Phương pháp sàng lọc bằng sử dụng các marker có trong máu mẹ (còn gọi là sàng lọc huyết thanh mẹ hay sàng lọc huyết thanh) được sử dụng từ những năm 1980, cho đến ngày nay đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. thai nghén .net !



Sau phát hiện ra AFP thì beta-hCG và free beta-hCG là mốc quan trọng. Hiện nay có 5 marker hay được dùng là AFP, beta-hCG, uE3, PAPPA-A và inhibin-A. Mỗi chất có vai trò khác nhau trong việc phát hiện DTBS, sử dụng đơn độc có hiệu quả không cao bằng việc kết hợp các marker. Khi kết hợp lại chúng ta có các biện pháp sàng lọc huyết thanh như: Double test, Triple test, Quadrupt test, Combine test và Intergrated test. Thời gian tiến hành ngày càng thực hiện sớm hơn, với Quad test và Combine test thì có thể tiến hành ngay từ quý I của thai kì, tuần thứ 9 hoặc 10.

Sàng lọc huyết thanh tiến hành đơn giản, ít tốn kém, độ nhạy cao. Với Double test và Triple test có thể phát hiện được từ 60-70%, Combine test và Intergrate test thì có thể tới hơn 80%.

Sàng lọc huyết thanh kết hợp với các biện pháp sàng lọc khác mang lại kết quả tốt hơn so với chỉ sàng lọc huyết thanh đơn thuần.


Sơ đồ tóm tắt lịch sử sàng lọc huyết thanh



Các biên pháp đều tiến hành ở quý 1 và 2 của thai kì và hầu hết đều có kết hợp với yếu tố tuổi mẹ. Anh Quốc được xem là nước đi đầu trong nghiên cứu các xét nghiệm sàng lọc trước sinh. Trước khi Integrated test ra đời, Double test, sau đó là Triple test là xét nghiệm được ưa chuộng tại Châu Âu. Tại Pháp, cho đến hội nghị về chẩn đoán trước sinh 2002, vẫn còn nhiều bàn cãi về việc có nên chuyển chương trình tầm soát dùng Tripple test trong Trimester II sang các test ở giai đoạn sớm hơn không.

Cho đến 1995, tại Mỹ, Double test, Triple test hay AFP sử dụng đơn độc được sử dụng trên nhiều labo xét nghiệm khác nhau. Tiếp sau đó, Quadruple test được lựa chọn sử dụng do độ phát hiện khá cao. Sau nhiều công bố về hiệu quả của Integrated test, rất nhiều quốc gia trên thế giới đang sử dụng test này để sàng lọc phát hiện sớm thai bất thường bẩm sinh.