Croup giả, gây cơn khó thở do co thắt thanh quản.
- Giai đoạn muộn: do bội nhiễm (hay gặp do tụ cầu, liên cầu, phế cầu…), xuất hiện sau mọc ban. Diễn biến thường nặng: sốt cao vọt lên, ho ông ổng, khàn tiêng, khó thở, tím tái.
 Viêm phế quản
Thường do bội nhiễm, xuất hiện vào cuối thời kì mọc ban. Biểu hiện sốt lại, ho nhiều, nghe phổi có ran phế quản, bạch cầu tăng, neutro tăng, X quang có hình ảnh viêm phế quản.
 Viêm phế quản – phổi
Do bội nhiễm, thường xuất hiện muộn sau mọc ban. Biểu hiện nặng: sốt cao khó thở, khám phổi có ran phế quản và ra nổ. X quang có hình ảnh phế quản phế vêm (nốt mờ rải rác 2 phổi). Bạch cầu tăng, neutro tăng, thường là nguyên nhân gây tử vong trong bệnh sởi, nhất là ở trẻ nhỏ.

Biến chứng thần kinh

Viêm não – màng não – tủy cấp
Là biến chứng nguy hiểm gây tử vong và di chứng cao. Gặp ở 0,1 – 0,6% bệnh nhân sởi. Thường gặp ở trẻ lớn (tuổi đi học), vào tuần đầu của ban (ngày 3 – 6 của ban). Khởi phát đột ngột, sốt cao vọt co giật, rối loạn ý thức: u ám – hôn mê, liệt ½ người hoặc 1 chi, liệt dây III, VII hay gặp hội chứng tháp – ngoại tháp, tiểu não, tiền đình…
- Viêm màng não kiểu thanh dịch (do virus).
- Viêm tủy: liệt 2 chi dưới, rối loạn cơ vòng.
Cơ chế: có 2 giả thuyết, cho là phản ứng dị ứng hoặc là phản ứng miễn dịch bệnh lí.
Viêm màng não
- Viêm màng não thanh dịch do viru sởi
- Viêm màng não mủ sau viêm tai do bội nhiễm.
 Viêm não chất trắng bán cấp xơ hóa(Van bogaert)
Hay gặp ở tuổi 2 – 20 tuổi, xuất hiện muộn sau vài năm, điều này nói lên virus sởi có thể sống tiềm tàng nhiều năm trong cơ thể bệnh nhân có đáp ứng miễn dịch bất thường. Diến biến bán cấp từ vài tháng đến 1 năm. Bệnh nhân chết trong tình trạng tăng tương lực cơ và co cứng mất não.
3.3.3. Biến chứng đường tiêu hóa
3.3.3.1. Viêm niêm mạc miệng
- Lúc đầu do virus sởi, thường hết cùng với ban.
- Muộn thường do bội nhiễm
Cam mã tấu (noma)
Xuất hiện muộn, do bội nhiễm xoắn khuẩn Vincent là một loại vi khuẩn hoại thư gây loét niêm mạc miệng, lan sâu rộng vào xương hàm gây hoại tử niêm mạc, viêm xương, rụng răng, hơi thở hôi thối.
Viêm ruột
Do bội nhiễm các loại vi khuẩn như shigella, E. coli…

Biến chứng tai – mũi – họng

- Viêm mũi họng bội nhiễm
- Viêm tai – viêm tai xương chũm.

 Biến chứng do suy giảm miễn dịch

Dễ mắc thêm các bệnh khác như lao, bạch hầu, ho gà…