Thứ Tư, 30 tháng 1, 2013

BỆNH SỞI

ởi ( Measles, Rubeola) là bệnh nhiễm vi rút đường hô hấp. Triệu chứng gồm ban sởi và các triệu chứng tương tự cúm ( sốt ho,
chảy mũi nước…)
Bệnh hiếm nhưng lây nhiễm mạnh.
Vì là bệnh gây ra do vi rút, Các triệu chứng sẽ tự khỏi mà không cần điều trị. Tuy nhiên, trẻ bị sởi nên được uống nhiều nước và
nên được cách ly để khỏi lây cho các người khác.
Sởi có thể trở nên trầm trọng, thậm chí gây nguy hiểm tính mạng cho trẻ nhỏ.
Vắc xin sởi có hiệu quả rất cao trong phòng bệnh Sởi.
1. Triệu chứng:       Triệu chứng của sởi xuất hiện 10 đến  12 ngày sau khi nhiễm vi rút gồm:

  • Sốt
  • Ho khan
  • Chảy mũi nước
  • Viêm kết mạc, chảy nước mắt, nhạy cảm ( sợ ) với ánh sáng :  là những triệu chứng gợi ý trước khi có nốt Koplick.
  • Nốt Koplik :
    Nốt Koplik là những nốt nhỏ, không đều, màu  trắng xám trên nền đỏ nhạt , có khi bị chảy máu, xuất hiện ở niêm mạc miệng ( bên trong má-vòm họng- bên trong của môi - dưới lưỡi của khoang miệng ).
    Các nốt này thường  xuất hiện vài ngày trước khi phát ban và biến mất nhanh chóng sau 12-18 h nhưng khi đỡ dần thì chỗ tổn thương vẫn đỏ và niêm mạc nhạt màu hơn trước.
    Đây chính là dấu hiệu đặc trưng trong giai đoạn sớm của bệnh, rất có ích cho chẩn đoán sớm hoặc theo dõi trẻ dã có tiếp xúc với nguồn lây .

  • Ban :
  • Là những chấm, nốt, đốm đỏ,, phẳng, có đường kính từ 0.1-1 cm, xuất hiện theo sau các tiền triệu vào ngày thứ tư hoặc thứ năm của bệnh.
  • Ban không ngứa hoặc ngứa ít, bắt đầu xuất hiện ở trán dọc theo đường chân tóc và sau tai và xuống mặt cổ. Trong vòng 24-36 giờ, ban sẽ lan ra toàn thân và các chi ( hiếm khi xuất hiện ở lòng bàn tay chân )
  • Các đốm ban có thể rải rác hoặc tụ lại thành từng đám, đặc biệt ở trên mặt. Trong trường hợp nặng, ban dày đặc thành đám. Đôi khi có chấm xuất huyết nhẹ, thường ở các đốm ban dày đặc và có thể có các vết bầm máu . Nhưng trong trường hợp rất nhẹ thì cũng chỉ có một ít ban ở chân và không phải dạng vết mà là dạng chấm ( như trong rubella hoặc scarlet fever ). Cả hai trường hợp, ban đều khỏi hoàn toàn. Sởi không ban rất hiếm trừ khi trẻ đã  được tiêm Gamma Globulin
  • Ban thường ngẫu nhiên xuất hiện cùng với sốt cao ( khoảng trên 40°C )
  • Kể từ 3-4 ngày sau khi xuất hiện, Ban bắt đầu nhạt dần. Khi bắt đầu nhạt, ban có màu đỏ tía , sau đó chuyển sang màu đồng hoặc / và nâu với các vẩy bong nhỏ mịn.
  • Trong những trường hợp cá biệt và hiếm, có thể có ban dạng mề đay, đốm phẳng hoặc dạng chấm ( như scarlet fever ) xuất hiện sớm trong giai đoạn tiền triệu và biến mất trước khi ban điển hình xuất hiện.
  • Hach góc hàm và hạch sau cổ có thể lớn.
  • Lách lớn nhẹ.
  • Hạch mạc treo có thể lớn gây đau bụng.
  • Các thay đổi bịnh học của sởi tại niêm mạc ruột thừa gây tắc nghẽn lòng ruột thừa  và gây ra các triệu chứng của viêm ruột thừa.

2. Diễn tiến của bệnh Sởi:
  • Thời gian ủ bệnh là 10-12 ngày.
  • Sởi bắt đầu với sốt nhẹ hoặc sốt vừa. Kèm theo có các triệu chứng như là: ho khan, ho dai dẳng, chảy mũi nước, chảy nước mắt ( viêm kết mạc ) và đau họng.
  • Hai dến ba ngày sau, nốt Kopik xuất hiện.  Đây là dấu hiệu đặc trưng của sởi khi ban sởi chưa mọc.  
  • Một đến hai ngày sau nữa, bệnh nhi xuất hiện sốt cao khoảng  40-40.5°C ( 104 - 105°F ). Cùng lúc với sốt cao, ban xuất hiện. Thường ban xuất hiện trước ở mặt, dọc theo đường chân tóc và sau tai. Ban nhanh chóng lan xuống ngực lưng và tứ chi. Lúc này, bệnh nhi trông rất mỏi mệt nhưng sau khi phát ban hai ngày, trong những trường hợp không biến chứng, sốt sẽ hạ và cháu sẽ đỡ hơn. Sau 3-4 ngày đến khỏang một tuần, ban nhạt dần theo trình tự xuất hiện ( thường khi ban xuống đến chân, thì ban trên mặt giảm dần )
  • Trong trường hợp sởi có xuất huyết ( the hemorrhagic type of measles / black measles), xuất huyết có thể xảy ra ở miệng , mũi và ruột.

3. Nguyên nhân :
  • Bệnh sởi gây ra bởi các  vi rút RNA thuộc nhóm Morbillivi, họ Paramyxoviridae ( Chỉ có một type huyết thanh chưa rõ )  
  • Bệnh có khả năng lây lan rất cao. Một người bị sởi , thì 90% những người tiếp xúc với bệnh nhân mà lại chưa chủng ngừa thì sẽ bị lây bệnh.
  • Vi rút sống trong chất tiết của mũi họng người bệnh. Bệnh nhân sởi có khả năng lây bệnh cho người khác trong khoảng thời gian kể từ 4 ngày trước khi ban xuất hiện và 4 ngày sau khi ban biến mất. Trong thời gian này, vi rút tồn tại trong chất tiết mũi họng và nước tiểu. khi bệnh nhân ho, hắt hơi hoặc nói chuyện, những giọt dịch nhỏ chứa vi rút bắn tung tóe vào không khí và người khác có thể hít phải chúng. Ngoài ra những giọt dịch này có thể bám vào các vật dụng khác, vẫn hoạt dộng và còn khả năng lây lan sau nhiều giờ ( vi rút vẫn hoạt động ít nhất là 34h ở nhiệt độ phòng ). Người khác có thể bị lây nhiễm sau khi tình cờ chạm phải những vật dụng này và đưa tay lên miệng. Một khi vi rút vào trong cơ thể người, nó sẽ phát triển trong các tế bào viền của thành sau họng và phổi. Sự nhiễm vi rut này sẽ nhanh chóng lan ra toàn thân, bao gồm da và hệ hô hấp.

Các yếu tố nguy cơ :
  • Bệnh Sởi có khả năng lây nhiễm rất cao, khoảng 90% những người tiếp xúc với bệnh nhân mà lại chưa chủng ngừa thì sẽ bị lây bệnh. Ngày nay bệnh sởi hiếm thấy hơn nhờ vào “ Tiêm chủng mở rộng “.
  • Một người đã từng bị sởi thì sẽ miễn dịch với sởi suốt đời. Những người chưa được chủng ngừa sởi, sống nhiều năm ở vùng có sởi và tự nhiên có nhiễm vi rút sởi, thậm chí có người hoàn toàn không có triệu chứng cũng có khả năng miễn dịch đối với sởi.
  • Sởi dễ xảy ra ở các nước đang phát triển, đặc biệt ở những người suy dinh dưỡng và thiếu vitamin A.

4. Khi nào cần tham khảo ý kiến Bác sỹ :
  • Nên tham khảo ý kiến của Bác sỹ khi trẻ có khả năng tiếp xúc với nguồn lây, hoặc trẻ có các triệu chứng nghi ngờ sởi. Ban ở trẻ nhỏ thực ra do nhiều bệnh khác nhau, tùy theo tuổi. Hiện nay, ngay ở Mỹ vẫn còn bệnh sởi.
  • Nhớ kiểm tra hồ sơ chủng ngừa của trẻ và phải chắc chắn rằng cháu dã được chủng ngừa đầy đủ trước tuổi đến trường.

5. Chẩn đoán:
  • Chẩn đoán dựa vào tiền sử ( tiếp xúc bệnh, chủng ngừa ), nốt Koplick, ban điển hình và diễn tiến bệnh.
  • Trong trường hợp có điều kiện, xét nghiệm máu có thể được xét nghiệm để chẩn đoán xác định.

6. Biến chứng:
    Sởi thường kéo dài khoảng 10-14 ngày. Bệnh đôi khi rất nặng và có thể nguy hiểm đến tính mạng. đặc biệt đối với những nơi mà tình trạng vệ sinh kém , bệnh nhân suy dinh dưỡng, thiếu vitamin A. Các biến chứng thường gặp bao gồm:
  • Nhiễm trùng tai ( Viêm tai giữa ) : thường xảy ra ở khoảng 10 % bệnh nhi
  • Viêm não: Khoảng 1/1.000 người bệnh sởi. Triệu chứng có thể gồm nôn mửa, co giật và hiếm hơn là hôn mê. Viêm não có thể xảy ra ngay sau khi bị sởi. Nhưng nếu viêm não xảy ra sau khi bị sởi nhiều năm ở tuổi thanh thiếu niên. Thì đó chính là hậu quả của nhiễm vi rút chậm ( a slow virus infection ). Dạng viêm não muộn này  được gọi là viêm não “ Dawson” là rất hiếm.
  • Viêm phổi: Xảy ra khoảng 1/ 15 bệnh nhi sởi. Tình trạng viêm phổi này có thể đe dọa tính mạng.
  • Ỉa chảy và nôn mửa:  Biến chứng này thường gặp ở trẻ nhỏ và rất nhỏ.
  • Viêm phế quản, Viêm tiểu phế quản, viêm thanh quản. : Sởi có thể dẫn đến viêm thanh quản, viêm thành trong của khí-phế quản.
  • Viêm cơ tim
  • Sởi có thể gây sảy  thai  hoặc dẻ non: do vậy phụ nữ mang thai nên được phòng tránh sởi bằng mọi cách.
  • Giảm tiểu cầu: Sởi có thể gây ra giảm tiểu cầu

7. Điều trị
  • Không có điều trị đặc hiệu cho bệnh sởi. Tuy nhiên, một bệnh nhi chưa được chủng ngừa, có thể được chủng vacxin sởi trong vòng 72 giờ sau khi tiếp xúc với nguồn lây. Phụ nữ có thai, trẻ em và những người có hệ miễn dịch yếu có tiếp xúc với nguồn lây có thể được tiêm IgG (  immune serum globulin ) trong vòng 6 ngày , thì các kháng thể này sẽ giúp phòng được sởi hoặc sởi hoặc giảm triệu chứng.
  • Hạ sốt cho các cháu bằng  paracetamol / acetaminophen ( Tylenol.. ),   hoặc thuốc kháng viêm không steroid ( NSAIDs ). Không sử dụng Aspirin cho trẻ dưới 12 tuổi. ( xem thêm : sốt & hướng xử trí )
  • Nếu có bội nhiễm vi khuẩn ( viêm phổi, viêm tai ...) : kháng sinh
  • Trẻ bị sởi nặng, nhập viện, cần cho một liều  vitamin A.:
  •  Trẻ 6-12 tháng:                       vitamin A 100.000 IU    uống
  •  Trẻ trên 12 tháng :                 vitamin A 200.000 IU      uống
  •  Trẻ có triệu chứng ở mắt nên được  uống thêm vào ngày hôm sau và sau 4 tuần
  • Cách ly người bệnh, nhất là trong giai đoạn lây nhiễm ( 4 ngày trước khi phát ban4 ngày sau khi ban bay ). Người và trẻ chưa được chủng ngừa càn được cần được tạm thời chuyển sang nơi ở khác. Người chăm sóc bệnh nhi nên là người đã miễn dịch với sởi.
  • Immune globulin và corticosteroids ít có giá trị. Những thuốc kháng vi rút hiện hành không có hiệu lực.

8.Chăm sóc :
    Nếu trẻ bị sởi, thường xuyên liên hệ với Bác sỹ để theo dõi tiến triển bệnh và phát hiện kịp thời các biến chứng  nếu có.
     Lưu ý:
  • Nghỉ ngơi, tránh các hoạt động không cần thiết
  • Uống nhiều nước ( nước sôi nguội, nước trái cây, nước trà…) đ bù lại lượng nước mất do sốt và đổ mồ hôi.
  • Nếu thời tiết khô ( độ âm thấp ) dùng máy làm ẩm để giảm ho và đau họng, đỡ cho viêm thanh quản.
  • Phòng nên được giứ ấm hơn là làm mát
  • Nếu mắt cháu tr nên nhạy cảm với ánh sáng, thì nên để ánh sáng dịu và đeo kính râm. Tránh đọc sách và xem TV nếu đèn và TV cũng làm mắt cháu khó chịu.
  • Cháu có thể trở lại trường sau khi hết ban bảy ngày ( Đôi khi cần tham khảo ý kiến Bác sỹ)

9. Dự phòng:
  • Vacxin ngừa sởi dưới dạng MMR ( measles-mumps-rubella ) là rất an toàn và hiệu quả.  Với mũi tiêm chủng thứ nhất vào khoảng 12-15 tháng tuổi , 95% trẻ đạt được hiệu quả miễn dịch suốt đời với vi rút. Mũi tiêm thứ hai vào khoảng 4-6 tuổi sẽ tạo miễn dịch đối với sởi cho 5% còn lại và nâng cao hiệu quả miễn dịch cho 95% kia.
  • Những trẻ dưới 6-8 tháng tuổi luôn được bảo vệ khỏi bệnh sởi nhờ các yếu tố miễn dịch truyền sang từ máu mẹ. Nếu vì một lý do nào đó ( có khả năng tiếp xúc với nguồn lây, dịch sởi bùng phát ). Một đứa trẻ cần chủng ngừa trước 12 tháng tuổi, thì việc chủng MMR có thể được thực hiện kể từ 6 tháng tuổi. Nhưng nhớ phải tiêm chủng lại lúc cháu được 12 tháng tuổi trở lên và tiêm nhắc lúc 4-6 tuổi.
  • Mặc dù không phát hiện được kháng thể kháng sởi của mẹ trong máu cháu sau 9 tháng. Một số yếu tố bảo vệ cỏ thể tồn tại làm ảnh hưởng đến việc chủng ngừa của trẻ dưới 12 tháng tuổi.

Khi nào cần chủng MMR :
  • Một người không cần chủng MMR khi đã nhận đủ hai liều vacxin và / hoặc xét nghiệm máu cho thấy người đó miễn dịch với Sởi- quai bị - Rubella
  • Nếu không có một trong hai điều trên thì một người nên chủng MMR khi:
  • Phụ nữ và thiếu nữ trong độ tuổi mang thai
  • Chuẩn bị vào các trường Trung học, Đại học và Cao đẳng
  • Làm việc trong các bệnh viện, cơ sở y tế, trường mẫu giáo và trường học
  • Đến  nơi có nhiều khả năng tiếp xúc với nhuồn lây
  • Trẻ chưa chủng liều 2 nên được tiêm liều này lúc được 11-12 tuổi hoặc ngay trước khi nhập học các trường đại học, cao đẳng…

Không nên chủng MMR cho :
  • Phụ nữ mang thai hoặc có ý định mang thai trong vòng 4 tuần
  • Những người có phản ứng quá mẫn ( a life-threatening allergic reaction ) có thể đe dọa tính mạng đối với Gelatin hoặc Neomycin. Những trẻ này luôn luôn được chú ý bảo vệ khổi bệnh sởi bằng cách tiêm gamma globulin trong vòng 6 ngày sau khi tiếp xúc với nguồn lây.
  • Một người bị bệnh ung thư , bệnh về máu hoặc các bệnh về hệ miễn dịch, lao tiến triển, cần tham khảo ý kiến Bác sỹ trước khi chủng MMR.

Tác dụng phụ của vac xin MMR :
    Hầu như Vac xin này không gây tác dụng phụ. Tuy nhiên, 10- 15% người được chủng bị sốt trong vòng 7-12 ngày sau đó, 5% phát ban nhẹ ( không lây và tự hết), một số phụ nữ và thiếu nữ có đau khớp. Ít hơn 1/1.000.000 ( một phần triệu ) có phản ứng dị ứng
    Có lúc, người ta đã tin rằng những người có tiền sử dị ứng với trứng thì không nên chủng các loại vacxin được nuôi cấy trên phôi gà như sởi. Nhưng điều đó là không thật. Những người dị ứng với trứng vẫn có thể nhận vacxin sởi hoặc MMR một cách an toàn.
    Trong những năm gần đây, ngưới ta có báo cáo về mối lo ngại sự liên quan về tính tự kỷ và vắc xin MMR. Tuy nhiên các nghiên cứu xa hơn của Hội Nhi khoa Hoa kỳ, Học Viện Y khoa, và trung tâm y học dự phòng đã kết luận rằng không có một bằng chứng khoa học nào về mối liên hệ giữa MMR và tính tự kỷ, Hơn nữa, không có một lợi ích khoa học nào để tách rời cc xin ra khỏi MMR. Các tổ chức trên còn lưu ý rằng tính tự kỷ thường phát sinh ở trẻ tuổi từ 18 -30 tháng, gần như đúng vào thời gian  trẻ nhận liều MMR đầu tiên, Sự ngẫu nhiên  về thời điểm  này không nên được hiểu lầm là mối quan hệ giữa nguyên nhân và hậu quả.

Rubella còn được gọi là “ Sởi Đức ” hay bệnh “ Sởi ba ngày ”.

Rubella còn được gọi là “ Sởi Đức ” hay bệnh “ Sởi ba ngày ”.
Rubella và Sởi gây ra bởi hai loại vi rút khác nhau và đễ dàng nhận biết bởi một loại ban có hình dạng và màu sắc khá điển hình  
( hình dạng bên ngoài của ban khá giống nhau giữa Sởi-_Rubella_ Scarlet Fever ). Tuy  nhiên, Rubella không nặng và không lây
nhiễm như Sởi. Điều quan trọng là, nếu phụ nữ mang thai, đặc biệt trong ba tháng đầu của thai kỳ, vi rút có thể làm thai nhi bị
chết hoặc bị dị tật.
Tại Mỹ, Trẻ em thường được tiêm vac xin MMR ( Sởi- Quai bị - Rubella ) hai lần trước tuổi dến trường và cũng đã cho thấy hiệu
quả cao trong phòng bệnh. Hiện nay trung tâm y học dự phòng của Mỹ đâ tuyên bố loại hẳn bệnh rubella nhưng vẫn khuyên các
bậc phụ huynh chủng ngừa đầy đủ cho con em họ.
Ngày nay, tại Mỹ, Rubella thường hay xảy ra ở những người trưởng thành , trẻ tuổi chưa được chủng ngừa hơn là ở trẻ em.
1. Triệu chứng :
  • Thời gian ủ bệnh đối với Rubella là 14 - 23 ngày, trung bình là 16 - 18 ngày. Có nghĩa là  bệnh khởi phát từ 2 - 3 tuần sau khi tiếp xuc với nguồn lây ( vi rút ).
  • Triệu  chứng của bệnh Rubella, đặc biệt ở trẻ em là rất nhẹ đến nỗi gần như không được để ý đến. Triệu chứng kéo dài khoảng 2-3 ngày gồm:

  • Sốt nhẹ, khoảng dưới 39°C ( 102.2°F ) hoặc thường thấp hơn :  37.2–37.8°C ( 99–100°F )
  • Đau đầu, chán ăn
  • Nghẹt mũi, chảy mũi nước
  • Mắt viêm đỏ
  • Sưng, đau các hạch ở nền sọ, sau cổ, sau tai
  • Ban Rubella xuất hiện trên mặt ròi lan dần xuống cổ , thân mình và tay chân
  • Ban có thể là đốm hoặc mảng, màu đỏ nhạt, có đường kính 2-3 mm
  • Ban phân bố như ban sởi nhưng thường  ít đỏ hơn,  thưa hơn &  không lan quá rộng như sởi
  • Ban kéo dài dến 5 ngày ( trung bình khoảng 3 ngày )
  • Có thế nga hoặc không
  • Khi ban bay, Vùng da đã mọc ban có thể bong vảy  mịn
  • Ban bay theo tình tự như khi xuất hiện
  • Đau khớp, đặc biệt ở phụ nữ trẻ
  • Hoặc có người có ít hoặc không có triệu chứng ngoài ban và sốt ( Chiếm 2/3 )

    Sốt khoảng 3 ngày, Ban kéo dài khoảng 3 ngày và tối đa là 5 ngày. Hạch Bạch huyết có thể sưng kéo dài 1 ( một ) tuần hoặc hơn, đau khớp có thể kéo dài hơn hai tuần. Trẻ em thường khỏi bệnh hoàn toàn trong vòng một tuần nhưng người lớn có thể kéo dài hơn.

2. Nguyên nhân Và sự lây nhiễm :
  • Rubella gây ra bởi một loại vi rút lây truyền từ người này sang người khác do hắt hơi, ho ( làm bắn tung các giọt dịch nhỏ ra ngoài không khí và lây nhiễm cho người khác khi họ hít phải ), hoặc tiếp xúc trực tiếp với chất tiết đường hô hấp của người bệnh. Một người bị nhiễm Rubella có nhiều khả năng lây cho người khác nhất trong vòng một tuần trước khi ban xuất hiện và một tuần sau khi ban bay
  • Lây từ mẹ sang thai nhi. Những đứa trẻ bị Rubella bẩm sinh ( lây mhiễm từ máu mẹ trong thời kỳ thai nhi ) có thể đào thải vi rút qua nước tiểu và dịch  tiết mũi họng trong vòng 1 năm hoặc hơn ( kể từ sau sinh ) và có thể lây nhiễm cho người chưa được chủng ngừa.

3. Điều tra và chẩn đoán :
    Ban Rubella có thể trông giống ban của một số loại vi rút khác. Bác sỹ thường xác định chẩn đoán bằng các xét nghiệm:
  • Cấy vi rút ( bệnh phẩm lấy từ ngoáy mũi và họng ) hoặc
  • Xét nghiệm máu có thể phát hiện sự hiện diện của các loại kháng thể kháng rubella ( Sự hiện diện này cho thấy rằng người được xét nghiệm máu đã từng hoặc mới nhiễm Rubella hoặc đã tiêm vac xin  rubella ).

4. Biến chứng :
  • Rubella là một bệnh nhiễm vi rút nhẹ. Khi mắc bệnh  một lần thì miễn nhiễm suốt đời.
  • Khoảng 70% Phụ nữ trẻ bị Rubella thường thường bị viêm khớp ngón tay, cổ tay và đầu gối và thường kéo dài khoảng một tháng.
  • Thỉnh thoảng  nhưng hiếm, Rubella có thể gây viêm tai giữa và viêm não.
  • 1/3000 trường hợp có xuất huyết giảm tiểu cầu
  • Phụ nữ mang thai nhiễm Rubella có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến thai nhi. Khoảng 85%  thai nhi của bà mẹ bị nhiễm Rubella trong 3 tháng đầu của thai kỳ bị hội chứng Rubella bẩm sinh ( gồm : Chậm phát triển thể chất và tinh thần, đục thủy tinh thể, điếc, bệnh tim bẩm sinh, dị tật ở các cơ quan khác như gan, lách và tủy xương ). Tuy nhiên, nếu bà mẹ mang thai bị nhiễm Rubella trong những thai kỳ sau thì vẫn nguy hiểm.

5. Điều trị :
    Bệnh thường nhẹ, không có điều trị đặc hiệu và có thể để bệnh nhi tại nhà.
    Các biện pháp điều trị chỉ bao gồm:
  • Uống parcetamol hoặc acetaminophen ( Tylenol ) để hạ sốt và giảm đau ( có thể sử dụng ibuprofen ). Tuyệt đối không dùng Aspirin cho trẻ nhiễm vi rút vì khả năng gây ra hội chứng Reye ( là một hội chứng hiếm nhưng trầm trọng, ảnh hưởng đến máu gan và não thường xảy ra ở trẻ nhỏ và trẻ lớn sau nhiễm siêu vi ). ( xem:  sốt & hướng xử trí )
  • Nghỉ ngơi tại giường nếu cần
  • Báo cho bạn bè và đồng nghiệp, đặc biệt phụ nữ có thai biết về chẩn đoán của bạn
  • Nên cách ly  trẻ bị bệnh trong suốt thời gian lây nhiễm.
  • Phụ nữ mang thai nên tuyệt đối tránh tiếp xúc với nguồn lây. Một khi có tiếp xúc thì phải nhanh chóng tham khảo ý kiến của bác sỹ để nếu trong trường hợp nguời phụ nữ vẫn tiếp tục muốn giữ thai nhi thì có thể được tiêm siêu kháng th kháng Rubella ( hyperimmune globulin # Antibodies ) . Kháng th này có thể làm giảm triệu chứng nhưng không loại bỏ hoàn toàn  “ hội chứng Rubella bẩm sinh

    Cần tham khảo ý kiến của Bác sỹ khi:
  • Khi cháu tiếp xúc với nguồn lây  hoặc có các triệu chứng nghi ngờ của nhiễm Rubella.
  • Cháu sốt quá cao, đau đầu, cứng gáy, đau tai , Rối loạn thị giác xảy ra trong hoặc sau khi bị nhiễm Rubella.
  • Nếu các phụ nữ dự định có thai thì nên kiểm tra lại hồ sơ chủng ngừa. Nên chắc chắn rằng những người này nên được bảo vệ tuyệt đối khỏi Rubella trước khi có thai. Một khi đã mang thai, bà mẹ nên thử một  test  điều tra thông thường  ( A routine screening )  về sự miễn dịch đối với Rubella. Nếu người phụ nữ đó chưa từng tiêm MMR và có khả năng tiếp xúc với nguồn bệnh Rubella, cần tham khảo Bác sỹ ngay lập tức. Xét nghiệm máu có thxác định người đó có miễn dịch với Rubella không ( ? ) Nếu chưa thì người phụ nữ đó nên được chủng MMR ít nhất là một tháng trước khi mang thai.

6. Dự phòng :
  • Trẻ em nên được chủng ngừa với MMR ( Quai bị-_Sởi _ Rubella ) trong khoảng giữa 12-15 tháng tuổi và lặp lại trong khoảng gia 4-6 tuổi, trước tuổi đến trường.
  • Thường thì trẻ nhỏ vẫn được miễn dịich với Rubella từ sau sinh cho đến 6 hoặc 8 tháng tuổi. Nhưng nếu trẻ có nguy cơ tiếp xúc với nguồn lây, thì vc xin có thể được tiêm cho trẻ sớm nhất là vào 6 tháng tuổi. ( ví dụ , Mỹ là nơi hầu như đã thanh toán bệnh Rubella, nhưng trẻ em phải đi nước ngoài thì nên chủng ngừa sớm hơn dự định ). Tuy nhiên, những trẻ này về sau  vẫn phải tiêm lại đúng liều vào đúng lứa tuổi qui định.

    Một số điều cần biết về Tiêm chủng với MMR   ( Rubella Vac xin là vi rút sống đã được làm yếu đi )
    Một người không cần vac xin MMR khi:
  • Đã tiêm đủ hai liều vac xin theo qui định
  • Xét nghiệm máu cho thấy  người đó đã miễn nhiễm với Sởi - Quai bị - Rubella.
    Quý vị nên chủng MMR nếu bạn không đạt hai tiêu chuẩn trên và nếu:
  • Nữ giới đang trước, trong tuổi mang thai
  • Trẻ chưa được chủng liều thứ hai nên được tiêm liều này vào khoảng 11-12 tuổi
  • Để vào các trường Đại học, Cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp
  • Làm việc ở các bệnh viện, cơ sở Y tế, trường học, nhà trẻ …
  • Du lịch nước ngoài ( nếu quý vị là công dân của các nước tiên tiến, nơi mà Rubella đã được thanh toán )
    Không nên chủng MMR cho:
  • Phụ nữ đang mang thai hoặc chuẩn bị mang thai trong vòng 1 tháng tới
  • Những người có cơ địa dị ứng mạnh với gelatin, kháng thể, Neomycine
  • Đối với người bị ung thư, bệnh về máu và những bệnh có ảnh hưởng đến hệ miễn dịch, cần tham khảo ý kiến Bác sỹ trước khi chủng MMR

    Tác dụng phụ của vac xin MMR :
    Hầu như vắc xin này không gây tác dụng phụ. Tuy nhiên, 15% người được chủng bị sốt trong vòng 7-12 ngày sau đó, 5% phát ban nhẹ, một số phụ nữ và thiếu nữ có đau khớp. Ít hơn 1/1.000.000 ( một phần triệu ) có phản ứng dị ứng.
    Trong những năm gàn đây, ngưới ta có báo cáo về mối lo ngại sự liên quan về tính tự kỷ và vc xin MMR. Tuy nhiên các nghiên cứu xa hơn của Hội Nhi khoa Hoa kỳ, Học Viện Y khoa, và trung tâm y học dự phòng đã kết luận rằng không có một bằng chứng khoa học nào về mối liên hệ giữa MMR và tính tự kỷ, Hơn nữa, không có một lợi ích khoa học nào để tách rời các vc xin riêng biệt  ra khỏi MMR. Các tổ chức trên còn lưu ý rằng tính tự kỷ thường phát sinh ở trẻ tuổi từ 18 -30 tháng, gần như đúng vào thời gian  trẻ nhận liều MMR đầu tiên, Sự ngẫu nhiên về thời gian này không nên được hiểu lầm là mối quan hệ giữa nguyên nhân và hậu quả.Một người bị nhiễm Rubella có nhiều khả năng lây cho người khác nhất trong vòng một tuần trước khi ban xuất hiện và một tuần sau khi ban bay