Chủ Nhật, 22 tháng 7, 2012

Thai chết lưu - Nguyên nhân và ảnh hưởng

hai chết lưu - Nguyên nhân và ảnh hưởng

Trong thời gian sống trong tử cung, mặc dù được mẹ bảo vệ nhưng thai vẫn có thể bị chết ở bất kỳ thời điểm nào. Thai chết lưu là tất cả các trường hợp trứng đã thụ tinh và làm tổ được trong tử cung, nhưng không phát triển được thành thai nhi trưởng thành, bị chết và lưu lại trong tử cung trên 48 giờ. Những nguy cơ đối với sức khoẻ của người mẹ khi thai chết lưu

Trước hết, thai chết lưu thường gây nên cảm giác lo hãi ở người mẹ và mọi người trong gia đình vì bị ám ảnh bởi việc đang mang một xác chết trong bụng. Tuy nhiên, phải nói ngay rằng cái thai chết đó không gây nên mối nguy hiểm gì cho sức khỏe và tính mạng của người mẹ khi không có biến chứng.

Về tiến triển, thai chết lưu trong trường hợp còn quá non tháng (1-2 tháng) có thể tự tiêu biến đi. Nhiều khi chính bà mẹ cũng không biết mình đã có thai và thai đã chết lưu. Nếu thai đã lớn thì sẽ sẩy (thai 3-6 tháng), hoặc đẻ (thai trên 6 tháng) ra ngoài. Tuy vậy thời hạn từ khi thai chết đến lúc sẩy hoặc đẻ ở mỗi người một khác. Thông thường thai chết ở tuổi thai càng lớn thì thời gian lưu lại trong buồng tử cung càng ngắn. Quá trình sẩy hoặc đẻ của thai chết lưu diễn biến như các ca sẩy hoặc đẻ bình thường nhưng thời gian dọa sẩy và chuyển dạ đẻ thường dài hơn và máu có thể ra nhiều hơn. Cũng phải có các cơn co bóp của dạ con gây đau, cổ dạ con phải mở hết thì thai mới có thể ra được.
 
Mặt cắt đứng của tử cung khi có thai
 
Điều nguy hiểm nhất đối với người bị thai chết lưu là ối bị vỡ sớm khi chưa có dấu hiệu sẩy hay chuyển dạ, vì qua nơi màng ối rách, vi khuẩn sẽ vào buồng ối và dạ con gây nhiễm khuẩn trầm trọng, lúc này có thể nguy hiểm đến tính mạng của người mẹ.
Điều nguy hiểm thứ hai là khi thai lưu lại quá lâu trong dạ con (3-4 tuần trở lên) có thể gây ra tình trạng rối loạn đông máu dẫn đến băng huyết nặng ở người mẹ sau sẩy hoặc đẻ.

Nguyên nhân dẫn đến tình trạng thai chết lưu
Có rất nhiều nguyên nhân gây ra thai chết lưu và cũng có rất nhiều trường hợp thai chết lưu mà không tìm được nguyên nhân
Những nguyên nhân từ phía người mẹ như:
- Mẹ mắc các bệnh lý mãn tính: Viêm thận, suy gan, thiếu máu, lao phổi, bệnh tim, huyết áp cao…

- Mẹ mắc các bệnh nội tiết: Basedow, thiểu năng giáp trạng, tiểu đường, thiểu năng hay cường năng thượng thận.

- Mẹ bị nhiễm độc thai nghén từ thể nhẹ đến thể nặng đều có thể gây ra thai chết lưu. Tỷ lệ thai chết lưu càng cao khi nhiễm độc thai nghén càng nặng và không được điều trị hay được điều trị không đúng. Bệnh kéo dài nhiều ngày làm cho thai suy dinh dưỡng và chết.

- Mẹ bị nhiễm các bệnh ký sinh trùng như sốt rét (đặc biệt là sốt rét ác tính), nhiễm vi khuẩn (như giang mai ..), nhiễm virut (như viêm gan, quai bị, cúm, …).

- Mẹ có tử cung dị dạng, tử cung nhi tính hay tử cung kém phát triển làm cho thai bị nuôi dưỡng kém.
Ngoài ra, còn có một số yếu tố thuận lợi từ người mẹ làm cho thai chết lưu như:
- Tuổi của mẹ, tỷ lệ thai chết lưu tăng cao ở những người mẹ trên 40 tuổi (cao gấp 5 lần so với nhóm những người mẹ dưới 40 tuổi)

- Dinh dưỡng kém, lao động vất vả, đời sống khó khăn.
Những nguyên nhân từ phía thai như:       
- Rối loạn nhiễm sắc thể: Là nguyên nhân chủ yếu của thai dưới ba tháng bị chết lưu. Rối loạn nhiễm sắc thể có thể là do di truyền từ bố mẹ, có thể là do đột biến trong quá trình tạo noãn, tạo tinh trùng, thụ tinh và phát triển của phôi. Tỷ lệ rối loạn nhiễm sắc thể tăng lên rõ rệt theo tuổi của mẹ, đặc biệt là ở các bà mẹ trên 40 tuổi.

- Thai dị dạng: Não úng thuỷ, vô sọ, phù rau thai

- Bất đồng nhóm máu giữa mẹ và con do yếu tố Rh, thai rất dễ bị chết lưu ở các lần có thai tiếp theo.

- Thai già tháng: Bánh rau bị lão hoá, không bảo đảm nuôi dưỡng thai, dẫn đến thai chết lưu nếu không được xử trí kịp thời.

- Đa thai: thai có thể chết trong trường hợp truyền máu cho nhau, thai cho máu dễ bị chết lưu. Hơn nữa trong quá trình phát triển có thể có một thai bị chết khi còn bé, tiêu đi mà không hề có biểu hiện lâm sàng, trong khi đó, thai bên cạnh vẫn tiếp tục phát triển bình thường. Do đó khi thai còn bé làm siêu âm phát hiện ra song thai, đến khi thai lớn, siêu âm chỉ thấy có một thai. Trường hợp như thế này không phải là hiếm gặp.
Những nguyên nhân từ phần phụ, tử cung như:
- Những bất thường ở dây rốn như dây rốn thắt nút, dây rốn quấn quanh cổ, quanh thân, quanh chi, dây rốn xoắn, dây rốn bị chèn ép…

- Những bất thường ở bánh rau như bánh rau bị xơ hoá, bánh rau bị bong, u mạch máu màng đệm của bánh rau

- Bất thường ở nước ối: Đa ối cấp tính hay mạn tính, thiểu ối.
Bên cạnh đó có khoảng từ 20-50% số trường hợp thai chết lưu là không tìm thấy nguyên nhân, mặc dù có đầy đủ các phương tiện thăm dò hiện đại.

Dấu hiệu thai chết lưu

Dấu hiệu thai chết lưu  
Tỷ lệ thai chết lưu khá cao, chiếm khoảng 15% tổng số thai nghén. Một phần ba trong số đó không tìm được nguyên nhân. Thai lưu cần được lấy ra sớm để tránh các biến chứng nguy hiểm.
Thai chết lưu do nhiều nguyên nhân gây nên: thai dị dạng, thiểu ối, nhiễm trùng ối... Có những nguyên nhân chỉ phát hiện được sau khi thai đã ra như dây rau quấn cổ, dây rau thắt nút...

Ở giai đoạn sớm của thời kỳ thai nghén, các dấu hiệu để nghĩ đến thai chết lưu rất ít và không rõ ràng. Đó là những phụ nữ đã được xác định là có thai (mất kinh, nghén, thử HCG dương tính...) tự nhiên thấy ra máu ở âm đạo ít một, máu sẫm màu, các dấu hiệu nghén giảm đi, bụng không thấy to lên.
Ở giai đoạn muộn của thời kỳ thai nghén, dấu hiệu sớm nhất là sản phụ không thấy thai đạp nữa (cần chú ý vì đôi khi thành bụng dày nên không rõ thai đạp, hoặc sau khi thai chết, tử cung xuất hiện những cơn co nhẹ mà sản phụ nhầm đó là thai đạp). Nếu muộn hơn thì có thể thấy bụng không lớn lên mà nhỏ dần đi, ra máu đen âm đạo, có khi thấy vú tiết ra sữa.

Khi thấy các dấu hiệu đó, sản phụ phải đến ngay các trung tâm y tế để được khám và làm các xét nghiệm cần thiết. Có thể chẩn đoán thai chết lưu nhanh và chính xác dựa vào các dấu hiệu như: không thấy hoạt động của tim thai (ở tuổi thai sau 8 tuần), hình ảnh túi ối không tương xứng với tuổi thai, bờ túi ối không đều (giai đoạn sớm hơn 8 tuần). Tuy nhiên, ở giai đoạn này, cần khám và làm siêu âm lại sau một thời gian để chẩn đoán chính xác.
Sau khi chẩn đoán xác định là thai chết lưu, nên lấy thai ra sớm vì tâm lý bà mẹ không muốn giữ lại trong mình một thai đã chết. Mặt khác, việc để thai chết lâu trong ổ bụng có thể dẫn đến các biến chứng nguy hiểm cho mẹ như nhiễm trùng, rối loạn đông máu... Tuy vậy, cũng không nên vội vàng lấy thai ra ngay mà phải làm đủ các xét nghiệm cần thiết trước. Nên tiến hành các thủ thuật lấy thai ở các trung tâm y tế có điều kiện theo dõi, hồi sức, phẫu thuật để đề phòng và xử trí các tai biến

Thai chết lưu


Thai chết lưu là thai không phát triển được thành thai nhi trưởng thành, bị chết và lưu lại trong tử cung. Hiện tượng này cần được phát hiện và can thiệp sớm. Tốt nhất thai được tống xuất ra ngoài trong vòng 2 ngày kể từ khi xác định thai đã chết.
* Nguyên nhân
Theo bác sĩ Trần Thị Hạnh, Giám đốc Trung tâm chăm sóc sức khỏe sinh sản tỉnh, tình trạng thai chết lưu có nhiều nguyên nhân cả ở phía người mẹ lẫn phía thai nhi.
Từ  phía người mẹ
Người mẹ bị mắc các bệnh lý mãn tính như: viêm thận, suy gan, thiếu máu, lao phổi, bệnh tim, huyết áp cao... Mẹ mắc các bệnh nội tiết như basedow, thiểu năng giáp trạng, tiểu đường, thiểu năng hay cường năng thượng thận. Mẹ bị nhiễm độc thai nghén là nguyên nhân dễ gây ra thai chết lưu. Tỷ lệ thai chết lưu càng cao khi nhiễm độc thai nghén càng nặng, nhiễm độc nhẹ nhưng không được điều trị hoặc điều trị không đúng. Người mẹ bị bệnh kéo dài nhiều ngày, tình trạng ăn ngủ kém làm cho thai bị suy dinh dưỡng và chết.
Siêu âm là một trong những cách giúp xác định hiện trạng thai nhi.
Siêu âm là một trong những cách giúp xác định hiện trạng thai nhi.
Ngoài ra, những bệnh lý khác ở mẹ như nhiễm ký sinh trùng như sốt rét, nhiễm vi khuẩn (giang mai), nhiễm virus (viêm gan, quai bị, cúm...) hoặc mẹ có tử cung dị dạng, tử cung kém phát triển làm cho thai bị nuôi dưỡng kém. Đặc biệt, những người mẹ trên 40 tuổi mang thai, tỷ lệ thai chết lưu cao gấp 5 lần so với những người mẹ tuổi dưới 40. Dinh dưỡng kém, lao động vất vả... cũng là những nguyên nhân dẫn đến hiện tượng trên.
Từ phía thai nhi
Rối loạn nhiễm sắc thể là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thai dưới ba tháng bị chết lưu. Rối loạn nhiễm sắc thể có thể là do di truyền từ bố mẹ, hoặc đột biến trong quá trình tạo noãn, tạo tinh trùng, thụ tinh và phát triển của phôi. Tỷ lệ rối loạn nhiễm sắc thể tăng lên rõ rệt theo tuổi của mẹ, đặc biệt là ở các bà mẹ trên 40 tuổi. Những thai dị dạng như não úng thủy, vô sọ, phù nhau thai cũng dễ chết lưu. Có những thai già tháng, bánh nhau vôi hóa, thai nhi không thể lấy được dưỡng khí và dinh dưỡng từ người mẹ. Hiện tượng đa thai cũng có thể dẫn đến thai chết lưu trong quá trình các thai truyền máu cho nhau. Ngoài ra, một số trường hợp, thai có những bất thường như dây rốn thắt nút, dây rốn quấn quanh cổ, quanh thân, quanh chi, dây rốn xoắn, dây rốn bị chèn ép... bất thường ở nhau thai, đa ối hoặc thiểu ối.
* Dấu hiệu và xử lý thai chết lưu
Khi thai chết lưu, người mẹ nhận thấy một số dấu  hiệu bất thường sau: thai không còn cử động, bụng nhỏ dần đi, vú căng và tiết sữa, âm đạo tiết ra nhiều các chất màu đỏ sẫm. Nếu thời gian thai đã chết lâu, người mẹ có cảm giác chán ăn, mệt mỏi, buồn nôn, hôi miệng, âm đạo chảy ra các chất có mủ.
Thai chết lưu không gây nguy hiểm gì lớn cho sức khỏe và tính mạng của người mẹ khi không có biến chứng. Đối với thai 1-2 tháng tuổi, khi chết sẽ tự tiêu biến đi, nhiều khi chính bà mẹ cũng không biết mình đã có thai và thai đã chết lưu. Nếu thai đã lớn từ 3-6 tháng sẽ dẫn đến sẩy thai hoặc đẻ non nếu thai trên 6 tháng.
Thời gian kể từ khi thai chết đến lúc sẩy hoặc đẻ ra ngoài ở mỗi thai phụ khác nhau. Nếu thai chết ở tuổi thai càng lớn thì thời gian lưu lại trong buồng tử cung càng ngắn. Quá trình sẩy hoặc đẻ của thai chết lưu diễn biến như các ca sẩy hoặc đẻ bình thường, nhưng thời gian dọa sẩy và chuyển dạ đẻ thường dài hơn và máu có thể ra nhiều hơn. Lúc này, người mẹ cũng có các cơn co bóp của dạ con gây đau, cổ tử cung phải mở hết thì thai mới có thể ra được. Tuy nhiên, một số trường hợp thai chết không bị sẩy ngay mà nằm lại trong tử cung một thời gian, do vậy nếu không lấy ra sớm thì bà mẹ có thể bị nhiễm trùng nặng hoặc gây nên rối loạn đông máu cho mẹ.
Thai chết lưu càng sớm được phát hiện và can thiệp thì càng ít gây ảnh hưởng đến sức khỏe của người mẹ. Siêu âm là một trong những phương pháp có thể giúp phát hiện sớm hiện tượng này. Vì vậy, khi thấy các dấu hiệu bất thường trên, người mẹ cần đi khám ngay để được can thiệp kịp thời.
* Phòng tránh thai chết lưu
Phòng tránh hiện tượng thai chết lưu, trước khi thụ thai cả vợ và chồng cùng phải cẩn thận trong ăn uống, không dùng các chất kích thích, như: rượu, bia, thuốc lá, ma túy... Người mẹ cần tránh làm việc nặng, làm việc quá sức; tránh tiếp xúc với các loại hóa chất, môi trường ô nhiễm; ăn uống đầy đủ các dưỡng chất; nghỉ ngơi hợp lý; giữ cho tinh thần luôn được thoải mái; đi khám thai theo định kỳ để bác sĩ theo dõi sự phát triển của thai nhi cũng như sức khỏe của người mẹ.

Thứ Bảy, 21 tháng 7, 2012

TÁC HẠI CỦA THỦ DÂM



Cha mẹ nên giáo dục con khi bước vào tuổi dậy thì, bất luận là nam hay nữ vì các em đều có nhu cầu này. Không nên tỏ ra thất vọng khi phát hiện con thủ dâm nhưng phải chỉ rõ tác hại của việc thủ dâm quá nhiều.
Trầm cảm, rối loạn tâm lý, rụt rè, xanh xao, yếu đuối... là những biểu hiện thường thấy của những người thủ dâm nhiều. Họ thường không muốn vươn lên vì tự mình đã thỏa mãn được đòi hỏi của bản thân.

Ngại đủ thứ vì... thủ dâm
 

BS nam học Nguyễn Bá Hưng (Trung tâm Ánh sáng) đã từng khám cho nhiều thanh niên có tiền sử thủ dâm từ bé. BS Hưng có nhận xét về những người lạm dụng thủ dâm chính là hình dáng yếu ớt bên ngoài, rụt rè, trầm cảm và rối loạn tâm lý bên trong.
thudam.jpg
 (ảnh minh họa)
Một trong những điển hình mà BS Hưng gặp chính là một nam SV (Hà Nội). Theo lời kể của nam sinh viên này, cậu đã biết đến thủ dâm từ năm lớp 5. Thủ dâm trước lúc dậy thì, cậu vẫn có khoái cảm mặc dù không có tinh dịch để xuất. Và đến tuổi dậy thì, cậu đã thủ dâm thường xuyên, thậm chí có ngày 2 đến 3 lần, mỗi lần chỉ 2 phút là có thể xuất tinh.
Cho đến khi vào đại học, cậu đã không còn cảm giác khoái cảm mỗi khi thủ dâm. Trái lại là cảm giác mệt mỏi, uể oải. Và đó là lúc cậu phải tìm đến bác sĩ. Sau khi xét nghiệm tinh dịch đồ, BS Hưng cho biết, tinh dịch của SV này đã loãng đi, số lượng tinh trùng chỉ còn bằng 1/4 người thường, tỉ lệ sống chỉ bằng một nửa và độ di động chỉ còn lại 1/3. Khả năng có con của người này tuy còn nhưng rất thấp.
Ngoài ra, thái độ tích cực với cuộc sống của cậu thanh niên này cũng không còn. Qua tâm sự, cậu SV này cho BS Hưng biết cậu ta rất ngại tiếp xúc, nhất là khi đứng trước người con gái mà mình thích, cậu không dám tán tỉnh vì sợ cô gái từ chối. Việc học hành cũng sa sút đi vì cảm giác mệt mỏi, bế tắc. Đặc biệt là cảm giác mặc cảm tội lỗi vì việc thủ dâm mà mình đang thường xuyên làm.
Tác hại của thủ dâm quá nhiều
Lý giải về việc tâm lý của những người thủ dâm nhiều bị nhiễu loạn, BS Hưng cho biết: "Việc thủ dâm là tự bản thân họ có thể giải tỏa những thèm muốn của mình mà không cần bất cứ một sự hợp tác từ phía ngoài vào. Nhưng ra ngoài xã hội, không phải lúc nào, ai đó cũng có thể đồng ý cho họ làm những việc họ muốn. Chính vì vậy, khi gặp bất cứ khó khăn nào trong cuộc sống, họ rất khó để vươn lên, vượt qua khó khăn, hợp tác với đối tác để giải quyết. Thay vào đó, họ quay lại cố thủ, "tự làm tự sướng". Thái độ này ảnh hưởng tới nhiều việc khác, ngoài tình dục".
GS Trần Quán Anh (Phòng khám đa khoa tiết niệu và nam học Tâm Anh) lại lý giải việc nhiễu loạn tâm lý khi thủ dâm quá nhiều là do cá nhân người đó bị nhiễu loạn cung phản xạ giữa chỉ huy trung ương (vỏ não) với ngoại vi. Lý thuyết đông y chỉ ra rằng, quan hệ tình dục phải hài hòa âm dương. Việc thủ dâm là quan hệ không cần có đối tác, sẽ làm mất cân bằng, dẫn đến rối loạn. Có người, chỉ mới nhìn người đẹp, chỉ mới ôm người yêu đã xuất tinh, khiến họ rất mặc cảm, thậm chí không dám lấy vợ. Lâu dần, họ sẽ bị rụt rè, yếu đuối, ẻo lả.
Tuy nhiên, thực tế thì việc thủ dâm là bình thường khi đứa trẻ bước vào tuổi dậy thì, chưa lập gia đình. Chỉ có điều, thủ dâm đến mức thái quá, trở thành bệnh lý (nghiện), bất kỳ khi nào có nhu cầu đều sẵn sàng thủ dâm thì lại rất có hại cho sức khỏe cũng như tâm lý sau này.
BS đông y Vũ Quốc Trung cho rằng, các bậc cha mẹ nên giáo dục con khi bước vào tuổi dậy thì, bất luận là nam hay nữ vì các em đều có nhu cầu này. Phụ huynh không nên ngăn cấm, tỏ ra thất vọng khi phát hiện con thủ dâm nhưng phải chỉ rõ tác hại của việc thủ dâm quá nhiều.
Ngoài ra, để giảm bớt tính dục trong lứa tuổi đang dậy thì, các bậc phụ huynh có thể cho con ăn thêm nhiều hoa quả, đậu đỏ, đậu đen, hạt sen, long nhãn, táo tàu... Đây là những thực phẩm có tính mát, làm dịu căng thẳng thần kinh.

1. Các hormon tác dụng lên tử cung.


1.       Các hormon tác dụng lên tử cung.
4 hormon: oxytocin, PG, estrogen, progesteron
a.  Oxytocin
-       Nguồn gốc: do vùng dưới đồi bài tiết, được dự trữ ở thùy sau tuyến yên.
-       Bản chất: là một peptid có 9 aa, chỉ có aa thứ 8 khác với phân tử ADH (thay arginin bằng leucin).
-       Tác dụng lên tử cung:
s  Có tác dụng co tử cung mạnh khi đang mang thai, đặc biệt càng gần cuối thời kỳ có thai tác dụng co tử cung của oxytocin càng mạnh.
s  Ở người nồng độ oxytocin tăng trong khi đẻ đặc biệt tăng trong giai đoạn cuối.
s  Ở những người đẻ khó do cơn co TC yếu thường tiêm truyền oxytocin để làm tăng cơn co tử cung (đẻ chỉ huy).
b.  PG
-       Nguồn gốc: là sản phẩm bài tiết ở hầu hết các mô trong cơ thể.
-       Bản chất: là một acid béo không no có vòng 5 cạnh và 2 mạch nhánh.
-       Tác dụng lên tử cung: làm co TC, tăng áp lực buồng ối, do đó kích thích chuyển dạ. Thai 1 tháng nếu đặt PG vào âm đạo sẽ kích thích gây co cơ tử cung và đẩy thai ra.
c.   Estrogen
-       Nguồn gốc:
s  Ở phụ nữ bình thường không có thai
o  Estrogen được bài tiết chủ yếu ở buồng trứng, chỉ một lượng rất nhỏ do tuyến vỏ thượng thận.
o  Ở buồng trứng, estrogen do các TB hạt của lớp áo trong của nang noãn bài tiết trong nửa đầu CKKN và nửa sau do hoàng thể bài tiết.
s  Khi có thai, rau thai bài tiết một lượng lớn estrogen.
-       Bản chất: là hợp chất steroid và được tổng hợp ở buồng trứng từ cholesterol và cũng có thể từ acetyl coenzym A.
-       Tác dụng lên tử cung:
s  Làm tăng kích thước TC ở tuổi dậy thì và khi có thai.
s  Kích thích phân chia lớp nền- lớp tái tạo ra lớp chức năng trong nửa đầu CKKN.
s  Tăng tạo các mạch máu mới ở lớp chức năng và làm cho các mạch máu này trở thành các ĐM xoắn cung cấp máu cho lớp niêm mạc chức năng. Tăng lưu lượng máu đến lớp niêm mạc chức năng.
s  Kích thích sự phát triển của tuyến niêm mạc. Tăng tạo glycogen chứa trong tuyến nhưng không bài tiết.
s  Tăng khối lượng tử cung, tăng hàm lượng actin và myosin trong cơ đặc biệt trong thời kỳ có thai.
s  Tăng co bóp tử cung, tăng tính nhạy cảm của TC với oxytocin.
d.  Progesteron
-       Nguồn gốc:
s  Ở phụ nữ không có thai:
o  Được bài tiết chủ yếu từ hoàng thể trong nửa sau của CKKN.
o  Ở nửa đầu của CKKN nang noãn và tuyến vỏ thượng thận chỉ bài tiết một lượng rất nhỏ progesteron.
s  Khi có thai rau thai bài tiết một lượng lớn progesteron.
-       Bản chất: là một hợp chất steroid được tổng hợp từ cholesterol hoặc acetyl- CoA.
-       Tác dụng lên tử cung:
s  Tác dụng quan trọng nhất là kích thích sự bài tiết ở niêm mạc TC vào nửa sau của CKKN. Dưới tác dụng của progesteron:
o  Niêm mạc TC của lớp chức năng được tăng sinh do tác dụng của estrogen nay được biến đổi trở thành cấu trúc có khả năng bài tiết.
o  Các tuyến của niêm mạc TC dài ra, cuộn lại cong queo và bài tiết glycogen.
o  Tác dụng này có ý nghĩa quan trọng là chuẩn bị niêm mạc TC ở trạng thái sẵn sàng đón trứng đã thụ tinh vào làm tổ.
s  Làm giảm co bóp TC do đó ngăn cản việc đẩy trứng đã thụ tinh ra ngoài và tạo môi trường yên ổn cho bào thai phát triển.

. Trình bày vai trò của hệ giao cảm và phó giao cảm trong điều hòa hoạt động của tim.


1.       Trình bày vai trò của hệ giao cảm và phó giao cảm trong điều hòa hoạt động của tim.
-       Hoạt động của tim luôn thay đổi để phù hợp với nhu cầu của cơ thể:
s  Khi nghỉ ngơi lưu lượng tim khoảng 4- 5l/ ph
s  Lúc vận cơ nặng lưu lượng tim có thể tăng lên từ 4- 6 lần để phù hợp với nhu cầu về oxy của cơ thể tăng lên gấp khoảng 20 lần so với bình thường.
-       Tim có sự thích nghi và đáp ứng được với nhu cầu đó là nhờ cơ chế điều hòa cơ bản:
s  Tự điều hòa theo cơ chế Frank- Starling
s  Điều hòa theo cơ chế thần kinh và thể dịch
Vai trò của hệ thần kinh tự chủ trong điều hòa hoạt động của tim
-       Hệ thần kinh phó giao cảm
s  Trung tâm TK phó giao cảm điều hòa hoạt động của tim nằm ở hành não, đó là nhân dây thần kinh số X.
o  Các sợi trước hạch của dây X đi tới hạch phó giao cảm nằm ngay trong cơ tim
o  Các sợi sau hạch phó giao cảm chi phối hoạt động của nút xoang và nút nhĩ- thất
s  Thí nghiệm chứng minh vai trò của dây X đối với hoạt động tim: cắt dây TK X ở đoạn cổ của chó thí nghiệm, dùng dòng điện cảm ứng kích thích liên tục đầu ngoại biên của dây X cho thấy:
o  Nếu kích thích với cường độ vừa phải (tới ngưỡng) làm tim đập chậm và yếu, quan sát thấy tim bóp yếu đi và giãn to ra.
o  Nếu tăng cường độ kích thích thì tim ngừng đập.
o  Nếu cứ tiếp tục kích thích thì tim đập trở lại, đó là hiện tượng thoát ức chế do:
¸     Bó His phát xung động, vì bó His không chịu sự chi phối của dây X
¸     Hoặc do khi tim ngừng đập máu về tâm nhĩ nhiều làm cho áp suất máu trong tâm nhĩ tăng lên, kích thích nút xoang phát xung động trở lại.
s  Tác dụng của hệ phó giao cảm đối với hoạt động của tim
o  Giảm tần số tim (tim đập chậm hơn)
o  Giảm lực co bóp cơ tim (tim đập yếu hơn)
o  Giảm trương lực cơ tim (cơ tim mềm hơn)
o  Giảm tốc độ dẫn truyền xung động trong tim, thể hiện bằng khoảng PQ trên điện tâm đồ dài ra.
o  Giảm tính hưng phấn của cơ tim
s  Hệ thần kinh phó giao cảm tác dụng lên tim thông qua hóa chất trung gian là Ach.
-       Hệ thần kinh giao cảm
s  Trung tâm thần kinh giao cảm điều hòa hoạt động tim
o  Nằm ở sừng bên chất xám tủy sống đoạn lưng 1- 3, từ đây có các sợi TK đi tới hạch giao cảm nằm gần cột sống
o  Có một số sợi xuất phát từ sừng bên chất xám tủy sống đoạn cổ 1- 7 đi đến hạch giao cảm.
o  Các sợi sau hạch đi tới nút xoang, nút nhĩ- thất và bó His.
s  Kích thích dây thần kinh giao cảm đến tim gây ra các tác dụng:
o  Tăng tần số tim (tim đập nhanh hơn)
o  Tăng lực co bóp cơ tim (tim đập mạnh hơn)
o  Tăng trương lực cơ tim (cơ tim rắn hơn)
o  Tăng tốc độ dẫn truyền xung động trong tim
o  Tăng tính hưng phấn của cơ tim
s  Hệ TK giao cảm tác dụng lên hoạt động tim thông qua hóa chất trung gian là noradrenalin.