09 22:37
Đã đăng Phần 1: Con người Hitler
Phẩn 2:. T�?I ÁC DIỆT CHỦNG CỦA PHÁT XÍT ĐỨC
Phát
xít Đức chiếm kỷ lục về giết đồng loại: ứng với mỗi chữ trong tự truyện
của Hitler Mein Kampf (Cuộc chiến đấu của tôi) – bản tuyên ngôn của
phát xít Đức – có 125 người bị chúng giết, ứng với mỗi chương sách này
có 1,2 triệu người chết. Trong dịp kỷ niệm 60 năm chiến thắng chống phát
xít, một nhà lãnh đạo CHLB Đức nói: đấy không phải là chiến tranh, mà
là một cuộc tàn sát!
Ngoài
các đặc điểm chung của chủ nghĩa phát xít như độc tài chuyên chế, phản
dân chủ, xâm lược, dã man tàn bạo, phát xít Đức có một điểm đặc biệt là
tàn sát nhằm tiêu diệt những người chúng cho là “hạ đẳng”, dù họ không
phải là đối tượng chiến tranh. Hành vi nói trên xuất phát từ quan điểm
chủng tộc bệnh hoạn cực đoan ích kỷ của Hitler: Coi chủng tộc German là
thượng đẳng (chúng lấy tên là Aryan), các dân tộc Do Thái, Gypsy, Slav
là hạ đẳng, cần giết hết để lấy không gian cho chúng sinh tồn. Trên thực
tế, dân tộc Do Thái lại cực kỳ thông minh, khôn ngoan, chiếm vai trò
quan trọng trong nhiều lĩnh vực trí tuệ, kinh tế tài chính trên thế
giới, điều đó Hitler không thể chấp nhận, vì hắn cho rằng chỉ dân tộc
Đức mới là nhất thế giới về mọi phương diện.
Phát
xít Nhật cũng có quan điểm cho dân tộc Nhật là dòng dõi thần thánh, cần
thống trị toàn châu Á để xây dựng “Đại Đông Á” ngang ngửa với Âu, Mỹ;
nhưng chưa tới mức bệnh hoạn kinh tởm như Hitler.
Vì sao Hitler căm ghét người Do Thái?
Vấn
đề này có nhiều giải đáp khác nhau. Người thì nói đó là do Hitler có
ông nội là người Do Thái: Bố hắn là con riêng của một ông chủ Do Thái
ngủ với cô giúp việc người Đức, do đó hắn có một phần tư huyết thống Do
Thái. Hitler coi đây là một sự xỉ nhục dân tộc Đức, hắn tức giận với sự
“ô uế” dòng máu Đức của mình. Lại có thuyết nói thủa trẻ Hitler yêu một
cô gái tóc vàng, cô này sau bị một thanh niên Do Thái “cuỗm” mất. Một
thuyết khác nói thủa trẻ Hitler ngủ với một gái điếm người Do Thái, cô
này đổ bệnh giang mai cho hắn khiến hắn suốt đời mất khả năng sinh dục.
Tóm lại hắn căm ghét người Do Thái vì những lý do nói trên.
Song các lý do cá nhân đó không thể là nhân tố chính dẫn tới việc tiêu diệt cả một dân tộc.
Sự
thật là không riêng gì người Đức mà nhiều dân tộc châu Âu theo Ki Tô
giáo đều phổ biến căm ghét người Do Thái, vì họ cho rằng người Do Thái
gây ra cái chết của Chúa Jesus: Theo Kinh Thánh, Juda (người Do Thái,
học trò của Jesus) đã phản bội, bán Jesus cho quan cai trị La Mã lấy ba
chục đồng bạc. Ngoài ra Ki Tô giáo coi Jesus là Messiah (tức Chúa Cứu
thế) của nhân loại, nhưng người Do Thái không thừa nhận điều đó – đây
cũng là một điểm bất đồng nghiêm trọng không thể hòa giải giữa đạo Do
Thái với đạo Ki Tô.
|
Khoảng 6 triệu người Do Thái bị giết trong Đại chiến thế giới lần thứ 2. Nguồn: iveinternet.ru
|
Các
quan điểm nói trên được một số nhân vật hàng đầu trong giáo hội Ki Tô
như Martin Luther, St Augustine tuyên truyền rùm beng, dần dần hình
thành tình cảm căm ghét hoặc thành kiến lệch lạc đối với người Do Thái,
về sau gọi là chủ nghĩa bài Do Thái (anti-Semitism). Đây là một tâm lý
phổ biến ở châu Âu, có lịch sử 2300 năm và bắt nguồn từ nhiều nguyên
nhân, trong đó nguyên nhân tôn giáo có vai trò khởi đầu. Ngay trong Hội
thảo Chống phân biệt chủng tộc của Liên Hợp Quốc tổ chức hôm 20/4/2009
vừa rồi, vẫn có những tiếng nói mạnh mẽ bài Do Thái, thậm chí phủ nhận
sự thật phát xít Đức tàn sát người Do Thái trong đại chiến II.
Hitler
hồi trẻ khi ở Vienna đọc nhiều sách tôn giáo, hắn tin vào quan điểm của
Chamberlain cho rằng Chúa Jesus không phải là người Do Thái (?) mà
người Do Thái hiện nay là hậu duệ của Juda; vì thế hắn càng căm thù dân
tộc này.
Cuối
thế kỷ XIX, xuất hiện một “lý thuyết sinh học” nhận định Do Thái là một
chủng người khác thường, có bản tính độc ác di truyền. Trong các biếm
họa chống Do Thái, họ có cái mũi hình tam giác và đôi mắt cú vọ, chân đi
vòng kiềng. Nước Nga Sa Hoàng giết hại hàng nghìn người Do Thái với lý
do ấy. Nhiều người Do Thái chạy từ Nga sang Đức, hồi ấy được coi là quốc
gia văn minh nhất. Nhưng họ đã nhầm, vì sau này nơi đây xuất hiện tên
phát xít Hitler.
Thành
công lớn của người Do Thái trong các lĩnh vực khoa học và kinh tế đã
gây ra sự ganh tị của không ít người châu Âu. Hitler sinh ra ở Áo, nền
văn hóa rực rỡ của nước này gắn liền với tên tuổi những người Do Thái
lừng danh như Freud, Wittgenstein, Mahler... Điều đó không thể không làm
Hitler ganh tị, tức giận, vì hắn luôn đề cao thuyết dân tộc Đức là nòi
giống ưu việt nhất thế giới. Người Do Thái di cư đến Đức từ thế kỷ I;
đầu thế kỷ XX họ có hơn nửa triệu người ở Đức, chỉ chiếm 1% số dân nhưng
lại nắm giữ phần quan trọng trong nền văn hóa, kinh tế nước này. Không
ít người Đức nổi tiếng thế giới như Marx (triết gia), Einstein (nhà khoa
học), Heine (nhà thơ) ... là người Do Thái. Jacob Schiff, chủ nhà băng ở
Đức đầu thế kỷ XX do căm ghét chính quyền Sa Hoàng giết hại hàng trăm
nghìn đồng bào Do Thái của ông ở Nga, đã cho chính phủ Nhật vay 200
triệu USD (một số tiền cực kỳ lớn hồi ấy) để xây dựng hải quân, nhờ đó
Nhật thắng Nga trong trận hải chiến năm 1905. Những thí dụ đó cho thấy
người Do Thái quả thật đã trở thành lực lượng có thể khuynh đảo thế giới
mà Hitler nếu muốn bá chủ trái đất thì nhất thiết phải đánh đổ và tiêu
diệt.
Hitler
cho người Do Thái là loại quái vật bí hiểm quỷ quyệt, kẻ phá hoại trật
tự xã hội nhân loại chuyên đứng sau giật dây kẻ khác gây ra tất cả các
tội ác, từ chủ nghĩa tư bản cho đến nạn mại dâm – đây là “cơ sở lý luận”
để hắn phạm tội diệt chủng người Do Thái. Trong Mein Kampf hắn viết:
“Mặt đối lập lớn nhất của Aryan là người Do Thái”. Hắn dùng luật pháp
định tội họ và đánh họ về kinh tế.
Có
một lý do nữa khiến Hitler căm ghét người Do Thái, đó là do hắn thề
không đội trời chung với chủ nghĩa cộng sản, mà các nhân vật chủ chốt
của chủ nghĩa đó lại phần nhiều là người Do Thái: ngoài ông tổ Karl Marx
ra còn có Lassalle, Rosa Luxemburg, Bernstein ... Nhiều lãnh tụ Đảng
Bôn-xê-vích Nga là người Do Thái, như Trotsky, Sverdlov, Dzerzhinsky,
... họ chiếm 16 trong số 24 Ủy viên Bộ chính trị Đảng này. Vì thế Hitler
coi người Do Thái là đại danh từ của chủ nghĩa cộng sản; muốn nô dịch
toàn thế giới hắn nhất thiết phải quét sạch chủ nghĩa cộng sản mà trước
tiên phải tiêu diệt người Do Thái.
Từ hãm hại, xua đuổi đến diệt chủng người Do Thái
Từ
năm 1931, các đội Xung kích Nazi đã đập phá khu người Do Thái và các
ngôi mộ của họ, cũng như ngăn người Đức tới mua hàng ở các cửa hiệu Do
Thái. Năm 1933, Hitler ký các đạo luật cấm người Do Thái làm công việc
văn thư, luật pháp, y tế, nông nghiệp, âm nhạc, kịch nói, điện ảnh, cấm
phục vụ trong quân đội v.v.. Thời gian 1933-1939 đã ban hành hơn 400 đạo
luật chống Do Thái. Năm 1935, Quốc Hội thông qua Luật Chủng tộc
Nuremberg, hoàn toàn loại trừ người Do Thái ra khỏi đời sống xã hội. Năm
1937, Goering thực thi “Aryan hoá nền kinh tế”, nghĩa là tịch thu các
xí nghiệp của người Do Thái. Khoảng 80% các xí nghiệp này đã chuyển vào
tay người Đức. Như vậy Hitler đã hoàn tất việc cướp đoạt toàn bộ tài sản
ước tính 1 tỷ đồng Mác của người Do Thái ở Đức, tương đương 12% ngân
sách chính phủ Đức. Điều này cực kỳ có lợi cho nền kinh tế Đức bị suy
thoái nặng sau cuộc khủng hoảng đầu thập niên 30.
Từ
1934, Đức bắt đầu xua đuổi người Do Thái. Hàng năm có 8000 người Do
Thái bị đưa đến Palestine thuộc Anh – nơi từng được Anh hứa lập riêng
một nước Do Thái. Về sau các nước khác không nhận nữa, vì họ cũng bài Do
Thái và vì đã quá nhiều; như Ba Lan trong 20 năm có 400 nghìn người Do
Thái đến. Mỹ, Anh, Pháp có truyền thống nhận người tỵ nạn, nay cũng hạn
chế nhận. Việc xua đuổi giết hại người Do Thái chỉ chậm lại trong thời
gian Đức tổ chức Thế vận Olympic Berlin 1936; sau đó lại đẩy mạnh. Trong
“Đêm Kinh hoàng” 9-11-1938, các đội Xung kích Nazi đánh giết, cướp bóc,
đập phá, đốt cháy nhiều cửa hiệu, đền thờ, nhà ở của người Do Thái ở
Munich.
Đầu
năm 1939, Hitler tuyên bố: “... chủng tộc Do Thái ở châu Âu sẽ bị huỷ
diệt.” Lực lượng SS bắt người Do Thái đưa về trại tập trung Dachau gần
Munich để giết dần họ. Sau khi chiếm Ba Lan, nơi có 3,3 triệu người Do
Thái, phát xít Đức bắt đầu tăng tốc độ tàn sát. Để giấu dân Đức biết
việc này, từ cuối 1939, phát xít Đức chở người Do Thái và người Gypsy ở
châu Âu vào các trại tập trung tại Ba Lan.
|
Phù điêu ở Bảo tàng Israel về thảm hoạ Holocaust của người Do Thái trong Đại chiến thế giới lần thứ 2. Ảnh: Châu Hồng Thuỷ
|
Cuộc
tấn công vào Liên Xô – nơi có 5 triệu người Do Thái – đánh dấu bước
ngoặt trong chính sách chống Do Thái. Hitler huấn thị cho các chỉ huy
quân đội: Do Thái và Bôn-xê-vich, giới trí thức và hồng quân Nga đều là
kẻ địch phải tiêu diệt. Lực lượng SS trở thành đội quân hành quyết
chuyên nghiệp. Khi tiến vào Liên Xô, chúng cứ thấy người Do Thái là bắn
ngay. Tại ba nước vùng Ban tích, chúng phối hợp với cảnh sát địa phương
(vốn ghét Do Thái) làm việc này. Trong 5 tuần đầu tiến quân vào đất Liên
Xô, số người Do Thái bị lính Đức giết nhiều hơn tổng số đã giết từ
trước đến nay.
Ngày
1-8-1941, Heydrich báo cáo Himmler: “Có thể tin chắc là trên mảnh đất
miền Đông này sẽ không còn người Do Thái nữa.” Sau đó Himmler đến tận
Minsk để xem “biểu diễn” cảnh hành quyết: Hàng trăm người Do Thái nằm úp
mặt dưới rãnh đào, lính SS bắn vào từng người. Himmler sợ tái mặt suýt
ngã, thế nhưng sau đó hắn huấn thị: mọi người cần thi hành chức trách
luật pháp của mình; để tự bảo vệ, loài người cần xác định kẻ nào là có
hại, và đã có hại thì phải tiêu diệt sạch.
Khi
chiếm Kiev (9-1941), bọn SS gọi toàn bộ người Do Thái tập trung vào
nghĩa trang rồi xả súng bắn; trong hai ngày, chúng giết chết 33.771
người. Về sau, Himmler ra lệnh phải tìm cách giết sao để “đỡ hành hạ họ
về tinh thần”. “Sáng kiến” đầu tiên là dùng các xe tải bọc kín, mỗi xe
chứa khoảng 50 người rồi bơm khí CO vào cho họ chết ngạt.
Đầu
1942, khi đã giết hơn 1 triệu người “hạ đẳng”, Goering ra lệnh tăng tốc
độ giết họ với mục đích diệt chủng. Chúng xây dựng ở Đông Âu 3 trung
tâm giết người là các trại tập trung Belzec, Treblinka, Sobibor. “Dây
chuyền công nghệ” mới là: Dùng xe lửa chở người đến trại, lột hết quần
áo, đưa vào phòng kín mỗi phòng 400 người rồi bơm khí CO vào, xác đem
đốt hoặc chôn. Trung bình nạn nhân đến trại không quá 3 giờ là bị giết!
Hàng ngày có 100 toa xe lửa chở người đến, mỗi ngày 3 trại này “sản
xuất” được 25 nghìn xác chết! Tổng giá trị số tiền cướp từ nạn nhân lên
tới 70 triệu USD. Tóc của họ được chở về Đức để chế tạo loại vải đặc
biệt. 3 trại tập trung trên về sau bị Đức san bằng để phi tang tội ác;
xác chết được đào lên rồi đốt.
Tiếp
đó, chúng xây dựng trại tập trung Auschwitz I, II và III, vừa là trại
lao động vừa là các nhà máy giết người. Tháng 3-1944, Đức chiếm Hungary;
lúc này Liên Xô đang đánh đuổi quân Đức ở Đông Âu, nhưng chúng vẫn kịp
chở 280 nghìn người Do Thái ở Hungary đến Auschwitz. Khi quân đội Liên
Xô giải phóng trại này (27-1-1945), chỉ còn 2.800 người sống sót, trong
kho còn hơn 836 nghìn áo khoác và váy phụ nữ, 370 nghìn áo khoác nam và 7
tấn tóc của người đã chết.
Xua đuổi hoặc tiêu diệt các dân tộc “hạ đẳng”
Ngay
từ trước chiến tranh, năm 1933, mới lên nắm chính quyền được hai năm
Hitler đã chỉ thị phải thủ tiêu những người bẩm sinh tàn tật hoặc đần
độn không phải Do Thái. Khoảng 5.000 trẻ em loại này đã bị tiêm thuốc
độc chết. Năm 1939, hắn lập 6 “Trung tâm T- 4”, dùng khí CO giết mỗi đợt
20-30 người thiểu năng trí tuệ hoặc tâm thần, rồi đốt xác phi tang. Gia
đình họ nhận được bình tro hài cốt và thư chia buồn, nói họ chết là do
viêm phổi, phải đốt xác để tránh truyền nhiễm. Về sau, do bị lộ, các đại
diện tôn giáo lên tiếng phản đối, Hitler phải ngừng việc này (8-1941)
khi hơn 70 nghìn nạn nhân đã chết, nhưng vẫn thủ tiêu tiếp vài nghìn tù
chính trị, tù hình sự và người Do Thái theo cách cố ý kết luận họ bị tâm
thần.
Hitler
cũng tàn sát hàng loạt người Gypsy (còn gọi Zigan) – một tộc người có
nước da màu sẫm, tóc đen, nói tiếng Romany lai tiếng Hindi, có truyền
thống sống du cư, chuyên làm những công việc có tính thời vụ và bán
rong, xem bói, chủ yếu sống ở châu Âu. Hitler buộc tội họ phá hoại huyết
thống người German. Bác sĩ Robert Rits Chủ nhiệm “Viện nghiên cứu Vệ
sinh chủng tộc và sinh vật học quần thể” được giao nhiệm vụ nghiên cứu
tìm “chứng cớ khoa học” cho lập luận của Quốc trưởng. Và thế là tất cả
người Gypsy ở Đức đều phải đăng ký với chính quyền, rồi được phân loại
theo mức độ lai với người Đức. Cuối cùng Rits kết luận: người Gypsy có
dòng máu người nguyên thuỷ, làm thành một giai cấp “á vô sản” tự khép
kín, có khuynh hướng phạm tội, nên đưa vào các trại tập trung để lao
động, hoặc tốt nhất thủ tiêu họ. Khoảng 250-500 nghìn người Gypsy đã
chết trong các trại tập trung.
Tháng
8-1939, trước khi xâm lược Ba Lan, Hitler ra lệnh cho quân đội Đức:
“Giết hết bất cứ đàn ông, đàn bà, trẻ con có huyết thống Ba Lan hoặc nói
tiếng Ba Lan; chỉ có thế chúng ta mới giành được không gian sinh tồn ta
cần”, nhằm lập một đế chế Nazi ở Đông Âu, xây dựng tại đây một xã hội
“tuyệt đối nông thôn hoá, thuần khiết về đặc tính sinh học, không cho
phép tồn tại dân bản địa hạ đẳng.” Himmler nói: “Chúng ta phải bảo đảm
chỉ người Đức thuần chủng mới được sống ở miền Đông.” Để đàn áp phong
trào kháng chiến, chúng quy định: cứ 1 lính Đức bị giết thì chúng sẽ
giết 50-100 người Ba Lan.
Lực
lượng SS thành lập “Uỷ ban Tăng cường Đức hoá” (RKFDV) để quy hoạch đất
đai Đông Âu, thủ tiêu người Slav ở đó và bố trí người Đức đến ở. Quân
Đức đến đâu cũng ra lệnh cho mọi người dọn nhà sạch sẽ, chuẩn bị hành lý
tuỳ thân trong vòng 20 phút và nộp chìa khoá nhà cho chúng, rồi chúng
chở họ đến các trại tập trung. Nhà của người Ba Lan phải giữ lại cho
người Đức đến ở sau khi hết chiến tranh. Ai phản đối lập tức bắn. Ngoài
nhà treo biển: “Người Ba Lan, Do Thái và chó cấm vào”. Ruộng đất giao
cho quân đội Đức quản lý để khi lính Đức giải ngũ sẽ sử dụng. Hitler chủ
trương nước Đức không xây dựng xã hội quý tộc nuôi nô lệ mà tự lao động
kiếm sống trong một “xã hội nông thôn”.
Tên
Heydrich trùm SS khét tiếng giết người về sau đã bị du kích Tiệp Khắc
ám sát; để trả thù vụ này, phát xít Đức đã gây ra vụ thảm sát làng
Lidice.
Tổng
cộng phát xít Đức đã giết 13 triệu dân thường Đông Âu; Ukraine – 4 triệu
người (gần 1 triệu là Do Thái), một nửa số dân Kiev bị giết; Belorussia
– 2,3 triệu hoặc 25% số dân; Ba Lan – 6 triệu (một nửa là Do Thái, một
nửa là tín đồ Tin Lành) hoặc 22% số dân; Liên Xô – vài triệu dân người
Slav và 3 triệu tù binh Nga gốc Slav. Tại Ba Lan, chúng giết toàn bộ các
nhà báo, 45% bác sĩ, 57% luật sư, 40% giáo sư – những người chúng cho
là có thể lãnh đạo dân chống lại Đức.
Người
Slav chủ yếu sống ở Trung Âu và Đông Âu như Nga, Ba Lan, Tiệp Khắc,
Slovarkia, Bulgaria, Croatia, Slovenia và Serbi. Trong Đại chiến II, các
nước người Slav như Hungary, Rumania và Bulgaria còn là đồng minh của
Đức, cho nên tuy Hitler coi người Slav là “đáng khinh”, nhưng chưa cần
diệt ngay như người Do Thái.
Hitler
có thái độ khác đối với các nước Tây và Bắc Âu. Tuy đánh nhau với Anh
nhưng hắn tôn trọng dân Anh, vì họ cùng nguồn gốc chủng tộc. Hắn muốn
hoà bình với Anh để cùng chống Liên Xô cộng sản, nhưng Thủ tướng
Churchills kiên quyết phản đối vì đã thấy rõ bộ mặt xâm lược tàn nhẫn
của hắn. Riêng người Bắc Âu, nhất là người Na Uy lại được Hitler quý
trọng, coi là người Aryan chính cống, dòng dõi của người Viking (cướp
biển) nổi tiếng thông minh khôn ngoan hồi thế kỷ VIII-XI. Trùm mật vụ
Nazi là Himmler từng đề xuất và thực hiện “Chương trình sinh con thuần
chủng” để đẻ ra những đứa con “Aryan” thuần chủng cho Quốc trưởng, trong
đó hắn cưỡng bức phụ nữ Na Uy phải ngủ với lính SS Đức và sinh con
trong các trại Lebensborn (“Nguồn gốc sự sống”)..
Nguyễn Hải Hoành