Cha mẹ nên giáo dục con khi bước vào tuổi dậy thì, bất luận là nam hay nữ vì các em đều có nhu cầu này. Không nên tỏ ra thất vọng khi phát hiện con thủ dâm nhưng phải chỉ rõ tác hại của việc thủ dâm quá nhiều.
Trầm cảm, rối loạn tâm
lý, rụt rè, xanh xao, yếu đuối... là những biểu hiện thường thấy của
những người thủ dâm nhiều. Họ thường không muốn vươn lên vì tự mình đã
thỏa mãn được đòi hỏi của bản thân.
Ngại đủ thứ vì... thủ dâm BS nam học Nguyễn Bá Hưng (Trung tâm Ánh sáng) đã từng khám cho nhiều thanh niên có tiền sử thủ dâm từ bé. BS Hưng có nhận xét về những người lạm dụng thủ dâm chính là hình dáng yếu ớt bên ngoài, rụt rè, trầm cảm và rối loạn tâm lý bên trong.
Một trong những điển hình mà BS Hưng gặp chính là một nam SV (Hà Nội). Theo lời kể của nam sinh viên này, cậu đã biết đến thủ dâm
từ năm lớp 5. Thủ dâm trước lúc dậy thì, cậu vẫn có khoái cảm mặc dù
không có tinh dịch để xuất. Và đến tuổi dậy thì, cậu đã thủ dâm thường
xuyên, thậm chí có ngày 2 đến 3 lần, mỗi lần chỉ 2 phút là có thể xuất
tinh.
Cho đến khi vào đại học,
cậu đã không còn cảm giác khoái cảm mỗi khi thủ dâm. Trái lại là cảm
giác mệt mỏi, uể oải. Và đó là lúc cậu phải tìm đến bác sĩ. Sau khi xét
nghiệm tinh dịch đồ, BS Hưng cho biết, tinh dịch của SV này đã loãng đi,
số lượng tinh trùng chỉ còn bằng 1/4 người thường, tỉ lệ sống chỉ bằng
một nửa và độ di động chỉ còn lại 1/3. Khả năng có con của người này tuy còn nhưng rất thấp.
Ngoài ra, thái độ tích
cực với cuộc sống của cậu thanh niên này cũng không còn. Qua tâm sự, cậu
SV này cho BS Hưng biết cậu ta rất ngại tiếp xúc, nhất là khi đứng
trước người con gái
mà mình thích, cậu không dám tán tỉnh vì sợ cô gái từ chối. Việc học
hành cũng sa sút đi vì cảm giác mệt mỏi, bế tắc. Đặc biệt là cảm giác
mặc cảm tội lỗi vì việc thủ dâm mà mình đang thường xuyên làm.
Tác hại của thủ dâm quá nhiều
Lý giải về việc tâm lý
của những người thủ dâm nhiều bị nhiễu loạn, BS Hưng cho biết: "Việc thủ
dâm là tự bản thân họ có thể giải tỏa những thèm muốn của mình mà không
cần bất cứ một sự hợp tác từ phía ngoài vào. Nhưng ra ngoài xã hội,
không phải lúc nào, ai đó cũng có thể đồng ý cho họ làm những việc họ
muốn. Chính vì vậy, khi gặp bất cứ khó khăn nào trong cuộc sống, họ rất
khó để vươn lên, vượt qua khó khăn, hợp tác với đối tác để giải quyết.
Thay vào đó, họ quay lại cố thủ, "tự làm tự sướng". Thái độ này ảnh
hưởng tới nhiều việc khác, ngoài tình dục".
GS Trần Quán Anh (Phòng
khám đa khoa tiết niệu và nam học Tâm Anh) lại lý giải việc nhiễu loạn
tâm lý khi thủ dâm quá nhiều là do cá nhân người đó bị nhiễu loạn cung
phản xạ giữa chỉ huy trung ương (vỏ não) với ngoại vi. Lý thuyết đông y
chỉ ra rằng, quan hệ tình dục phải hài hòa âm dương. Việc thủ dâm là
quan hệ không cần có đối tác, sẽ làm mất cân bằng, dẫn đến rối loạn. Có
người, chỉ mới nhìn người đẹp, chỉ mới ôm người yêu đã xuất tinh, khiến họ rất mặc cảm, thậm chí không dám lấy vợ. Lâu dần, họ sẽ bị rụt rè, yếu đuối, ẻo lả.
Tuy nhiên, thực tế thì
việc thủ dâm là bình thường khi đứa trẻ bước vào tuổi dậy thì, chưa lập
gia đình. Chỉ có điều, thủ dâm đến mức thái quá, trở thành bệnh lý
(nghiện), bất kỳ khi nào có nhu cầu đều sẵn sàng thủ dâm thì lại rất có
hại cho sức khỏe cũng như tâm lý sau này.
BS đông y Vũ Quốc Trung
cho rằng, các bậc cha mẹ nên giáo dục con khi bước vào tuổi dậy thì, bất
luận là nam hay nữ vì các em đều có nhu cầu này. Phụ huynh không nên
ngăn cấm, tỏ ra thất vọng khi phát hiện con thủ dâm nhưng phải chỉ rõ
tác hại của việc thủ dâm quá nhiều.
Ngoài ra, để giảm bớt
tính dục trong lứa tuổi đang dậy thì, các bậc phụ huynh có thể cho con
ăn thêm nhiều hoa quả, đậu đỏ, đậu đen, hạt sen, long nhãn, táo tàu...
Đây là những thực phẩm có tính mát, làm dịu căng thẳng thần kinh.
|
Phòng Khám Mai dịch Sô 9 Ngách 1, Ngõ 58, Trần vỹ, Cầu Giấy, Hà Nội Đt 0766200777 Phòng khám( Làm việc Từ 8h đến 21h các ngày thứ 2 đến thứ 6 , Thứ 7, Chủ Nhật Làm cả ngày) Đến với phòng khám bạn sẽ được các Bác sỹ đầu nghành chăm sóc, khám bệnh và điều trị với các máy móc hiện đại như , Siêu âm màu 4D, Máy xét nghiệm , Máy điện tim, Nội soi cổ tử cung. Khám các bệnh sản phụ khoa, điều trị vô sinh, Quản lý thai nghén. điều tri các bệnh viêm âm đạo, Viêm lộ tuyến Cổ tử cung.
Thứ Bảy, 21 tháng 7, 2012
TÁC HẠI CỦA THỦ DÂM
1. Các hormon tác dụng lên tử cung.
1.
Các hormon tác dụng lên
tử cung.
4 hormon: oxytocin, PG, estrogen, progesteron
a. Oxytocin
-
Nguồn gốc: do vùng dưới đồi bài tiết,
được dự trữ ở thùy sau tuyến yên.
-
Bản chất: là một peptid có 9 aa, chỉ
có aa thứ 8 khác với phân tử ADH (thay arginin bằng leucin).
-
Tác dụng lên tử cung:
s
Có tác dụng co tử cung mạnh khi đang
mang thai, đặc biệt càng gần cuối thời kỳ có thai tác dụng co tử cung của
oxytocin càng mạnh.
s
Ở người nồng độ oxytocin tăng trong
khi đẻ đặc biệt tăng trong giai đoạn cuối.
s
Ở những người đẻ khó do cơn co TC yếu
thường tiêm truyền oxytocin để làm tăng cơn co tử cung (đẻ chỉ huy).
b. PG
- Nguồn
gốc: là sản phẩm bài tiết ở hầu hết các mô trong cơ thể.
- Bản
chất: là một acid béo không no có vòng 5 cạnh và 2 mạch nhánh.
- Tác
dụng lên tử cung: làm co TC, tăng áp lực buồng ối, do đó kích thích chuyển dạ.
Thai 1 tháng nếu đặt PG vào âm đạo sẽ kích thích gây co cơ tử cung và đẩy thai
ra.
c. Estrogen
-
Nguồn gốc:
s
Ở phụ nữ bình thường không có thai
o Estrogen
được bài tiết chủ yếu ở buồng trứng, chỉ một lượng rất nhỏ do tuyến vỏ thượng
thận.
o Ở
buồng trứng, estrogen do các TB hạt của lớp áo trong của nang noãn bài tiết
trong nửa đầu CKKN và nửa sau do hoàng thể bài tiết.
s
Khi có thai, rau thai bài tiết một
lượng lớn estrogen.
-
Bản chất: là hợp chất steroid và được
tổng hợp ở buồng trứng từ cholesterol và cũng có thể từ acetyl coenzym A.
-
Tác dụng lên tử cung:
s
Làm tăng kích thước TC ở tuổi dậy thì
và khi có thai.
s
Kích thích phân chia lớp nền- lớp tái
tạo ra lớp chức năng trong nửa đầu CKKN.
s
Tăng tạo các mạch máu mới ở lớp chức
năng và làm cho các mạch máu này trở thành các ĐM xoắn cung cấp máu cho lớp
niêm mạc chức năng. Tăng lưu lượng máu đến lớp niêm mạc chức năng.
s
Kích thích sự phát triển của tuyến
niêm mạc. Tăng tạo glycogen chứa trong tuyến nhưng không bài tiết.
s
Tăng khối lượng tử cung, tăng hàm
lượng actin và myosin trong cơ đặc biệt trong thời kỳ có thai.
s
Tăng co bóp tử cung, tăng tính nhạy
cảm của TC với oxytocin.
d. Progesteron
-
Nguồn gốc:
s
Ở phụ nữ không có thai:
o Được
bài tiết chủ yếu từ hoàng thể trong nửa sau của CKKN.
o Ở
nửa đầu của CKKN nang noãn và tuyến vỏ thượng thận chỉ bài tiết một lượng rất
nhỏ progesteron.
s
Khi có thai rau thai bài tiết một
lượng lớn progesteron.
-
Bản chất: là một hợp chất steroid
được tổng hợp từ cholesterol hoặc acetyl- CoA.
-
Tác dụng lên tử cung:
s
Tác dụng quan trọng nhất là kích
thích sự bài tiết ở niêm mạc TC vào nửa sau của CKKN. Dưới tác dụng của
progesteron:
o Niêm
mạc TC của lớp chức năng được tăng sinh do tác dụng của estrogen nay được biến
đổi trở thành cấu trúc có khả năng bài tiết.
o Các
tuyến của niêm mạc TC dài ra, cuộn lại cong queo và bài tiết glycogen.
o Tác
dụng này có ý nghĩa quan trọng là chuẩn bị niêm mạc TC ở trạng thái sẵn sàng
đón trứng đã thụ tinh vào làm tổ.
s
Làm giảm co bóp TC do đó ngăn cản
việc đẩy trứng đã thụ tinh ra ngoài và tạo môi trường yên ổn cho bào thai phát
triển.
. Trình bày vai trò của hệ giao cảm và phó giao cảm trong điều hòa hoạt động của tim.
1.
Trình bày vai trò của hệ giao cảm và phó giao cảm trong
điều hòa hoạt động của tim.
- Hoạt động của tim luôn thay đổi để
phù hợp với nhu cầu của cơ thể:
s Khi nghỉ ngơi lưu lượng tim khoảng 4-
5l/ ph
s Lúc vận cơ nặng lưu lượng tim có thể
tăng lên từ 4- 6 lần để phù hợp với nhu cầu về oxy của cơ thể tăng lên gấp
khoảng 20 lần so với bình thường.
-
Tim có sự thích nghi và đáp ứng được với nhu cầu đó là
nhờ cơ chế điều hòa cơ bản:
s Tự điều hòa theo cơ chế Frank-
Starling
s Điều hòa theo cơ chế thần kinh và thể
dịch
Vai trò của hệ thần kinh tự chủ trong điều hòa hoạt động của tim
- Hệ thần kinh phó giao cảm
s Trung tâm TK phó giao cảm điều hòa
hoạt động của tim nằm ở hành não, đó là nhân dây thần kinh số X.
o
Các
sợi trước hạch của dây X đi tới hạch phó giao cảm nằm ngay trong cơ tim
o Các sợi sau hạch
phó giao cảm chi phối hoạt động của nút xoang và nút nhĩ- thất
s Thí nghiệm chứng
minh vai trò của dây X đối với hoạt động tim: cắt dây TK X ở đoạn cổ của chó
thí nghiệm, dùng dòng điện cảm ứng kích thích liên tục đầu ngoại biên của dây X
cho thấy:
o Nếu kích thích
với cường độ vừa phải (tới ngưỡng) làm tim đập chậm và yếu, quan sát thấy tim
bóp yếu đi và giãn to ra.
o Nếu tăng cường
độ kích thích thì tim ngừng đập.
o Nếu cứ tiếp tục
kích thích thì tim đập trở lại, đó là hiện tượng thoát ức chế do:
¸
Bó His phát xung động, vì bó His không chịu sự chi phối
của dây X
¸
Hoặc do khi tim ngừng đập máu về tâm nhĩ nhiều làm cho áp
suất máu trong tâm nhĩ tăng lên, kích thích nút xoang phát xung động trở lại.
s Tác dụng của hệ
phó giao cảm đối với hoạt động của tim
o Giảm tần số tim
(tim đập chậm hơn)
o Giảm lực co bóp
cơ tim (tim đập yếu hơn)
o Giảm trương lực
cơ tim (cơ tim mềm hơn)
o Giảm tốc độ dẫn
truyền xung động trong tim, thể hiện bằng khoảng PQ trên điện tâm đồ dài ra.
o Giảm tính hưng
phấn của cơ tim
s Hệ thần kinh phó
giao cảm tác dụng lên tim thông qua hóa chất trung gian là Ach.
- Hệ thần kinh giao cảm
s Trung tâm thần kinh giao cảm điều hòa
hoạt động tim
o
Nằm
ở sừng bên chất xám tủy sống đoạn lưng 1- 3, từ đây có các sợi TK đi tới hạch
giao cảm nằm gần cột sống
o
Có
một số sợi xuất phát từ sừng bên chất xám tủy sống đoạn cổ 1- 7 đi đến hạch
giao cảm.
o
Các
sợi sau hạch đi tới nút xoang, nút nhĩ- thất và bó His.
s Kích thích dây thần kinh giao cảm đến
tim gây ra các tác dụng:
o
Tăng
tần số tim (tim đập nhanh hơn)
o
Tăng
lực co bóp cơ tim (tim đập mạnh hơn)
o
Tăng
trương lực cơ tim (cơ tim rắn hơn)
o
Tăng
tốc độ dẫn truyền xung động trong tim
o
Tăng
tính hưng phấn của cơ tim
s Hệ TK giao cảm tác dụng lên hoạt động
tim thông qua hóa chất trung gian là noradrenalin.
1. Kể tên 3 giai đoạn của chu kỳ tim và nêu cơ chế chu kỳ tim.
1.
Kể tên 3 giai đoạn của
chu kỳ tim và nêu cơ chế chu kỳ tim.
-
Hoạt động của tim gồm nhiều giai
đoạn, lặp đi lặp lại một cách đều đặn nhịp nhàng, theo một trình tự nhất định,
tạo nên chu kỳ hoạt động của tim, hay còn gọi là chu chuyển tim.
-
Người bình thường có tần số tim là 75
nhịp/ ph thì thời gian của 1 chu kỳ tim là 0,8s, gồm có 3 giai đoạn chính:
s
Giai đoạn tâm nhĩ thu
s
Giai đoạn tâm thất thu
s
Giai đoạn tâm trương toàn bộ
Cơ chế của chu kỳ
tim
Cơ chế của chu kỳ tim là cơ chế
chuyển điện thế hoạt động (tức xung động TK) thành sự co cơ tim.
-
Cứ 1 khoảng thời gian xác định nút
xoang phát ra điện thế hoạt động, điện thế này lan tỏa nhanh ra khắp 2 tâm nhĩ
làm cho cơ tâm nhĩ co lại (tâm nhĩ thu).
-
Điện thế hoạt động tiếp tục lan qua
đường liên nhĩ đến nút nhĩ- thất. Đến nút nhĩ- thất điện thế lan truyền chậm
lại khoảng 1/10s trước khi qua bó His để xuống thất. Sự dẫn truyền chậm lại này
có ý nghĩa chức năng là đợi cho nhĩ thu xong, hoàn tất việc đẩy máu từ nhĩ
xuống thất, thì mới đến lượt thất co để bơm máu ra ĐM.
-
Từ nút nhĩ- thất, điện thế hoạt động
tiếp tục lan truyền đến bó His, rồi tỏa ra theo mạng Purkinje, lan đến cơ tâm
thất làm cho cơ tâm thất co lại (tâm thất thu).
-
Sau đó điện thế hoạt động tắt, cơ tâm
thất lại giãn ra thụ động trong khi cơ tâm nhĩ đang giãn, đó là giai đoạn tâm
trương toàn bộ, cho đến khi nút xoang lại phát ra điện thế hoạt động tiếp theo
khởi động cho 1 chu kỳ mới.
-
So sánh cơ chế chuyển điện thế hoạt
động thành sự co cơ tim và sự co cơ vân:
s
Giống nhau: khi điện thế hoạt động
lan truyền đến màng TB cơ thì nó tỏa ra khắp TB cơ, làm giải phóng nhiều ion
calci từ mạng nội cơ tương vào cơ tương. Chỉ trong vài phần nghìn giây ion
calci đã khuếch tán vào các sợi tơ cơ actin và myosin, làm các sợi này trượt
vào nhau gây co cơ.
s
Khác nhau: cơ tương có mạng nội cơ
tương kém phát triển so với cơ vân nên có ít ion calci. Vì vậy cơ tim cần lấy
thêm calci từ các ống T, loại ống có đường kính to gấp 5 lần ống T ở cơ vân,
nên thể tích chứa ion calci ở đây lớn gấp 25 lần so với ở ống T của cơ vân, như
vậy mới đủ cung cấp ion calci theo nhu cầu của cơ tim. Lực co cơ tim phụ thuộc
phần lớn vào nồng độ ion calci ngoại bào vì ống T thông với khoảng kẽ bên ngoài
sợi cơ.
-
Ứng dụng lâm sàng: vì điện thế hoạt
động trong hoạt động co cơ tim hoạt động nhịp nhàng dưới sự chỉ huy của nút
xoang và sự dẫn truyền xung động theo 1 con đường nhất định từ nút xoang → nút
nhĩ- thất → bó His → mạng Purkinje, nên khi có bất cứ tắc nghẽn nào trên đường
dẫn truyền này sẽ có biểu hiện bệnh lý:
s
Khi nút xoang không phát xung động →
block nhĩ- thất
s
Khi dẫn truyền từ nút xoang xuống tâm
thất bị chậm hay nghẽn hoàn toàn → block nhĩ- thất các mức độ (I, II, III).
s
Khi dẫn truyền trong cơ tâm thất (qua
2 nhánh trái, phải của bó His) bị nghẽn gây block nhánh.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)