Thứ Bảy, 5 tháng 5, 2012

Sàng lọc dị tật bẩm sinh bằng sử dụng các marker có trong máu mẹ

Sàng lọc dị tật bẩm sinh bằng sử dụng các marker có trong máu mẹ

Phương pháp sàng lọc bằng sử dụng các marker có trong máu mẹ (còn gọi là sàng lọc huyết thanh mẹ hay sàng lọc huyết thanh) được sử dụng từ những năm 1980, cho đến ngày nay đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. thai nghén .net !



Sau phát hiện ra AFP thì beta-hCG và free beta-hCG là mốc quan trọng. Hiện nay có 5 marker hay được dùng là AFP, beta-hCG, uE3, PAPPA-A và inhibin-A. Mỗi chất có vai trò khác nhau trong việc phát hiện DTBS, sử dụng đơn độc có hiệu quả không cao bằng việc kết hợp các marker. Khi kết hợp lại chúng ta có các biện pháp sàng lọc huyết thanh như: Double test, Triple test, Quadrupt test, Combine test và Intergrated test. Thời gian tiến hành ngày càng thực hiện sớm hơn, với Quad test và Combine test thì có thể tiến hành ngay từ quý I của thai kì, tuần thứ 9 hoặc 10.

Sàng lọc huyết thanh tiến hành đơn giản, ít tốn kém, độ nhạy cao. Với Double test và Triple test có thể phát hiện được từ 60-70%, Combine test và Intergrate test thì có thể tới hơn 80%.

Sàng lọc huyết thanh kết hợp với các biện pháp sàng lọc khác mang lại kết quả tốt hơn so với chỉ sàng lọc huyết thanh đơn thuần.


Sơ đồ tóm tắt lịch sử sàng lọc huyết thanh



Các biên pháp đều tiến hành ở quý 1 và 2 của thai kì và hầu hết đều có kết hợp với yếu tố tuổi mẹ. Anh Quốc được xem là nước đi đầu trong nghiên cứu các xét nghiệm sàng lọc trước sinh. Trước khi Integrated test ra đời, Double test, sau đó là Triple test là xét nghiệm được ưa chuộng tại Châu Âu. Tại Pháp, cho đến hội nghị về chẩn đoán trước sinh 2002, vẫn còn nhiều bàn cãi về việc có nên chuyển chương trình tầm soát dùng Tripple test trong Trimester II sang các test ở giai đoạn sớm hơn không.

Cho đến 1995, tại Mỹ, Double test, Triple test hay AFP sử dụng đơn độc được sử dụng trên nhiều labo xét nghiệm khác nhau. Tiếp sau đó, Quadruple test được lựa chọn sử dụng do độ phát hiện khá cao. Sau nhiều công bố về hiệu quả của Integrated test, rất nhiều quốc gia trên thế giới đang sử dụng test này để sàng lọc phát hiện sớm thai bất thường bẩm sinh.

Sàng lọc Dị tật bẩm sinh (quái thai) bằng siêu âm thai

Sàng lọc Dị tật bẩm sinh (quái thai) bằng siêu âm thai

Siêu âm thai được Ian Donald Glasgow thực hiện lần đầu tiên năm 1958, sau đó được phát triển bởi nhiều tác giả như Durkan và Russo (1966), Kohrn (1967), Campbell (1968)… Ngày nay siêu âm được phát triển và ứng dụng trong rất nhiều trong lĩnh vực nghiên cứu và chẩn đoán trước sinh. thai nghén .net !


Nuchal translucency: độ mờ (dày) da gáy

Người ta sử dụng siêu âm thai ở 3 tháng đầu để phát hiện sự tăng KSSG của thai và có thể phát hiện một số bất thường hình thái của thai. Nhưng các bất thường hình thái của thai thường được phát hiện vào Quý II của thai kì thậm trí đến tận quý III của thai kỳ..

Để xác định chính xác nguyên nhân gây bất thường di truyền thì người ta tiến hành các xét nghiệm di truyền. Trong những trường hợp này siêu âm đóng vai trò là sàng lọc để tìm nguy cơ cao, thấp cho bất thường di truyền.

Giá trị của siêu âm trong sàng lọc và chẩn đoán dị tật bẩm sinh là rất lớn, chi phí cho mỗi lần siêu âm không quá đắt, có thể chỉ định siêu âm thường quy phát hiện dị tật bẩm sinh cho tất cả các bà mẹ mang thai ngay từ giai đoạn sớm của thai kì.

Nguyên nhân gay dị tật bẩm sinh

Các chất này rất đa dạng, nhưng phần lớn là các chất kích thích, được giới chuyên môn gọi bằng cái tên teratogens như hóa chất, các chất gây ô nhiễm có trong môi trường mà sản phụ tiếp xúc hay sử dụng trong thời kỳ mang thai.
1. Rượu
Rượu được xếp đầu danh sách các hợp chất teratogens bởi nó có tác động rất lớn đối với bào thai. Trước tiên, làm cho trẻ chậm phát triển tâm thần, gây dị tật bẩm sinh, đầu nhỏ, mặt nhỏ và nhiều dị tật khác trên khuôn mặt và ở tứ chi, trẻ sinh thiếu cân, thiếu tháng và rất nhiều tác động tiêu cực đến quá trình phát triển của trẻ. Vì mối nguy hiểm này mà khi mang thai người mẹ hãy tránh xa rượu.
2. Nicotin
Nicotin là hóa chất dễ gây nghiện có nhiều trong thuốc lá. Khi người mẹ hút thuốc, nicotin ngấm vào máu, qua nhau thai đi vào bào thai và nếu thời gian phơi nhiễm nicotin càng lâu thì em bé cũng mắc chứng nghiện, tạo ra nhiều hậu quả nghiêm trọng như suy hô hấp do thiếu oxy, bào thai phát triển không bình thường, chậm lớn, phát sinh tình trạng đẻ non, nhẹ cân khi sinh và nhiều hậu quả lâu dài khác khi trẻ trưởng thành.
Khi mang thai không được sử dụng thuốc lá và rượu
3. Cocaine và amphetamin
Đây là nhóm thuốc kích thích thần kinh, gây ảnh hưởng trực tiếp đến các tế bào thần kinh. Nếu lạm dụng có thể tạo các khối u nang trong não của trẻ, tăng khuyết tật khi sinh, thai chết lưu và trẻ sinh ra dễ mắc chứng nghiện, phát triển hành vi khác thường, trí não trẻ phát triển kém, ngỗ ngược và nhiều ảnh hưởng khác đến tâm tính khi trưởng thành.
4. Các loại virút
Một số loại virút dưới đây được xem là rất nguy hiểm cho phụ nữ giai đoạn mang thai như virút gây bệnh sởi Đức hay còn gọi là rubella, virút cytomegalovirus (CMV), virút gây bệnh herpes và varicella zoster virút (VZV). Đây là 4 loại virút phụ nữ mang thai và trẻ sơ sinh có rủi ro lây nhiễm cao thậm chí có tới 90% số trẻ sinh nhiễm vi rút CMV mà không hề có bất kỳ dấu hiệu thể hiện ra bên ngoài. Thủ phạm gây nhiều mối nguy như khuyết tật tim bẩm sinh, điếc, mù ở trẻ nếu nhiễm virút rubella, gây kém phát triển não, vôi hóa trong não, mù điếc nếu nhiễm CMV và virút herpes hoặc mắc bệnh viêm phổi nếu nhiễm virút VZV. Phụ nữ trước khi mang thai cần tư vấn bác sĩ phương pháp phòng ngừa hoặc tiêm phòng vắc-xin nếu được phép.
5. Khuẩn gây bệnh giang mai
Khuẩn giang mai thường lây lan qua đường tình dục, đây là loại khuẩn cực nhỏ hình xoắn ốc, có tên là Treponemes. Nếu không được điều trị bệnh giang mai có thể phát triển qua 3 giai đoạn lâm sàng gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ sản phụ lẫn trẻ sơ sinh. Đối với người mẹ nó sẽ đi vào dòng máu sau đó truyền sang cho trẻ, gây sảy thai, thai chết lưu hoặc chết trong vòng vài ngày sau sinh. Nếu qua khỏi sẽ mắc phải nhiều bệnh nan y trong đó có bệnh viêm màng não, viêm da và một số bệnh bẩm sinh. Bởi vậy khi mang thai người mẹ phải điều trị dứt điểm căn bệnh này hoặc không nên mang thai khi đang mắc bệnh.
6. Toxoplasma
Toxoplasma là động vật nguyên sinh đơn bào, nó có thể gây nhiễm trùng các loại động vật. Mèo được xem là động vật trung gian gây lan truyền Toxoplasma mạnh nhất ngoài ra có thể bị mắc bệnh do ăn uống không hợp vệ sinh, không đun sôi, nấu chín, có thói quen ăn thịt sống… Nếu trong giai đoạn mang thai bị nhiễm Toxoplasma có thể gây sảy thai, thai chết lưu, trẻ kém phát triển cả về thể chất lẫn tinh thần, nếu nặng có thể gây liệt não mù bẩm sinh.
7. Các loại thuốc nhóm X
Cũng theo FDA, phụ nữ mang thai không nên dùng các loại thuốc nhóm X bởi rủi ro gây quái thai rất cao. Trong nhóm thuốc này có Thalilomide dùng để chữa an thần và chống nôn nên được người ta lạm dụng, đặc biệt là chữa bệnh “ốm nghén”. Hiện tượng thường thấy là trẻ sinh ra có tứ chi phát triển không bình thường. khuyết tật nội tạng và phát triển méo mó khuôn mặt. Năm 1960 người ta đã rút thuốc này khỏi thị trường, thậm chí năm 2005 ở Anh người ta còn dựng tượng đứa trẻ bị dị tật do người mẹ dùng Thalilomide để cảnh báo mọi người hãy tránh xa loại thuốc này. Ngoài Thalilomide trong nhóm thuốc nói trên còn có thuốc tránh thai, thuốc chữa bệnh sinh sản, thuốc điều trị bệnh trứng cá, thuốc chống ung thư và chữa bệnh động kinh.
8. Các loại loại thuốc nhóm D
Các loại thuốc nhóm D (Category D.Dry) đã được Cục Quản lý và Thực phẩm – Dược phẩm Mỹ (FDA) cấm không dùng cho phụ nữ khi mang thai vì nó có thể gây hiện tượng quái thai.
9. Các loại hóa chất
Trong nhóm hóa chất, thủy ngân hữu cơ (mythyl mercury) được xem là nguy hiểm nhất đối với quá trình phát triển của bào thai, bởi nó gây ảnh hưởng tới hệ thống thần kinh, chậm phát triển tâm thần. Nặng có thể gây mù mắt, hợp chất này có trong cá, trong nguồn nước và khi người mẹ dùng, các chất độc này sẽ truyền sang cho đứa trẻ. Tiếp đến là nhiễm độc chì, sử dụng liều iốt kali quá lớn (có trong xirô chống ho, thuốc uống để chẩn đoán X-quang). Nhiễm độc PCB (Polychlorinated biphenyls) có trong các sản phẩm giặt, xà phòng, bảo quản thực phẩm… Để hạn chế khuyết tật khi sinh thì nên sống trong môi trường trong lành, không nên ăn cá nhiễm thủy ngân, nguồn nước ô nhiễm cũng như hoa quả nhiễm độc hoặc có chứa hàm lượng hóa chất cao.
10. Bức xạ ion hóa
Bức xạ ion hóa (Ionizing radiation) là mối nguy hiểm rất lớn đến sức khỏe sinh sản. Theo đó người mẹ chỉ cần tiếp xúc trong thời gian ngắn có thể dẫn đến tình trạng phát triển trí não bất thường, chậm phát triển tâm thần, gây bệnh bạch cầu ở trẻ sơ sinh. Nên thận trọng, kỹ thuật chẩn đoán bằng X-ray có mức độ bức xạ nhỏ, nhưng quét vi tính (CT) thì chỉ một lần quét có mức bức xạ cao gầp 10 lần khám X – quang, vì vậy khi mang thai nên hạn chế các thủ thuật này.
theo Sức khỏe đời sống

Thay đổi cách sinh hoạt để nhanh có thai

Những cách tự nhiên để sớm có “tin vui”
(Dân trí) - Nếu là do những nhân thực thể hay môi trường dưới đây, bạn hoàn toàn có thể cải thiện được khả năng thụ thai của mình.
1. Hạn chế sử dụng cafein
Một số nghiên cứu cho thấy những phụ nữ tiêu thụ hơn 300mg caffein mỗi ngày sẽ bị giảm khả năng thụ thai. Rất may là một ly cà phê cỡ trung bình chỉ chứa khoảng 50mg cafein, do đó chị em vẫn có thể nhâm nhi 1 ly cà phê vào buổi sáng.
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng trà búp, trà xanh, sôcôla và một số loại sođa cũng chứa cafein. Do đó, cần tính toán để hạn chế tối đa lượng cafein được hấp thụ vào cơ thể.

Đặc biệt, với những phụ nữ đang muốn làm thụ tinh ống nghiệm thì ngưỡng tiêu thụ cafein cho phép còn thấp hơn nhiều. Chỉ cần 50mg cafein (tương đương với 1 ly cà phê) cũng đã có thể ảnh hưởng bất lợi đến tỷ lệ thụ thai ống nghiệm thành công.
2. Giảm cân nặng thừa
 

Béo phì có thể ức chế sự rụng trứng và làm thay đổi nồng độ các hoóc-môn. Hơn nữa, nó cũng dẫn tới nhiều nguy cơ sức khỏe như bệnh tiểu đường, bệnh tim và cao huyết áp. Vì vậy, béo phì cũng có tác động tiêu cực tới khả năng thụ thai và có thể dẫn tới các biến chứng trong thai kỳ. Hơn nữa, phụ nữ béo phì cũng ít khả năng thành công với việc điều trị vô sinh.
3. Tăng đủ cân
Chỉ số khối cơ thể BMI trong khoảng 18,5-24,9 được cho là bình thường và khỏe mạnh. Bất cứ ai có BMI < 18,5 thì đều được cho là quá gầy.
Phụ nữ quá gầy sẽ giảm đáng kể khả năng sinh sản vì ít có khả năng rụng trứng. Một số phụ nữ quá gầy còn bị mất kinh hoàn toàn, một số khác thì có chu kỳ kinh nguyệt không đều. Hiện tượng ra máu kinh hàng tháng không hoàn toàn có nghĩa là bạn có khả năng sinh sản tốt vì rất có thể ra máu kinh mà không rụng trứng.
4. Thử châm cứu
 

 
Tạp chí Fertility and Sterility số ra tháng 5/2006 đã đăng 2 nghiên cứu cho thấy tỷ lệ thụ thai tăng lên đáng kể ở những phụ nữ được điều trị bằng châm cứu kết hợp với thụ tinh ống nghiệm. Nghiên cứu đầu tiên cho thấy phụ nữ được điều trị bằng châm cứu tăng gấp 2 lần khả năng thụ thai thành công. Nghiên cứu thứ 2 chứng minh châm cứu trước khi cấy phôi giúp tăng 50% tỷ lệ đậu thai khi thụ tinh ống nghiệm.

5. Đi bộ 30 phút mỗi ngày
Đi bộ khoảng 30 phút mỗi ngày là một bài tập đơn giản, không tốn kém song lại giúp giảm nguy cơ mắc bệnh tim, tiểu đường và những bệnh có thể ảnh hưởng không tốt tới khả năng thụ thai cũng như các biến chứng trong thai kỳ. Hơn nữa, luyện tập đều đặn giúp duy trì trọng lượng cơ thể bình thường, tăng tuần hoàn máu tới khung xương chậu và các cơ quan sinh sản. Do đó, đi bộ đều đặn 30 mỗi ngày giúp tăng khả năng thụ thai thành công ở phụ nữ.
 6. Vượt qua trầm cảm
 

Trong khi một số chuyên gia tin rằng trầm cảm không gây ra tình trạng vô sinh thì vượt qua trầm cảm lại có thể giúp tăng khả năng thụ thai.
 
Một nghiên cứu do các nhà khoa học tại Trường Y Harvard tiến hành đã cho thấy những phụ nữ tiến hành thụ tinh ống nghiệm song đồng thời cũng tham gia vào một chương trình kéo dài 10 tuần giúp cải thiện suy nghĩ đã tăng gấp 2 lần khả năng mang thai thành công.
7. Chế độ ăn lành mạnh
Để tối đa hóa cơ hội thụ thai và có thai kỳ khỏe mạnh thì phụ nữ nên ăn theo một chế độ ăn lành mạnh giàu ngũ cốc nguyên cám, đậu nành, rau, quả tươi, các loại hạt, dầu ăn có lợi cho sức khỏe như dầu ô liu, thịt nạc hay các loại cá béo như cá hồi, cá ngừ…
8. Kiêng rượu
 

Phần lớn chuyên gia sản khoa đều đồng ý rằng uống 1 hoặc 2 ly rượu mỗi tuần sẽ không ảnh hưởng tới khả năng mang thai song uống quá nhiều rượu rõ ràng là có tác động không tốt. Một nghiên cứu của các nhà khoa học Đan Mạch năm 2003 cho thấy uống 6-7 ly rượu mỗi tuần làm giảm khả năng thụ thai của phụ nữ.
 
9. Tránh xa thuốc lá
Hút thuốc lá gây tổn hại cho trứng, giảm khả năng thụ thai thành công và phụ nữ hút thuốc lá có thể bị mãn kinh sớm hơn vài năm so với người không hút thuốc lá. Hơn nữa, hút thuốc lá cũng có tác động tiêu cực tới nồng độ hormon do đó làm giảm khả năng sinh sản.

Phụ nữ hút thuốc lá cũng dễ bị sảy thai, gặp các biến chứng trong thai kỳ và thường sinh con nhẹ cân hơn. Do đó, những phụ nữ hút thuốc lá nên bỏ thuốc ngay hôm nay để tăng khả năng thụ thai.

Chữa bệnh hói đầu

Đột phá trong chữa hói đầu


Các chuyên gia thuộc trường Đại học Khoa học tự nhiên Tokyo (Nhật Bản) vừa tìm ra cách thức mới làm cho tóc mọc trở lại, giúp mở ra một hướng đi chưa từng có cho phương pháp chữa chứng hói đầu được kỳ vọng là hiệu quả hơn các phương pháp hiện nay.







Nhóm nghiên cứu do Giáo sư Takahi Tsuji đứng đầu đã tiến hành thử nghiệm cấy các nang lông được tạo ra từ tế bào gốc vào da các con chuột trưởng thành và nhận thấy lông của chúng sau đó đã mọc thành nhiều chu kỳ như bình thường. Theo nhóm nghiên cứu, các nang tóc được chế tạo bằng công nghệ sinh học có cấu trúc phát triển và hình thức kết nối với các mô xung quanh như bình thường.

"Từ một lượng nhỏ tóc lấy từ khu vực tóc dày, bằng việc sử dụng công nghệ sinh học, chúng tôi sẽ tạo ra được rất nhiều nang tóc. Khi số lượng nang tóc đã đủ, chúng tôi có thể phẫu thuật cấy ghép vào da, giúp tóc bệnh nhân mọc trở lại” - Giáo sư Takashi Tsuji nói. Với thành công này, các nhà khoa học hy vọng sẽ tìm ra nhiều phương pháp chữa bệnh hói đầu mới và hiệu quả hơn hiện nay. Bác sĩ Akio Sato - đồng tham gia nhóm nghiên cứu nói: “Hiện nay có nhiều phương pháp khác nhau chữa hói đầu, song một số phương pháp mang lại hiệu quả không cao. Một biện pháp khá phổ biến là chuyển các nang tóc từ khu vực tóc dày đến khu vực tóc thưa, điều này sẽ cần tới tiểu phẫu vài lần, mặc dù vậy thì biện pháp này vẫn ít hiệu quả”. Phương pháp mới với thành công bước đầu có thể tạo ra các nang lông trong da bằng công nghệ sinh học, các nhà khoa học kỳ vọng sẽ mở ra phương pháp điều trị mới mang tính đột phá.
(Theo Antđ/Reuters)


Phòng ung thư vú

Phòng ung thư vú: Những giải pháp dễ thực hiện


Phụ nữ nào cũng lo ngại ung thư vú sẽ ghé thăm mình. Thay vì ngồi chờ trong lo lắng, hãy hành động ngay từ hôm nay theo các cách đơn giản sau.






Chỉ 2-3 ly rượu, bia/ tuần
Cồn (có trong bia, rượu) dù được tiêu thụ với hàm lượng nhỏ cũng có thể làm tăng nguy cơ ung thư vú. Một nghiên cứu gần đây đã chỉ ra mối liên hệ giữa việc uống rượu và ung thư vú đặc biệt rõ rệt và mạnh mẽ ở 70% các khối u được biết đến như tác nhân kích thích tố.
Do vậy, hầu hết các bác sỹ đều khuyến cáo nên hạn chế bia, rượu đến mức tối đa nhất có thể.
Tập thể dục ít nhất 3 lần/tuần
Khi luyện tập thể dục, duy trì nhịp tim ở mức chuẩn cho ít nhất 20 phút luyện tập không nghỉ. Đi bộ cũng rất tốt nhưng những bài tập có một chút cường độ cao ra nhiều mồ hôi sẽ thật sự giúp tim khỏe mạnh và giảm nguy cơ ung thư.
Duy trì trọng lượng ở mức vừa phải
Nghiên cứu chỉ ra rằng béo phì, thừa cân (đặc biệt nếu qua thời mãn kinh) sẽ làm tăng nguy cơ mắc bệnh. Đồng thời, theo một nghiên cứu được công bố vào tháng 3/2008 bởi các nhà nghiên cứu đến từ trường Đại học Texas, béo phì làm giảm tỷ lệ sống sót khi đã mắc bệnh ung thư vú và tăng cơ hội cho bệnh này phát triển và hoành hành.
Tự kiểm tra vú hàng tháng
Nên tham khảo hướng dẫn phù hợp từ bác sỹ và có kỹ thuật để kiểm tra vú thường xuyên. Tự phát hiện khối u trước khi để máy chụp X-quang phát hiện qua ảnh. Quan sát thấy sự thay đổi trên cơ thể là rất quan trọng.
Thực hiện chụp X-quang tuyến vú 1 lần/năm sau tuổi 40
Phát hiện khối u sớm sẽ tăng cơ hội sống sót cho chính bạn. Tỷ lệ 5 năm sống sót sẽ là 98% nếu phát hiện bệnh ngay từ giai đoạn đầu tiên và tỷ lệ này sẽ giảm xuống còn 27% nếu các khối u đã ở giai đoạn di căn.
Theo dantri/Health

Mãn kinh sớm và chứng loãng xương

Mãn kinh sớm có liên quan với chứng loãng xương


Phụ nữ mãn kinh sớm tăng gấp gần 2 lần khả năng bị loãng xương sau này.







Nghiên cứu mới đây chỉ ra rằng phụ nữ mãn kinh sớm tăng gấp gần 2 lần khả năng bị loãng xương sau này.
Ngoài ra, các nhà nghiên cứu từ Bệnh viện Đại học Skane, Thụy Điển nhận xét rằng những phụ nữ này cũng tăng nguy cơ bị gãy xương và tử vong.
Trong nghiên cứu này các tác giả đã chọn 390 phụ nữ ở Bắc Âu trong năm 1977 và chia họ ra 2 nhóm: một nhóm gồm những phụ nữ mãn kinh trước 47 tuổi và nhóm còn lại gồm những phụ nữ bắt đầu thời kỳ mãn kinh khi ≥47 tuổi.
Sau 29 năm chỉ còn 198 phụ nữ vẫn tiếp tục nghiên cứu và tại thời điểm này họ đã 77 tuổi. Các nhà nghiên cứu đã đo lại mật độ xương của các đối tượng tham gia và thấy rằng 56% số phụ nữ mãn kinh sớm bị loãng xương so với chỉ 30% ở những phụ nữ mãn kinh muộn.
Nghiên cứu cũng phát hiện ra rằng những phụ nữ mãn kinh sớm có nguy cơ gãy xương do loãng xương và tử vong cao hơn.
Nghiên cứu được đăng ngày 25/4 trên tạp chí International Journal of Obstetrics and Gynecology.

Ra máu trong giai đoạn đầu mang thai





bác sĩ ơi ! em có thai được 1 tháng nhưng mấy ngày lại bị ra 1 ít huyết, em co đi siêu âm nhưng bác sĩ nói thai khoẻ không thấy gì bất thường hết . vậy em có nên lo lắng không ? (nguyen thi bich thuy)
Trả lời:
Ra máu ở giai đoạn đầu mang thai có thể khiến nhiều thai phụ lo lắng, nhưng thực ra nó là hiện tượng khá phổ biến. 

Trong giai đoạn đầu của thai kỳ, bạn có thể bị ra máu đôi chút trong một hay hai ngày do trứng đã thụ tinh làm tổ ở thành tử cung. Sau đó, khi nhau thai dính vào thành tử cung, bạn cũng có thể ra ít máu. Đôi khi một số thai phụ bị mềm cổ tử cung và cũng bị chảy máu trong thời kỳ đầu mang thai.

Các hóc-môn thai kỳ làm ẩn đi các chu kỳ hóc-môn thông thường, nhưng đôi khi xảy ra sự sai lệch trong một chu kỳ nào đó. Vì thế một số phụ nữ sẽ thấy chảy máu vào kỳ kinh thông thường của mình.

Chảy máu cũng có thể do viêm nhiễm âm hộ hoặc tử cung hoặc do một khối u (lành) gây ra, hoặc có thể xuất hiện sau khi giao hợp. Bạn nên gặp bác sĩ, có thể bạn cần siêu âm sớm để xác định nguyên nhân chảy máu.

Trong đa số trường hợp không thể tìm được nguyên nhân gây chảy máu ở giai đoạn đầu của thai kỳ, thế nhưng bạn yên tâm thai nhi vẫn phát triển đủ tháng và em bé sinh ra vẫn hoàn toàn khỏe mạnh.

Chúc bạn có một thai kỳ khỏe mạnh!
Bs.Thuocbietduoc
(Lưu ý: Chữa bệnh theo chỉ định của Bác sĩ)

Từ khóa: ra máu ở giai đoạn đầu mang thai, ra máu ở đầu thai kỳ



Ne0_tergynal va polygynax


Thông tin tư vấn về thuốc điều trị viêm âm đạo




Tôi bị ra khí hư màu trắng như bã đậu nhưng không nhiều và rất ngứa, tôi đi khám và soi tươi ở Bệnh viện GTVT Hà Nội thì được kết luận viêm âm đạo và viêm cổ tử cụng bác sỹ kê đơn thuốc cho tôi dùng 02 loại thuốc Neo- tergynan liều 05 viên đặt và thuốc polygynax 06 viện, bác sỹ dặn đặt mõi tối 01 viên, mỗi ngày đặt một loai. Tôi muốn hỏi tại sao phải dùng 02 loại như vậy và dùng thuốc nào hiệu quả hơn (Kiều Thị Trâm)
Trả lời:
1. Neo-terrgynan:  thuốc điều trị đa năng các bệnh phụ khoa.

Neo-Tergynan có thành phần công thức phối hợp nhiều hợp chất, do đó có tác động điều trị tại chỗ viêm âm đạo do nhiều nguyên nhân khác nhau như do nhiễm khuẩn, nhiễm nấm, nhiễm ký sinh trùng hoặc nhiễm nhiều mầm bệnh cùng lúc. Thuốc được phối hợp :

- Metronidazole: diệt Trichomonas, Gardnerella vaginalis và vi khuẩn kỵ khí ;

- Neomycine sulfate : kháng sinh có tác động trên nhiều mầm bệnh sinh mủ ở âm đạo ;

- Nystatine : kháng nấm ;

Tỷ lệ mắc bệnh viêm âm đạo do Trichomonas hoặc do Candida albicans tăng đáng kể từ vài năm nay. Các bệnh này thường phối hợp với nhiều mầm bệnh thông thường khác làm cho việc điều trị trở nên khó khăn hơn. Do đó cần có một phương thức điều trị phối hợp cùng lúc diệt Trichomonas, kháng nấm và kháng khuẩn ; Neo-Tergynan đáp ứng được yêu cầu này.

Neo-Tergynan có thành phần tá dược bảo đảm cho thuốc thấm tốt qua niêm mạc âm đạo và ổn định ở pH sinh lý.

CHỈ ĐỊNH

Viêm âm đạo do các vi khuẩn sinh mủ thông thường.

Viêm âm đạo do Gardnerella vaginalis.

Viêm âm đạo do Trichomonas.

Viêm âm đạo do nhiễm nấm đặc biệt là Candida albicans.

Viêm âm đạo do nhiễm đồng thời Trichomonas và nấm men.

Viêm âm đạo do các tác nhân phối hợp.

TÁC DỤNG NGOẠI Ý

Buồn nôn, nôn, chán ăn, miệng có vị kim loại.

Rất hiếm: chóng mặt, nhức đầu, ngứa, mề đay, viêm lưỡi, viêm tụy có thể phục hồi.

LIỀU LƯỢNG VÀ CÁCH DÙNG

Trước khi đặt thuốc, nên nhúng toàn bộ viên thuốc trong nước trong khoảng 20 đến 30 giây và sau khi đặt thuốc, bệnh nhân nên ở tư thế nằm trong khoảng 15 phút.

Đặt 1 hoặc 2 viên/ngày, trong 10 ngày liên tiếp

2. Polygynax viên nang đặt âm đạo dùng để điều trị tại chỗ các bệnh về phụ khoa.

Thành phần:
Neomycin (sulphat): 35000IU; Polymyxin B (sulphat); 35000IU; Nystatin: 100000IU.
Tá dược: Tefose 63, dầu đậu nành đã được hyđro hoá (hydrogenat soy oil), sillicon 1000, gelatin, glycerin, nước tinh khiết.

Chỉ định:
Trị liệu: Polygynax được dùng để điều trị huyết trắng do bất kỳ nguyên nhân nào:
- Vi trùng thông thường.
- Nấm Candida albicans.
- Các vi sinh vật gây bệnh phối hợp.

Phòng ngừa:
- Trước khi phẫu thuật ở phần dưới của đường sinh dục
- Trước khi sanh
- trước và sau điện đông cổ tử cung.
- Trước khi thăm dò bên trong tử cung

Chống chỉ định: Dị ứng với các thành phần của thuốc.

Cẩn thận: Không nên điều trị kéo dài vì nguy cơ các vi sinh vật đề kháng chọn lọc và sự bội nhiễm

Tác dụng ngoại ý: Phản ưngs dị ứng tại chỗ đặc biệt là trong trường hộp kéo dài trị liệu.
Hãy thông báo cho bác sĩ biết các tác dụng không mong muốn gặp phải trong khi sử dụng thuốc này.

Liều dùng: 1 Viên vào buổi tối trong 12 ngày

Cách dùng: Viên nang đặt âm đạo. Đặt viên thuốc sâu vào âm đạo trước lúc đi ngủ.
Bạn đã được các bác sĩ khám, chẩn đoán bệnh và kê đơn, nếu bạn có thắc mắc gì trong quá trình điều trị thì bạn nên trao đổi trực tiếp với bác sĩ để có sự tư vấn tốt nhất!
Chúc bạn sức khoẻ.

Thứ Sáu, 4 tháng 5, 2012

Bệnh nhân chết do xe cấp cứu bị kẹt

n

Cấp cứu tắc đường, bệnh nhân chết oan

Đèn ưu tiên xoay tít, còi rú từng đợt nhưng cuối cùng chiếc xe cứu thương chở bé trai bị xuất huyết não từ Đồng Nai về TP HCM phải dừng hẳn. Phía trước, dòng xe kẹt kéo dài. Khoảng 30 phút sau, bệnh nhân tử vong.

Cái chết của bé giữa tháng 3 vừa qua khiến bố mẹ (đều là bác sĩ) chỉ còn biết gạt nước mắt đưa con về quê lo hậu sự chứ không biết đổ lỗi cho ai.
"Biết trách ai đây khi tài xế xe cứu thương đã làm hết cách; cô y tá trên xe cũng đã cố hết sức. Chỉ tiếc là tại sao con mình không bị biến chứng ban sáng mà lại trở nặng đúng vào giờ kẹt xe", bố bé lặng lẽ nói.
Dù đã cố gắng hết sức nhưng vẫn áy náy, anh Hùng - tài xế của chiếc xe cứu thương chở cháu bé cho biết, nếu không kẹt xe, đoạn đường ngoài 30 km từ huyện Thống Nhất của Đồng Nai về đến Bệnh viện Nhi Đồng 2, TP HCM, ước tính chỉ mất khoảng 30-40 phút.
"Hôm đó tại đoạn ngã tư Thủ Đức, xe của tôi đã không có đường thoát nên đành phải chờ. Cả phụ huynh, y tá lẫn người cầm lái đều nóng lòng. Sau gần một giờ đồng hồ thoát khỏi điểm kẹt, chưa kịp đến bệnh viện thì bé đã qua đời", bác tài xế nhớ lại.
Chiều 27/4 trên xa lộ Hà Nội đoạn quận 9, TP HCM, hai xe cấp cứu chở bệnh nhân, một của Bệnh viện đa khoa khu vực Định Quán, một của Bệnh viện đa khoa khu vực Thủ Đức chết cứng giữa dòng tắc đường. Ảnh: Thiên Chương
Một trường hợp khác, bé trai 3 tuổi ở quận 9 ăn phải trứng cóc nên ngộ độc. Bệnh nhân nguy kịch, bệnh viện địa phương không thể cứu chữa nên chuyển về Bệnh viện Nhi Đồng 2. Tuy nhiên đến cầu Sài Gòn thì bị kẹt xe.
"Khi bé đến được bệnh viện thì đã rơi vào tình trạng ngưng tim ngưng thở. Dù cố gắng hết sức song chúng tôi vẫn không thể nào cứu được bé", một bác sĩ cho biết.
Cũng tại khu vực cầu Sài Gòn, nơi thường xuyên xảy ra kẹt xe ở giờ cao điểm, mới đây chiếc xe cấp cứu chuyển bệnh từ huyện Tân Phú, Đồng Nai, đã phải loay hoay gần một giờ mới vào được đến Bệnh viện Nhi Đồng 1. Trên xe là hai bệnh nhi bị ngộ độc trứng cóc. Khi đến bệnh viện, một trong 2 bé đã qua đời, bé còn lại thoi thóp và theo nhận định của các bác sĩ, chỉ cần chậm vài phút nữa là không thể cứu sống.
Cùng rơi vào cảnh vừa lo lắng vừa ôm người thân nằm trên xe cứu thương bất động mà dòng kẹt càng ngày càng kéo dài, chiều ngày 1/5, chị Hoa nhà ở Tân Thạnh, Long An, uất ức nói: "Nếu không bị kẹt xe có lẽ em tôi đã không qua đời".
Người phụ nữ kể, em trai của chị bị tai nạn giao thông chấn thương sọ não, chuyển đến bệnh viện địa phương sơ cứu nhưng do tình trạng não xuất huyết dưới màng cứng nên được chuyển về Bệnh viện Chợ Rẫy.
"Thật xui xẻo khi trên đường cấp cứu thì tắc đường, xe không làm sao qua được. Còn khoảng 20 km nữa đến bệnh viện thì em tôi đã trút hơi thở cuối cùng", chị Hoa nói.
Có người thân đang điều trị tại khoa Nội Thần kinh, Bệnh viện Chợ Rẫy, chị Hồ Thị Thu nhà ở Long Thành, Đồng Nai, cũng bức xúc "bệnh tai biến mạch máu não nguy hiểm, nhưng nếu chiều hôm ấy trên đường đi cấp cứu không bị kẹt xe thì bố tôi chưa chắc đã bệnh nặng như thế này". Bố của chị đang phải nằm bất động trên giường bệnh.
Các bác sĩ của khoa cũng thừa nhận, với "thời gian vàng" cấp cứu của chứng tai biến mạch máu não, nếu nhập viện sớm hơn 30 phút, bệnh nhân đã có thể được can thiệp để không phải sống đời sống thực vật.
Bác sĩ Nguyễn Trọng Nơi, Phó giám đốc Bệnh viện Nhi Đồng Đồng Nai thừa nhận, tình trạng xe cấp cứu bị tắc đường ảnh hưởng đến sức khỏe bệnh nhân không còn lạ hiện nay. Thay vì chỉ mất 45 phút để đến TP HCM, lắm lúc xe cứu thương của bệnh viện phải mất từ một giờ đến hai giờ đồng hồ bởi kẹt xe.
"Điều này rất nguy hiểm đối với các bệnh nhân vốn đang nguy kịch, bởi chỉ có người bệnh tình rất nặng mới được chuyển viện", ông Nơi nói.
Bác sĩ Trần Vĩnh Hưng, Giám đốc Bệnh viện đa khoa khu vực Thủ Đức cũng cho biết, hiện tượng kẹt xe cấp cứu vào những giờ cao điểm là không thể tránh khỏi.
"Chúng tôi đã chữa trị hầu hết các trường hợp cấp cứu, song với những ca bệnh tim mạch mà bệnh viện chưa có máy chụp can thiệp mạch máu xóa nền, bệnh nhân buộc phải được chuyển lên tuyến trên. Trong trường hợp này, thời gian cấp cứu cho người bệnh được tính bằng phút. Nếu kẹt xe quá lâu thì mất thời gian vàng, ảnh hưởng đến tính mạng bệnh nhân", bác sĩ Hưng nói.
Nhiều bệnh nhân đến khoa cấp cứu Bệnh viện Chợ Rẫy TP HCM trong tình trạng muộn, một trong những nguyên nhân do kẹt xe. Ảnh minh họa: Thiên Chương.
Bác sĩ Đoàn Thị Ngọc Diệp, Trưởng khoa Cấp cứu Bệnh viện Nhi Đồng 2 thì cho rằng, không phải cứ trường hợp nào nhập viện muộn thì bác sĩ cũng truy hỏi nguyên nhân, nhưng chuyện đến cấp cứu chậm vì kẹt xe vẫn xảy ra.
Thường xuyên tiếp nhận những ca bệnh nhân chuyển viện trong tình trạng nguy kịch, bác sĩ Nguyễn Minh Tiến, Phó khoa Hồi sức cấp cứu chống độc Bệnh viện Nhi Đồng 1 cho hay, bệnh nhân sốt xuất huyết, tay chân miệng, ngạt nước, rắn cắn, ong đốt, tai nạn giao thông thuộc nhóm có thể tử vong trên đường cấp cứu nếu bị kẹt xe quá lâu.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, theo bác sĩ Tiến, vì bệnh nhân có thể ngưng tim ngưng thở do suy hô hấp hoặc các biến chứng suy gan suy thận cấp. Ngoài ra, trang thiết bị và cán bộ y tế trên xe cấp cứu cũng không đủ để xử trí nếu sức khỏe bệnh nhân có dấu hiệu xấu dần.
Nhằm hạn chế tình trạng người bệnh tử vong vì kẹt xe khi cấp cứu vào giờ cao điểm, theo bác sĩ Tiến, bệnh viện tuyến dưới cần hội chẩn trước với bệnh viện sẽ tiếp nhận bệnh nhân chuyển đến trước khi ra y lệnh. Trên đường đi, trên xe cấp cứu cần trang bị thêm bình ôxy, máy theo dõi nhịp tim. Trong trường hợp bệnh nhân quá nặng, thay vì điều dưỡng đưa đi thì phải là bác sĩ.
Nói về thực trạng này, hầu hết các bác sĩ tuyến cuối tại TP HCM đều cho rằng, việc tăng cường trang thiết bị điều trị và nhân lực cho bệnh viện các tỉnh, bệnh viện cửa ngõ thành phố là điều cần thiết.
"Việc làm này về lâu dài sẽ giải quyết được tình trạng bệnh nhân từ tỉnh ngoài cứ phải vào thành phố để cấp cứu. Tăng cường trang thiết bị và đội ngũ y bác sĩ cho bệnh viện tuyến dưới sẽ giảm bớt việc chuyển viện cho người bệnh. Người bệnh vừa không gặp nguy hiểm; bệnh viện tuyến trên lại không rơi vào tình trạng quá tải", một bác sĩ nó