Giang mai (syphilis) là một bệnh lây truyền qua đường tình dục do xoắn khuẩn Treponema pallidum (xoắn khuẩn giang mai)
gây ra. Đường lây truyền của bệnh giang mai hầu như luôn luôn là qua
đường tình dục, mặc dù có những ca thí dụ về bệnh giang mai bẩm sinh do
truyền từ mẹ sang con trong tử cung hoặc khi sinh.
Các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh giang mai rất nhiều, do đó trước
khi phương pháp xét nghiệm huyết thanh học ra đời thì việc chẩn đoán
chính xác bệnh giang mai rất khó khăn bởi vì nó thường bị nhầm lẫn với
các bệnh khác, đặc biệt là trong giai đoạn 3.
|
Xoắn khuẩn Treponema pallidum (xoắn khuẩn giang mai) |
Giang
mai có thể điều trị được bằng thuốc kháng sinh như penicillin. Nếu
không chữa trị, bệnh giang mai có thể gây biến chứng cho tim, động mạch
chủ, não, mắt, và xương, trong một số trường hợp có thể gây tử vong.
Bệnh giang mai phát triển theo bốn giai đoạn chính: giai đoạn 1, giai đoạn 2, giai đoạn ủ bệnh và giai đoạn 3.
Giai đoạn 1
Đây
là giai đoạn rất quan trọng để phát hiện và điều trị kịp thời. Khoảng
3-90 ngày sau khi tiếp xúc với nguồn bệnh (trung bình 21 ngày), sẽ xuất
hiện tổn thương da ở các điểm tiếp xúc. Vết loét xuất hiện ở những nơi
tiếp xúc với xoắn khuẩn giang mai, thường là ở bộ phận sinh dục như:
môi lớn, môi bé, âm đạo, cổ tử cung, quy đầu, dương vật hoặc trực tràng. Tổn thương này, được gọi là hạ cam, là một dạng viêm loét, có đặc điểm nông, hình tròn hay bầu dục kích thước 0.3 đến 3cm, bờ
nhẵn, màu đỏ, không ngứa, không đau, không có mủ; đáy vết loét thâm
nhiễm cứng và kèm theo nổi hạch hai bên vùng bẹn, cứng và cũng không
đau. Các triệu chứng trên có thể tự biến đi sau 3 đến 6 tuần
lễ kể cả không điều trị nên nhiều người tưởng lầm là khỏi bệnh nhưng
thực sự là vi khuẩn lúc đó đã vào máu, bệnh vẫn tiếp tục phát triển với
những biểu hiện khác.
|
Vết
loét hạ cam trên ngón tay. Khác với các bệnh lây truyền qua đường tình
dục khác, bệnh giang mai không chỉ giới hạn ở những bộ phận sinh dục,
mà còn có thể lây truyền qua các tiếp xúc gần khác |
Giai đoạn 2
Giai đoạn 2 xảy ra từ 4 đến 10 tuần sau giai đoạn 1. Giai
đoạn này có rất nhiều biểu hiện khác nhau, ví dụ như: nốt ban đối xứng,
màu hồng như hoa đào (đào ban) không ngứa trên toàn thân hoặc tứ chi
bao gồm cả lòng bàn tay, bàn chân, hình ảnh đào ban màu đỏ hồng hoặc
hồng tím như cánh hoa đào, ấn vào thì mất, không nổi cao trên mặt da,
không bong vảy và tự mất đi. Thường khu trú hai bên mạng sườn, ngực,
bụng, chi trên. Đào ban xuất hiện dần trong vòng 1 đến 2 tuần, tồn tại
không thay đổi trong vòng 1 -3 tuần sau đó nhạt màu dần rồi mất đi.
Hoặc
bệnh có thể làm xuất hiện các mảng sẩn, nốt phỏng nước, vết loét ở da
và niêm mạc. Mảng sẩn, sẩn các loại, có nhiều kích thước khác nhau, như
bằng hạt đỗ, đinh gim, hoặc sẩn hình liken, ranh giới rõ ràng màu đỏ
như quả dâu, không liên kết với nhau, thường hay bong vảy và có viền da
ở xung quanh sẩn, nếu các sẩn có liên kết với nhau sẽ tạo thành các
mảng, hay sẩn mảng, các sản ở kẽ da do bị cọ sát nhiều có thể bị trợt
ra, chảy nước, trong nước này có chứa rất nhiều xoắn khuẩn nên rất dễ
lây khi tiếp xúc với những bệnh nhân này. Sẩn mủ ít gặp hơn đào ban và các loại sẩn trên, chủ yếu ở những người nghiện rượu, trông giống như viêm da mủ nông và sâu. Tại
các khu vực ẩm ướt của cơ thể (thường là âm hộ hoặc bìu), phát ban trở
nên bằng phẳng, rộng, màu trắng, hoặc các thương tổn giống như mụn cóc.
Các triệu chứng khác thường gặp ở giai đoạn này bao gồm sốt, đau họng,
mệt mỏi, sụt cân, đau đầu, nổi hạch. Một số trường hợp hiếm gặp có thể
kèm theo viêm gan, thận, viêm khớp, viêm màng xương, viêm dây thần kinh
thị giác, viêm màng bồ đào, và viêm giác mạc kẽ. Các triệu chứng này thường tự biến mất sau 3-6 tuần.
|
Triệu chứng của bệnh giang mai giai đoạn thứ phát xuất hiện trên lòng bàn tay, cũng có khi ở lòng bàn chân. |
|
Giang mai giai đoạn 2 ở bệnh nhân 52 tuổi mắc bệnh AIDS; các vết loét và sẩn xuất hiện trên khuôn mặt, ngực, cánh tay |
|
Giang mai giai đoạn 2 ở bệnh nhân 23 tuổi với các nốt phỏng nước trên lưng. |
Giai đoạn tiềm ẩn
Giang mai tiềm ẩn được xác định khi có bằng chứng huyết thanh của bệnh nhưng không có dấu hiệu hoặc triệu chứng của bệnh. Giai
đoạn này chia làm 2 loại: thời gian tiềm ẩn dưới 1 năm sau giai đoạn 2
(sớm) và thời gian tiềm ẩn kéo dài hơn 1 năm sau giai đoạn 2 (muộn). Giang
mai tiềm ẩn sớm có thể tái phát các triệu chứng bệnh, giang mai tiềm ẩn
muộn không có triệu chứng và không lây bằng giang mai tiềm ẩn sớm.
Giai đoạn 3
Giang
mai giai đoạn 3 có thể xảy ra khoảng 3-15 năm sau những triệu chứng của
giai đoạn 1 và được chia thành ba hình thức khác nhau: giang mai thần
kinh (6,5%), giang mai tim mạch (10%) và củ giang mai (15%). Những
người bị bệnh giang mai giai đoạn này không lây bệnh.
- Củ giang mai
xuất hiện từ 1-46 năm sau khi nhiễm bệnh (trung bình 15 năm), có hình
cầu hoặc mặt phẳng không đối xứng, màu đỏ như mận, hơi ngả tím, kích
thước bằng hạt ngô, mật độ chắc, ranh giới rõ ràng, các củ giang mai
tiến triển không lành tính, nhất thiết hoại tử hoặc hoại tử teo hoặc
tạo loét, rất chậm lành và ít lây hơn, sau khi khỏi thường để lại sẹo.
Nếu củ, gôm khu trú vào các tổ chức quan trọng và không được điều trị
sẽ đe doạ tính mạng bệnh nhân.
- Giang mai thần kinh là bệnh liên quan đến hệ thống thần kinh trung ương. Nó
có thể xảy ra sớm: không có triệu chứng hoặc biểu hiện lâm sàng bằng
viêm màng não, hay sự phân ly giữa biến đổi dịch não tủy đã rõ rệt và
triệu chứng lâm sàng còn thô xơ. Hoặc xảy ra muộn: gây ra
tổn thương ngoài viêm màng não, mạch máu não, còn tổn thương não khu
trú hoặc tổn thương thoái hóa ở não. Giang mai thần kinh thường xảy ra
4-25 năm sau khi nhiễm bệnh. Bệnh có thể gây suy nhược trầm cảm, rối loạn ý thức từng thời kỳ, động kinh, đột quỵ hay gây ra ảo giác đối với người bệnh.
- Giang mai tim mạch thường xảy ra 10-30 năm sau khi nhiễm bệnh. Các biến chứng thường gặp nhất là phình mạch.
|
Giang mai gây tổn thương trên lưng của bệnh nhân |
|
Củ giang mai trên mũi trong giai đoạn 3 |
Điều trị
Tuy
là bệnh nguy hiểm nhưng có thuốc điều trị khỏi hẳn với hiệu quả cao,
miễn là phải được phát hiện sớm và điều trị đúng chỉ dẫn của thầy thuốc.
Giai đoạn đầu
Lựa chọn đầu tiên cho việc điều trị các bệnh giang mai không biến chứng là một liều duy nhất penicillin G tiêm bắp. Doxycycline
và tetracycline cũng là sự lựa chọn thay thế, tuy nhiên không thể sử
dụng ở phụ nữ mang thai. Ceftriaxone có thể có hiệu quả tương tự như
điều trị bằng penicillin.
Giai đoạn biến chứng
Do
penicillin G ít xâm nhập vào hệ thống thần kinh trung ương cho nên đối
với những bệnh nhân giang mai thần kinh nên được tiêm penicillin liều
cao vào tĩnh mạch tối thiểu là 10 ngày. Nếu bị dị ứng với
penicilline thì có thể được sử dụng cetriaxone thay thế. Điều trị tại
thời điểm này sẽ hạn chế sự tiến triển hơn nữa của bệnh, nhưng không
thể cải thiện các thiệt hại do bệnh đã gây ra.
Phản ứng Jarisch-Herxheimer
Một trong những tác dụng phụ của điều trị là phản ứng Jarisch-Herxheimer. Phản
ứng phụ thường bắt đầu trong vòng một giờ sau khi tiêm thuốc và kéo dài
trong 24 giờ với các triệu chứng sốt, đau cơ, nhức đầu, và nhịp tim
nhanh.
Phòng ngừa
Hiện nay vẫn chưa vác xin chủng ngừa có hiệu quả cho công tác phòng chống. Không
nên quan hệ tình dục hay tiếp xúc vật lý trực tiếp với một người bị
bệnh để tránh lây truyền bệnh giang mai, có thể sử dụng bao cao su đúng
cách, tuy nhiên vẫn có thể không hoàn toàn an toàn. Giang mai không lây
qua nhà vệ sinh, các hoạt động hàng ngày, bồn tắm, hay dụng cụ ăn uống
hoặc quần áo.
Dịch tễ học
12 triệu người nhiễm giang mai vào năm 1999 với hơn 90% trường hợp ở các nước đang phát triển. Nó ảnh hưởng từ 700.000 và 1.600.000 thai phụ mỗi năm dẫn đến xẩy thai tự nhiên, thai chết lưu, và giang mai bẩm sinh. Trong vùng Sahara ở châu Phi, giang mai góp phần làm tử vong khoảng 20% trẻ sơ sinh.
Trong
thế giới phát triển, các ca nhiễm bệnh giang mai đã suy giảm cho đến
năm 1980 và 1990 do sử dụng rộng rãi các thuốc kháng sinh. Từ năm 2000,
tỷ lệ giang mai đã gia tăng tại Mỹ, Anh, Australia và châu Âu chủ yếu ở
nam giới quan hệ tình dục với nam giới (đồng tính luyến ái) do thực
hành tình dục không an toàn.
Tại
Hoa Kỳ, nhân viên y tế báo cáo khoảng 32.000 người mắc bệnh giang mai
trong năm 2002, phần lớn ở tuổi 20–39. Cao nhất ở nữ tuổi 20–24 và nam
tuổi 35–39. Năm 2001 có 492 trẻ sơ sinh bị cha mẹ truyền bệnh giang
mai, năm 2002 số này tụt xuống một chút – 412.
Lịch sử
Các tên gọi khác
Tên
gọi "giang mai" được đặt ra bởi một bác sĩ kiêm nhà thơ người Ý:
Girolamo Fracastoro trong sử thi bằng tiếng Latinh viết vào năm 1530
của ông, có tiêu đề Syphilis sive gallicus(Giang mai hay các
bệnh của người Pháp). Các nhân vật chính của bài thơ là một người chăn
cừu tên là Syphilus (có lẽ là một lỗi chính tả biến thể của Sipylus,
một nhân vật trong Metamorphoses của Ovid). Syphilus được biết đến như
là người đầu tiên bị mắc bệnh này, do thần Apollo trừng phạt vì các
thách thức của Syphilus. Từ nhân vật này đã bắt nguồn một cái tên cho
căn bệnh giang mai.
Cho
đến thời điểm đó, như ghi chú Fracastoro, giang mai đã được gọi là
"bệnh của người Pháp" ở Ý, Ba LanĐức, và "bệnh của người Ý" tại Pháp.
Ngoài ra, người Hà Lan gọi nó là "bệnh của người Tây Ban Nha", người
Nga gọi nó là "căn bệnh của người Ba Lan", người Thổ Nhĩ Kỳ gọi nó là
"bệnh của người Thiên Chúa giáo" hay "bệnh Frank" (frengi) và Tahiti
gọi nó là "bệnh của người Anh" . Những cái tên "quốc gia" là do bệnh
thường được lây lan bởi các thủy thủ nước ngoài và các binh sĩ do họ
thường xuyên quan hệ tình dục với gái mại dâm ở địa phương.
Trong
thế kỷ 16, nó đã được gọi là "đại thủy" để phân biệt nó với bệnh đậu
mùa bởi vì trong giai đoạn đầu của bệnh, các ban nước lớn phát ra tương
tự như bệnh đậu mùa.
Nguồn gốc
Nguồn
gốc chính xác của bệnh giang mai không được xác định chính xác. Có ba
lý thuyết đã được đề xuất. Các sử gia và nhà nhân loại học cho rằng
giang mai có mặt trong số những người dân bản địa của châu Mỹ trước khi
người châu Âu đây. Tuy nhiên, vấn đề các chủng giang mai đã xuất hiện
hàng thiên niên kỷ trên toàn thế giới hay là bệnh bị giới hạn ở Châu Mỹ
trong thời kỳ tiền Columbus đã được đem ra tranh luận.