Thứ Năm, 15 tháng 11, 2012

Đã đăng Phần 1: Con người Hitler

09 22:37
Đã đăng Phần 1: Con người Hitler
Phẩn 2:. T�?I ÁC DIỆT CHỦNG CỦA PHÁT XÍT ĐỨC                      
Phát xít Đức chiếm kỷ lục về giết đồng loại: ứng với mỗi chữ trong tự truyện của Hitler Mein Kampf (Cuộc chiến đấu của tôi) – bản tuyên ngôn của phát xít Đức – có 125 người bị chúng giết, ứng với mỗi chương sách này có 1,2 triệu người chết. Trong dịp kỷ niệm 60 năm chiến thắng chống phát xít, một nhà lãnh đạo CHLB Đức nói: đấy không phải là chiến tranh, mà là một cuộc tàn sát!
Ngoài các đặc điểm chung của chủ nghĩa phát xít như độc tài chuyên chế, phản dân chủ, xâm lược, dã man tàn bạo, phát xít Đức có một điểm đặc biệt là tàn sát nhằm tiêu diệt những người chúng cho là “hạ đẳng”, dù họ không phải là đối tượng chiến tranh. Hành vi nói trên xuất phát từ quan điểm chủng tộc bệnh hoạn cực đoan ích kỷ của Hitler: Coi chủng tộc German là thượng đẳng (chúng lấy tên là Aryan), các dân tộc Do Thái, Gypsy, Slav là hạ đẳng, cần giết hết để lấy không gian cho chúng sinh tồn. Trên thực tế, dân tộc Do Thái lại cực kỳ thông minh, khôn ngoan, chiếm vai trò quan trọng trong nhiều lĩnh vực trí tuệ, kinh tế tài chính trên thế giới, điều đó Hitler không thể chấp nhận, vì hắn cho rằng chỉ dân tộc Đức mới là nhất thế giới về mọi phương diện.
Phát xít Nhật cũng có quan điểm cho dân tộc Nhật là dòng dõi thần thánh, cần thống trị toàn châu Á để xây dựng “Đại Đông Á” ngang ngửa với Âu, Mỹ; nhưng chưa tới mức bệnh hoạn kinh tởm như Hitler.
Vì sao Hitler căm ghét người Do Thái?
Vấn đề này có nhiều giải đáp khác nhau. Người thì nói đó là do Hitler có ông nội là người Do Thái: Bố hắn là con riêng của một ông chủ Do Thái ngủ với cô giúp việc người Đức, do đó hắn có một phần tư huyết thống Do Thái. Hitler coi đây là một sự xỉ nhục dân tộc Đức, hắn tức giận với sự “ô uế” dòng máu Đức của mình. Lại có thuyết nói thủa trẻ Hitler yêu một cô gái tóc vàng, cô này sau bị một thanh niên Do Thái “cuỗm” mất. Một thuyết khác nói thủa trẻ Hitler ngủ với một gái điếm người Do Thái, cô này đổ bệnh giang mai cho hắn khiến hắn suốt đời mất khả năng sinh dục. Tóm lại hắn căm ghét người Do Thái vì những lý do nói trên.
Song các lý do cá nhân đó không thể là nhân tố chính dẫn tới việc tiêu diệt cả một dân tộc.
Sự thật là không riêng gì người Đức mà nhiều dân tộc châu Âu theo Ki Tô giáo đều phổ biến căm ghét người Do Thái, vì họ cho rằng người Do Thái gây ra cái chết của Chúa Jesus: Theo Kinh Thánh, Juda (người Do Thái, học trò của Jesus) đã phản bội, bán Jesus cho quan cai trị La Mã lấy ba chục đồng bạc. Ngoài ra Ki Tô giáo coi Jesus là Messiah (tức Chúa Cứu thế) của nhân loại, nhưng người Do Thái không thừa nhận điều đó – đây cũng là một điểm bất đồng nghiêm trọng không thể hòa giải giữa đạo Do Thái với đạo Ki Tô.
Khoảng 6 triệu người Do Thái bị giết trong Đại chiến thế giới lần thứ 2. Nguồn: iveinternet.ru
Các quan điểm nói trên được một số nhân vật hàng đầu trong giáo hội Ki Tô như Martin Luther, St Augustine tuyên truyền rùm beng, dần dần hình thành tình cảm căm ghét hoặc thành kiến lệch lạc đối với người Do Thái, về sau gọi là chủ nghĩa bài Do Thái (anti-Semitism). Đây là một tâm lý phổ biến ở châu Âu, có lịch sử 2300 năm và bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân tôn giáo có vai trò khởi đầu. Ngay trong Hội thảo Chống phân biệt chủng tộc của Liên Hợp Quốc tổ chức hôm 20/4/2009 vừa rồi, vẫn có những tiếng nói mạnh mẽ bài Do Thái, thậm chí phủ nhận sự thật phát xít Đức tàn sát người Do Thái trong đại chiến II.
Hitler hồi trẻ khi ở Vienna đọc nhiều sách tôn giáo, hắn tin vào quan điểm của Chamberlain cho rằng Chúa Jesus không phải là người Do Thái (?) mà người Do Thái hiện nay là hậu duệ của Juda; vì thế hắn càng căm thù dân tộc này.
Cuối thế kỷ XIX, xuất hiện một “lý thuyết sinh học” nhận định Do Thái là một chủng người khác thường, có bản tính độc ác di truyền. Trong các biếm họa chống Do Thái, họ có cái mũi hình tam giác và đôi mắt cú vọ, chân đi vòng kiềng. Nước Nga Sa Hoàng giết hại hàng nghìn người Do Thái với lý do ấy. Nhiều người Do Thái chạy từ Nga sang Đức, hồi ấy được coi là quốc gia văn minh nhất. Nhưng họ đã nhầm, vì sau này nơi đây xuất hiện tên phát xít Hitler.
Thành công lớn của người Do Thái trong các lĩnh vực khoa học và kinh tế đã gây ra sự ganh tị của không ít người châu Âu. Hitler sinh ra ở Áo, nền văn hóa rực rỡ của nước này gắn liền với tên tuổi những người Do Thái lừng danh như Freud, Wittgenstein, Mahler... Điều đó không thể không làm Hitler ganh tị, tức giận, vì hắn luôn đề cao thuyết dân tộc Đức là nòi giống ưu việt nhất thế giới. Người Do Thái di cư đến Đức từ thế kỷ I; đầu thế kỷ XX họ có hơn nửa triệu người ở Đức, chỉ chiếm 1% số dân nhưng lại nắm giữ phần quan trọng trong nền văn hóa, kinh tế nước này. Không ít người Đức nổi tiếng thế giới như Marx (triết gia), Einstein (nhà khoa học), Heine (nhà thơ) ... là người Do Thái. Jacob Schiff, chủ nhà băng ở Đức đầu thế kỷ XX do căm ghét chính quyền Sa Hoàng giết hại hàng trăm nghìn đồng bào Do Thái của ông ở Nga, đã cho chính phủ Nhật vay 200 triệu USD (một số tiền cực kỳ lớn hồi ấy) để xây dựng hải quân, nhờ đó Nhật thắng Nga trong trận hải chiến năm 1905. Những thí dụ đó cho thấy người Do Thái quả thật đã trở thành lực lượng có thể khuynh đảo thế giới mà Hitler nếu muốn bá chủ trái đất thì nhất thiết phải đánh đổ và tiêu diệt.
Hitler cho người Do Thái là loại quái vật bí hiểm quỷ quyệt, kẻ phá hoại trật tự xã hội nhân loại chuyên đứng sau giật dây kẻ khác gây ra tất cả các tội ác, từ chủ nghĩa tư bản cho đến nạn mại dâm – đây là “cơ sở lý luận” để hắn phạm tội diệt chủng người Do Thái. Trong Mein Kampf hắn viết: “Mặt đối lập lớn nhất của Aryan là người Do Thái”. Hắn dùng luật pháp định tội họ và đánh họ về kinh tế.
Có một lý do nữa khiến Hitler căm ghét người Do Thái, đó là do hắn thề không đội trời chung với chủ nghĩa cộng sản, mà các nhân vật chủ chốt của chủ nghĩa đó lại phần nhiều là người Do Thái: ngoài ông tổ Karl Marx ra còn có Lassalle, Rosa Luxemburg, Bernstein ... Nhiều lãnh tụ Đảng Bôn-xê-vích Nga là người Do Thái, như Trotsky, Sverdlov, Dzerzhinsky, ... họ chiếm 16 trong số 24 Ủy viên Bộ chính trị Đảng này. Vì thế Hitler coi người Do Thái là đại danh từ của chủ nghĩa cộng sản; muốn nô dịch toàn thế giới hắn nhất thiết phải quét sạch chủ nghĩa cộng sản mà trước tiên phải tiêu diệt người Do Thái.
Từ hãm hại, xua đuổi đến diệt chủng người Do Thái
Từ năm 1931, các đội Xung kích Nazi đã đập phá khu người Do Thái và các ngôi mộ của họ, cũng như ngăn người Đức tới mua hàng ở các cửa hiệu Do Thái. Năm 1933, Hitler ký các đạo luật cấm người Do Thái làm công việc văn thư, luật pháp, y tế, nông nghiệp, âm nhạc, kịch nói, điện ảnh, cấm phục vụ trong quân đội v.v.. Thời gian 1933-1939 đã ban hành hơn 400 đạo luật chống Do Thái. Năm 1935, Quốc Hội thông qua Luật Chủng tộc Nuremberg, hoàn toàn loại trừ người Do Thái ra khỏi đời sống xã hội. Năm 1937, Goering thực thi “Aryan hoá nền kinh tế”, nghĩa là tịch thu các xí nghiệp của người Do Thái. Khoảng 80% các xí nghiệp này đã chuyển vào tay người Đức. Như vậy Hitler đã hoàn tất việc cướp đoạt toàn bộ tài sản ước tính 1 tỷ đồng Mác của người Do Thái ở Đức, tương đương 12% ngân sách chính phủ Đức. Điều này cực kỳ có lợi cho nền kinh tế Đức bị suy thoái nặng sau cuộc khủng hoảng đầu thập niên 30.
Từ 1934, Đức bắt đầu xua đuổi người Do Thái. Hàng năm có 8000 người Do Thái bị đưa đến Palestine thuộc Anh – nơi từng được Anh hứa lập riêng một nước Do Thái. Về sau các nước khác không nhận nữa, vì họ cũng bài Do Thái và vì đã quá nhiều; như Ba Lan trong 20 năm có 400 nghìn người Do Thái đến. Mỹ, Anh, Pháp có truyền thống nhận người tỵ nạn, nay cũng hạn chế nhận. Việc xua đuổi giết hại người Do Thái chỉ chậm lại trong thời gian Đức tổ chức Thế vận Olympic Berlin 1936; sau đó lại đẩy mạnh. Trong “Đêm Kinh hoàng” 9-11-1938, các đội Xung kích Nazi đánh giết, cướp bóc, đập phá, đốt cháy nhiều cửa hiệu, đền thờ, nhà ở của người Do Thái ở Munich.
Đầu năm 1939, Hitler tuyên bố: “... chủng tộc Do Thái ở châu Âu sẽ bị huỷ diệt.” Lực lượng SS bắt người Do Thái đưa về trại tập trung Dachau gần Munich để giết dần họ. Sau khi chiếm Ba Lan, nơi có 3,3 triệu người Do Thái, phát xít Đức bắt đầu tăng tốc độ tàn sát. Để giấu dân Đức biết việc này, từ cuối 1939, phát xít Đức chở người Do Thái và người Gypsy ở châu Âu vào các trại tập trung tại Ba Lan.
Phù điêu ở Bảo tàng Israel về thảm hoạ Holocaust của người Do Thái trong Đại chiến thế giới lần thứ 2. Ảnh: Châu Hồng Thuỷ
Cuộc tấn công vào Liên Xô – nơi có 5 triệu người Do Thái – đánh dấu bước ngoặt trong chính sách chống Do Thái. Hitler huấn thị cho các chỉ huy quân đội: Do Thái và Bôn-xê-vich, giới trí thức và hồng quân Nga đều là kẻ địch phải tiêu diệt. Lực lượng SS trở thành đội quân hành quyết chuyên nghiệp. Khi tiến vào Liên Xô, chúng cứ thấy người Do Thái là bắn ngay. Tại ba nước vùng Ban tích, chúng phối hợp với cảnh sát địa phương (vốn ghét Do Thái) làm việc này. Trong 5 tuần đầu tiến quân vào đất Liên Xô, số người Do Thái bị lính Đức giết nhiều hơn tổng số đã giết từ trước đến nay.
Ngày 1-8-1941, Heydrich báo cáo Himmler: “Có thể tin chắc là trên mảnh đất miền Đông này sẽ không còn người Do Thái nữa.” Sau đó Himmler đến tận Minsk để xem “biểu diễn” cảnh hành quyết: Hàng trăm người Do Thái nằm úp mặt dưới rãnh đào, lính SS bắn vào từng người. Himmler sợ tái mặt suýt ngã, thế nhưng sau đó hắn huấn thị: mọi người cần thi hành chức trách luật pháp của mình; để tự bảo vệ, loài người cần xác định kẻ nào là có hại, và đã có hại thì phải tiêu diệt sạch.
Khi chiếm Kiev (9-1941), bọn SS gọi toàn bộ người Do Thái tập trung vào nghĩa trang rồi xả súng bắn; trong hai ngày, chúng giết chết 33.771 người. Về sau, Himmler ra lệnh phải tìm cách giết sao để “đỡ hành hạ họ về tinh thần”. “Sáng kiến” đầu tiên là dùng các xe tải bọc kín, mỗi xe chứa khoảng 50 người rồi bơm khí CO vào cho họ chết ngạt.
Đầu 1942, khi đã giết hơn 1 triệu người “hạ đẳng”, Goering ra lệnh tăng tốc độ giết họ với mục đích diệt chủng. Chúng xây dựng ở Đông Âu 3 trung tâm giết người là các trại tập trung Belzec, Treblinka, Sobibor. “Dây chuyền công nghệ” mới là: Dùng xe lửa chở người đến trại, lột hết quần áo, đưa vào phòng kín mỗi phòng 400 người rồi bơm khí CO vào, xác đem đốt hoặc chôn. Trung bình nạn nhân đến trại không quá 3 giờ là bị giết! Hàng ngày có 100 toa xe lửa chở người đến, mỗi ngày 3 trại này “sản xuất” được 25 nghìn xác chết! Tổng giá trị số tiền cướp từ nạn nhân lên tới 70 triệu USD. Tóc của họ được chở về Đức để chế tạo loại vải đặc biệt. 3 trại tập trung trên về sau bị Đức san bằng để phi tang tội ác; xác chết được đào lên rồi đốt.
Tiếp đó, chúng xây dựng trại tập trung Auschwitz I, II và III, vừa là trại lao động vừa là các nhà máy giết người. Tháng 3-1944, Đức chiếm Hungary; lúc này Liên Xô đang đánh đuổi quân Đức ở Đông Âu, nhưng chúng vẫn kịp chở 280 nghìn người Do Thái ở Hungary đến Auschwitz. Khi quân đội Liên Xô giải phóng trại này (27-1-1945), chỉ còn 2.800 người sống sót, trong kho còn hơn 836 nghìn áo khoác và váy phụ nữ, 370 nghìn áo khoác nam và 7 tấn tóc của người đã chết.
Xua đuổi hoặc tiêu diệt các dân tộc “hạ đẳng”
Ngay từ trước chiến tranh, năm 1933, mới lên nắm chính quyền được hai năm Hitler đã chỉ thị phải thủ tiêu những người bẩm sinh tàn tật hoặc đần độn không phải Do Thái. Khoảng 5.000 trẻ em loại này đã bị tiêm thuốc độc chết. Năm 1939, hắn lập 6 “Trung tâm T- 4”, dùng khí CO giết mỗi đợt 20-30 người thiểu năng trí tuệ hoặc tâm thần, rồi đốt xác phi tang. Gia đình họ nhận được bình tro hài cốt và thư chia buồn, nói họ chết là do viêm phổi, phải đốt xác để tránh truyền nhiễm. Về sau, do bị lộ, các đại diện tôn giáo lên tiếng phản đối, Hitler phải ngừng việc này (8-1941) khi hơn 70 nghìn nạn nhân đã chết, nhưng vẫn thủ tiêu tiếp vài nghìn tù chính trị, tù hình sự và người Do Thái theo cách cố ý kết luận họ bị tâm thần.
Hitler cũng tàn sát hàng loạt người Gypsy (còn gọi Zigan) – một tộc người có nước da màu sẫm, tóc đen, nói tiếng Romany lai tiếng Hindi, có truyền thống sống du cư, chuyên làm những công việc có tính thời vụ và bán rong, xem bói, chủ yếu sống ở châu Âu. Hitler buộc tội họ phá hoại huyết thống người German. Bác sĩ Robert Rits Chủ nhiệm “Viện nghiên cứu Vệ sinh chủng tộc và sinh vật học quần thể” được giao nhiệm vụ nghiên cứu tìm “chứng cớ khoa học” cho lập luận của Quốc trưởng. Và thế là tất cả người Gypsy ở Đức đều phải đăng ký với chính quyền, rồi được phân loại theo mức độ lai với người Đức. Cuối cùng Rits kết luận: người Gypsy có dòng máu người nguyên thuỷ, làm thành một giai cấp “á vô sản” tự khép kín, có khuynh hướng phạm tội, nên đưa vào các trại tập trung để lao động, hoặc tốt nhất thủ tiêu họ. Khoảng 250-500 nghìn người Gypsy đã chết trong các trại tập trung.
Tháng 8-1939, trước khi xâm lược Ba Lan, Hitler ra lệnh cho quân đội Đức: “Giết hết bất cứ đàn ông, đàn bà, trẻ con có huyết thống Ba Lan hoặc nói tiếng Ba Lan; chỉ có thế chúng ta mới giành được không gian sinh tồn ta cần”, nhằm lập một đế chế Nazi ở Đông Âu, xây dựng tại đây một xã hội “tuyệt đối nông thôn hoá, thuần khiết về đặc tính sinh học, không cho phép tồn tại dân bản địa hạ đẳng.” Himmler nói: “Chúng ta phải bảo đảm chỉ người Đức thuần chủng mới được sống ở miền Đông.” Để đàn áp phong trào kháng chiến, chúng quy định: cứ 1 lính Đức bị giết thì chúng sẽ giết 50-100 người Ba Lan.
Lực lượng SS thành lập “Uỷ ban Tăng cường Đức hoá” (RKFDV) để quy hoạch đất đai Đông Âu, thủ tiêu người Slav ở đó và bố trí người Đức đến ở. Quân Đức đến đâu cũng ra lệnh cho mọi người dọn nhà sạch sẽ, chuẩn bị hành lý tuỳ thân trong vòng 20 phút và nộp chìa khoá nhà cho chúng, rồi chúng chở họ đến các trại tập trung. Nhà của người Ba Lan phải giữ lại cho người Đức đến ở sau khi hết chiến tranh. Ai phản đối lập tức bắn. Ngoài nhà treo biển: “Người Ba Lan, Do Thái và chó cấm vào”. Ruộng đất giao cho quân đội Đức quản lý để khi lính Đức giải ngũ sẽ sử dụng. Hitler chủ trương nước Đức không xây dựng xã hội quý tộc nuôi nô lệ mà tự lao động kiếm sống trong một “xã hội nông thôn”.
Tên Heydrich trùm SS khét tiếng giết người về sau đã bị du kích Tiệp Khắc ám sát; để trả thù vụ này, phát xít Đức đã gây ra vụ thảm sát làng Lidice.
Tổng cộng phát xít Đức đã giết 13 triệu dân thường Đông Âu; Ukraine – 4 triệu người (gần 1 triệu là Do Thái), một nửa số dân Kiev bị giết; Belorussia – 2,3 triệu hoặc 25% số dân; Ba Lan – 6 triệu (một nửa là Do Thái, một nửa là tín đồ Tin Lành) hoặc 22% số dân; Liên Xô – vài triệu dân người Slav và 3 triệu tù binh Nga gốc Slav. Tại Ba Lan, chúng giết toàn bộ các nhà báo, 45% bác sĩ, 57% luật sư, 40% giáo sư – những người chúng cho là có thể lãnh đạo dân chống lại Đức.
Người Slav chủ yếu sống ở Trung Âu và Đông Âu như Nga, Ba Lan, Tiệp Khắc, Slovarkia, Bulgaria, Croatia, Slovenia và Serbi. Trong Đại chiến II, các nước người Slav như Hungary, Rumania và Bulgaria còn là đồng minh của Đức, cho nên tuy Hitler coi người Slav là “đáng khinh”, nhưng chưa cần diệt ngay như người Do Thái.
Hitler có thái độ khác đối với các nước Tây và Bắc Âu. Tuy đánh nhau với Anh nhưng hắn tôn trọng dân Anh, vì họ cùng nguồn gốc chủng tộc. Hắn muốn hoà bình với Anh để cùng chống Liên Xô cộng sản, nhưng Thủ tướng Churchills kiên quyết phản đối vì đã thấy rõ bộ mặt xâm lược tàn nhẫn của hắn. Riêng người Bắc Âu, nhất là người Na Uy lại được Hitler quý trọng, coi là người Aryan chính cống, dòng dõi của người Viking (cướp biển) nổi tiếng thông minh khôn ngoan hồi thế kỷ VIII-XI. Trùm mật vụ Nazi là Himmler từng đề xuất và thực hiện “Chương trình sinh con thuần chủng” để đẻ ra những đứa con “Aryan” thuần chủng cho Quốc trưởng, trong đó hắn cưỡng bức phụ nữ Na Uy phải ngủ với lính SS Đức và sinh con trong các trại Lebensborn (“Nguồn gốc sự sống”)..
Nguyễn Hải Hoành

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét