Thứ Sáu, 24 tháng 10, 2014

So sánh hiệu quả khởi phát chuyển dạ của prostaglandin E2 và ống thông foley ở thai ≥37 tuần thiểu ối

TÓM TẮT
Mở đầu và mục tiêu
Khởi phát chuyển dạ (KPCD) là một can thiệp lâm sàng thường gặp trong sản khoa, trong đó thiểu ối là một chỉ định thường gặp. Có 2 phương pháp khởi phát chuyển dạ là cơ học và dược học. Mục tiêu chính là so sánh hiệu quả KPCD của prostaglandin E2 (PGE2) gel với thông foley đặt kênh cổ tử cung ở thai ≥37 tuần thiểu ối. Mục tiêu phụ là so sánh kết cục chuyển dạ của giai đoạn I-II; so sánh tác dụng không mong muốn và biến chứng giữa 2 phương pháp.
Đối tượng và phương pháp
Trong thời gian từ 15/10/2011 đến 15/02/2012, chúng tôi tiến hành nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng có nhóm chứng ở thai phụ ≥37 tuần thiểu ối, tại Bệnh viện Từ Dũ. Với mỗi nhóm 50 thai phụ, nhóm thử nghiệm: KPCD bằng PGE2 gel, nhóm chứng: KPCD bằng foley, thể tích bóng bơm 60ml.
Kết quả và kết luận
Hiệu quả KPCD thành công của phương pháp PGE2 và foley (80% và 76%) với p>0,05. Một số điểm khác biệt có ý nghĩa thống kê về kết cục chuyển dạ giữa 2 phương pháp (p<0,05): thay đổi điểm Bishop sau KPCD bằng PGE2 cao hơn foley; thời gian từ khi KPCD đến khi sinh của PGE2 ngắn hơn foley; tăng co bằng oxytocin sau KPCD nhóm PGE2 thấp hơn foley; cơn gò nhiều hơn ở nhóm PGE2 so với foley. Tác dụng không mong muốn sau KPCD bằng PGE2: sốt (2%), buồn nôn-nôn (10%), tiêu chảy (2%), vỡ ối (4%), nhiễm trùng (2%), cơn gò cường tính (6%). Foley không ghi nhận trường hợp nào. Sự khó chịu khi KPCD bằng foley 30%, PGE2 14%.
Từ khóa: Khởi phát chuyển dạ, prostaglandin E2 gel, thông foley
MỞ ĐẦU
Khởi phát chuyển dạ là một can thiệp lâm sàng thường gặp trong sản khoa. Trong 2 thập kỷ qua, tỉ lệ khởi phát chuyển dạ ngày càng tăng. Theo thống kê của Phòng Kế hoạch tổng hợp Bệnh viện Từ Dũ, từ năm 2010-2011, mỗi năm có khoảng 4.204-7.060 trường hợp khởi phát chuyển dạ [1].
Có nhiều chỉ định khởi phát chuyển dạ, trong đó thiểu ối là một chỉ định thường gặp trong sản khoa. Khi lượng nước ối giảm sẽ có tình trạng chèn ép dây rốn làm giảm lượng máu nuôi thai, thai suy dinh dưỡng, thai lưu hoặc chết lúc chuyển dạ. Vì vậy cần phải chấm dứt thai kỳ thiểu ối bằng phương pháp nào để có thể mang lại kết cục tốt cho cả mẹ lẫn con, không phải chỉ mổ lấy thai mà còn có thể sinh được ngả âm đạo.
Có 2 phương pháp khởi phát chuyển dạ là phương pháp cơ học và dược học. Tại Việt Nam nói chung và Bệnh viện Từ Dũ nói riêng, cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu nào so sánh hiệu quả khởi phát chuyển dạ của phương pháp cơ học và dược học.
Chính vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu: “So sánh hiệu quả khởi phát chuyển dạ của prostaglandin E2 dạng gel và ống thông foley đặt kênh cổ tử cung ở thai ≥37 tuần thiểu ối” với câu hỏi nghiên cứu: Sử dụng prostaglandin E2 dạng gel đặt kênh cổ tử cung trong khởi phát chuyển dạ ở thai ≥37 tuần thiểu ối cho hiệu quả như thế nào so với khởi phát chuyển dạ bằng ống thông foley?
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Mục tiêu chính
So sánh hiệu quả KPCD của PGE2 dạng gel với ống thông foley đặt kênh cổ tử cung trong khởi phát chuyển dạ ở thai ≥37 tuần thiểu ối có chỉ định sinh ngả âm đạo.
Mục tiêu phụ
- So sánh kết cục chuyển dạ của giai đoạn I và giai đoạn II giữa 2 phương pháp KPCD.
- So sánh tác dụng không mong muốn và biến chứng giữa 2 phương pháp KPCD.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Thử nghiệm lâm sàng không mù, ngẫu nhiên, có nhóm chứng.
Đối tượng nghiên cứu
- Dân số mục tiêu: thai phụ có chỉ định khởi phát chuyển dạ chấm dứt thai kỳ mà cổ tử cung không thuận lợi hay chỉ số Bishop<5.
- Dân số nghiên cứu: thai phụ ≥37 tuần thiểu ối nhập Khoa Sản A, Bệnh viện Từ Dũ có chỉ định khởi phát chuyển dạ.
- Dân số chọn mẫu: Thai phụ ≥37 tuần thiểu ối nhập Khoa Sản A, Bệnh viện Từ Dũ có chỉ định KPCD, hội đủ điều kiện các tiêu chuẩn chọn mẫu và đồng ý tham gia nghiên cứu trong thời gian từ 15/10/2011 đến 15/02/2012. Với nhóm thử nghiệm: KPCD bằng PGE2 dạng gel, nhóm chứng: KPCD bằng thông foley số 20, thể tích bóng bơm 60ml.
- Tiêu chuẩn chọn mẫu: thai phụ đồng ý tham gia nghiên cứu, thai ≥37 tuần, thiểu ối AFI≤5, Bishop<5, có khả năng sinh ngả âm đạo, con so hoặc con rạ, đơn thai-ngôi đầu, Nonstresstest có đáp ứng, siêu âm Doppler cho các chỉ số Doppler bình thường, ước lượng con: 2.500-3.500g.
- Tiêu chuẩn loại trừ:
  • Mẹ: sẹo mổ trên cơ tử cung, đã sử dụng một biện pháp KPCD trước đó, viêm nhiễm đường sinh dục cấp, tiền căn dị ứng PGE2 và Latex, bệnh lý nội khoa nặng (tim, suyễn, glaucoma, tăng nhãn áp), đã có chuyển dạ: cổ TC mở ≥2 cm, xóa ≥60%, có 3 cơn gò trong 10 phút.
  • Con: ngôi bất thường, nhau tiền đạo, nhau bám thấp, vỡ ối, rỉ ối.
- Tiêu chuẩn chấm dứt nghiên cứu: khi sản phụ thay đổi ý kiến không tiếp tục tham gia nghiên cứu hoặc khi có cơn gò cường tính ≥6 cơn trong 10 phút [4,6] kèm theo thay đổi bất thường tim thai, thai suy, nhau bong non, vỡ tử cung.
Cỡ mẫu
hinh8
Với: Nguy cơ tương đối cần kiểm định: Ro=1, xác xuất thất bại của phương pháp Foley (Bùi Ngọc Phượng, 2009): P2=34% [3], nguy cơ tương đối (ước tính): RRa=0,5, mức ý nghĩa: α=0,05, lực của test: (1–β) =0,90, giả thuyết có (HA), kiểm định 2 phía: nguy cơ tương đối ≠1.
→ N=45. Ước tính 10% chấm dứt nghiên cứu giữa chừng nên cỡ mẫu dự trù mỗi nhóm là 50.
Phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên
Trình tự phân bố ngẫu nhiên được tạo theo phương pháp chia nhóm block chuyển vị ngẫu nhiên, với cỡ block là 4, có 6 chuyển vị của block là: 1-AABB, 2-ABAB, 3-ABBA, 4-BBAA, 5-BABA, 6-BAAB. Với: nhóm A đặt PGE2 (Cerviprime gel), nhóm B đặt ống thông foley.
Phương pháp tiến hành
Phương tiện thu thập số liệu: bảng thu thập số liệu, ống thông foley loại 2 nhánh số 20, thuốc prostaglandin E2 (Cerviprime gel 0,5mg).
Tiến trình thu thập số liệu
hinh6
Tiêu chuẩn đánh giá khởi phát chuyển dạ [2,3,4]
- KPCD thành công: là khi chỉ số Bishop tăng ≥3 điểm [3,5] sau 24 giờ KPCD bằng PGE2 hoặc sau 24 giờ KPCD bằng Foley.
- KPCD thất bại: là khi không đạt tiêu chuẩn thành công hoặc khi tử cung không có 1 chút đáp ứng nào đối với các kích thích hoặc khi TC gò ≥6 cơn trong 10 phút mà cổ TC không mở.
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Tóm lược các bước thu thập số liệu
Thu thập số liệu
Trong thời gian nghiên cứu, có 107 thai phụ thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu và được mời tham gia nghiên cứu. Loại khỏi nghiên cứu 7 trường hợp gồm: 2 trường hợp không đồng ý tham gia vì muốn mổ lấy thai; 1 trường hợp ối vỡ non sau khi đồng ý tham gia; 2 trường hợp có Bishop thay đổi ≥6 điểm sau khi đồng ý tham gia; 1 trường hợp mồng gà cổ tử cung; 1 trường hợp thay đổi ý kiến không đồng ý đặt tiếp liều PGE2 thứ 2. Kết quả chúng tôi thu nhận 100 trường hợp thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu, đồng ý tham gia và hoàn tất nghiên cứu. Trong đó có 50 ca tính đến thời điểm phân tích giữa kỳ.
Kết quả phân tích giữa kỳ
Với kết quả phân tích giữa kỳ ghi nhận khi KPCD bằng PGE2, khả năng thành công tăng lên 1,27 lần so với KPCD bằng đặt thông foley (RR=1,27; KTC 95% 0,91-1,78), sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê.
Với qui trình chọn mẫu ngẫu nhiên chúng tôi nhận mẫu một cách thuận lợi, dễ dàng, thỏa các tiêu chuẩn chọn mẫu. Chưa ghi nhận trường hợp nào có tác dụng phụ trầm trọng cũng như có biến chứng khi được KPCD bằng PGE2. Không ghi nhận than phiền về tiến trình nghiên cứu từ thai phụ và đồng nghiệp.
Chúng tôi đã trình kết quả phân tích giữa kỳ lên Hội đồng Y đức, Hội đồng Nghiên cứu khoa học của Bệnh viện Từ Dũ và cho phép chúng tôi tiếp tục tiến hành tiếp nghiên cứu theo đề cương gốc.
Đặc điểm dịch tễ của đối tượng tham gia nghiên cứu
Bảng 1. Đặc điểm dịch tễ học của đối tượng tham gia nghiên cứu.

Cerviprime

Thành phần: Mỗi bơm tiêm Dinoprostone 0,5 mg
Chỉ định
Cerviprime được sử dụng để chuẩn bị trước cho sự chín muồi và giãn nở cổ tử cung ở phụ nữ mang thai đúng kỳ hoặc gần đến kỳ sanh với đặc điểm khởi phát chuyển dạ không thuận lợi như chỉ số Bishop thấp.
Chống chỉ định
Không có chống chỉ định tuyệt đối đối với việc sử dụng Cerviprime gel. Tuy nhiên, không khuyến cáo sử dụng thuốc trong các trường hợp sau:
1. Sản phụ quá mẫn cảm với prostaglandin.
2. Các sản phụ có chống chỉ định đối với các thuốc có tác dụng kích thích chuyển dạ (oxytocic):
a) Sản phụ có tiền sử sanh mổ hoặc phẫu thuật lớn ở tử cung.
b) Sản phụ có tình trạng bất tương xứng đầu chậu.
c) Sản phụ đã có suy thai trước đây.
d) Sản phụ lớn tuổi đã sanh nhiều lần.
e) Sản phụ sanh khó hoặc sang chấn khi chuyển dạ.
f) Sản phụ có tình trạng tăng cơn gò tử cung về cường độ và tần số.
g) Cấp cứu sản khoa khi mà tỷ số giữa lợi ích-nguy cơ cho bào thai hoặc sản phụ ưu tiên cho chỉ định phẫu thuật.
3. Sản phụ có tình trạng nhau tiền đạo hay bị chảy máu âm đạo không giải thích được trong thời kỳ mang thai.
4. Tình trạng bệnh nhân không cho phép chỉ định sinh ngả âm đạo như tình trạng mạch máu tuần hoàn nhau thai nhi nằm sát hay vắt ngang lỗ trong cổ tử cung (vasa previa) hay nhiễm herpes bộ phận sinh dục tiến triển.
Thận trọng lúc dùng
Cần thận trọng khi sử dụng dinoprostone trong các trường hợp sau:
  1. Bệnh nhân bị glôcôm hoặc tăng nhãn áp.
  2. Hen suyễn hay tiền sử bị hen suyễn.
Trong quá trình sử dụng dinoprostone gel, cần theo dõi cẩn thận cơn gò tử cung, tình trạng thai, sự giãn và xóa mở cổ tử cung để phát hiện các tác động không mong muốn như cơn gò tử cung cường tính hoặc suy thai. Khi cơ tử cung co thắt mạnh kéo dài, vỡ tử cung có thể xảy ra.
Không bơm Cerviprime vượt quá lỗ trong cổ tử cung.
Thận trọng khi sử dụng Cerviprime gel trên bệnh nhân bị rối loạn chức năng thận hay gan.
Thận trọng khi dùng Cerviprime gel trên bệnh nhân bị vỡ ối. Tính an toàn khi sử dụng trên các bệnh nhân này chưa được xác định.
LƯU Ý: Prostaglandin có khả năng làm tăng tác động của oxytocin trên tử cung mang thai. Nếu oxytocin được sử dụng tiếp theo để khởi phát chuyển dạ, nên theo dõi cẩn thận hoạt động của tử cung.
Lúc có thai và lúc nuôi con bú
Nhóm C
Prostaglandin E2 làm tăng sự dị dạng xương trên chuột và thỏ. Tuy nhiên, những tác dụng như vậy không được nhận thấy trên lâm sàng vì Cerviprime gel được chỉ định sử dụng sau thời kỳ biệt hóa các cơ quan.
Tương tác thuốc
Prostaglandin có khả năng làm tăng tác động của oxytocin (co cơ tử cung).
Thuốc kháng viêm không steroid (NSAID) dường như không có tác động tương tác nào ở liều thông thường.
Tác dụng ngoại ý
Tần suất và mức độ nặng của các phản ứng ngoại ý khi dùng dinoprostone phụ thuộc vào liều dùng và cũng phụ thuộc ở một mức độ nào đó vào đường dùng.
Phản ứng ngoại ý với dinoprostone được ghi nhận thường nhất là buồn nôn, nôn và tiêu chảy. Đã có ghi nhận thay đổi tim thai trong quá trình sanh. Vỡ tử cung và bất thường cơn gò tử cung kèm hoặc không kèm suy thai cũng được báo cáo.
Trong các thử nghiệm có đối chứng, những phản ứng ngoại ý sau được báo cáo với tần suất ≥ 1 %:
- Trên người mẹ: cơn gò tử cung bất thường, tác động trên dạ dày-ruột, đau lưng và sốt.
- Trên thai nhi: thay đổi về nhịp tim thai, chậm nhịp tim.
Các phản ứng khác được báo cáo trong y văn, liên quan đến việc sử dụng dinoprostone gel đặt trong kênh cổ tử cung, bao gồm cả tình trạng vỡ ối sớm, suy thai và nhiễm acid bào thai.
Trong quá trình lưu hành thuốc đã có báo cáo về sự tăng nguy cơ đông máu nội mạch lan tỏa được mô tả trên các bệnh nhân mà có khởi phát chuyển dạ bằng thuốc, hoặc với dinoprostone hoặc với oxytocin. Tuy nhiên tần suất của các phản ứng này lại rất thấp (< 1/1000 lần chuyển dạ).
Liều lượng và cách dùng
Sử dụng catheter có trong hộp thuốc để bơm toàn bộ thuốc trong bơm tiêm vào kênh cổ tử cung ngay dưới lỗ trong cổ tử cung. Nên hướng dẫn bệnh nhân nằm ngửa thêm tối thiểu 30 phút.
Hướng Dẫn Sử Dụng:
Cerviprime gel được cung cấp trong bơm tiêm được thiết kế đặc biệt chứa sẵn thuốc và dùng một lần. Bơm tiêm gồm 3 thành phần: catheter, ống bơm và ống đựng thuốc. Khi đóng gói, nhà sản xuất gắn ống bơm vào miệng của ống đựng thuốc. Tất cả các bộ phận được đựng trong vỉ kín. Để sử dụng thuốc, cần phải lắp ráp lại bơm tiêm. Một lượng thuốc dư được thêm vào để bù trừ lượng gel dính lại trong catheter.
Quá liều
Dùng quá liều Cerviprime gel có thể gây cơn gò tử cung cường tính, mà hiện tượng này cũng có thể xảy ra nếu sử dụng gel không đúng và thuốc lan rộng trong khoang ngoài màng ối. Trong trường hợp này có thể sử dụng các thuốc bêta-adrenergic như terbutaline để làm giãn cơ tử cung.
Bảo quản
Nên bảo quản trong tủ lạnh ở nhiệt độ 2-8oC. Không đông lạnh.
Gel dùng bơm vào ống cổ tử cung 0,5 mg/3 g : hộp 1 bơm tiêm có sẵn thuốc với 1 catheter

Thứ Ba, 21 tháng 10, 2014

vòng mirena

Vòng tránh thai nội tiết
BS Trần Thị Thúy Phượng
           Khoa KHGĐ - BV Từ Dũ

Từ lâu tránh thai bằng dụng cụ tử cung (DCTC) đã trở  nên rất phổ biến. Rất nhiều loại DCTC được tạo ra nhằm mục đích tăng hiệu quả tránh thai, và làm giảm tối thiểu những tác dụng phụ cho những phụ nữ chọn phương pháp tránh thai bằng DCTC.
 Hiện nay, đã có vòng tránh thai thế hệ mới -MIRENA- là một loại vòng chứa nội tiết. Đây là loại vòng được biết đến với nhiều ưu điểm, đã làm phong phú cho các phụ nữ khi chọn lựa phương pháp tránh hiện đại và hiệu quả cao. Ngoài tác dụng tránh thai, MIRENA còn được sử dụng như là phương pháp điều trị duy trì đối với những trường hợp rong kinh rong huyết, cường kinh, bảo vệ nội mạc tử cung...
Sơ lược về hình dáng và cấu tạo của  MIRENA
Mirena có dạng hình chữ T được cấu tạo bởi nhựa dẻo thấm Sulfate Barium, tạo ra hình ảnh cản quang, vì vậy có thể nhận biết sự hiện diện của vòng trên siêu âm và X quang. Chiều dài của vòng 32mm, tận cùng của khung T là vòng nhỏ có gắn sợi dây polyethylene. Nguồn dự trữ steroid chứa trong ống hình trụ dài19mm bọc ở phía ngoài nhánh dọc chữ T, chứa 52mg levonorgestrtrel (LNG) và được phủ bên ngoài bởi một lớp màng polydimethylsiloxane. Lớp màng này có tác dụng điều chỉnh sự  phóng thích LNG trong buồng tử cung.
Tốc độ phóng thích ban đầu của LNG mỗi ngày vào buồng tử cung là 20µg, và sẽ giảm xuống khoảng 11µg/ ngày sau 5 năm.
 Những hiệu quả của Mirena

  • Trong ngừa thai
 Hiệu quả ngừa thai cao: tỷ lệ có thai trong năm đầu sử dụng là 0-0.2%, tỷ lệ có thai tích luỹ trong 5 năm sử dụng là 0.5-1.1%, cho thấy hiệu quả ngừa thai của Mirena đạt 99%. Mirena được đánh giá tương đương với triệt sản nhưng lại có khả năng hồi phục chức năng sinh sản một cách nhanh chóng.
Cơ chế:  Levonorgestrel có tác dụng làm cô đặc chất nhầy cổ tử cung, như rào cản sự xâm nhập của tinh trùng, làm giảm tính di động của tinh trùng, nhằm ngăn chặn quá trình thụ tinh. Ngoài ra, lớp nội mạc tử cung mỏng đi sẽ không thích hợp cho sự làm tổ của trứng đã thụ tinh.
  • Trong điều trị rong kinh, cường kinh
Rong kinh là một trong những bệnh phụ khoa mà phụ nữ vô cùng lo lắng, gây ảnh hưởng nhiều đến sinh họat hằng ngày, cũng như chất lượng cuộc sống của các chị em phụ nữ bị giảm sút rất nhiều. Rong kinh nếu không chữa trị có thể gây biến chứng như thiếu máu thiếu sắt, thống kinh, nhiễm trùng cấp tính, vô sinh là biến chứng gây ảnh  hưởng nặng nề đến tâm lý người bệnh.
Một khi đã xác định có rối loạn về kinh nguyệt, thì các chị em nên được khám chuyên khoa, nhằm xác định bệnh lý của mình và nguyên nhân do đâu. Mục đích nhằm giúp cho việc điều trị có hiêu quả và nhanh chóng, tránh những biến chứng đáng tiếc.
           

   
Mirena ngoài tác dụng ngừa thai còn được coi như là một phương pháp điều trị hiệu quả những trường hợp rong kinh cơ năng liên quan đến nội tiết, và những trường hợp rong kinh  do u xơ tử cung, hay lạc nội mạc tử cung.
 Cơ chế: sự phóng thích LNG trong khoang tử cung sẽ có tác dụng tại chỗ, làm giảm sụ tăng sản của lớp nội mạc tử cung trong vòng 3-6 tháng đầu sử dụng, điều này có tác dụng làm lượng máu và số ngày hành kinh một cách đáng kể (lượng máu kinh giảm được 90%). Sau 3-4 tháng người sử dụng sẽ có chu kỳ kinh không đều (lượng máu kinh giảm hơn 70%), có thể có hiện tượng ra huyết rỉ rả. 20% phụ nữ sẽ có hiện tượng vô kinh trong 1 năm đầu sử dụng, và con số này lên tới 60% nếu tính đến thời  điểm sử dụng là 5 năm.
 Một số tác dụng khác của Mirena
 Ngừa thiếu máu vì làm giảm số ngày hành kinh.
Giảm triệu chứng đau dụng kinh.
Giảm nguy cơ mắc bệnh viêm nhiễm vùng chậu, viêm nội mạc tử cung, viêm cổ tử cung.
Giảm nguy cơ thai ngoài tử cung.
Không ảnh hưởng lên trọng lượng cơ thể.
 Đối tượng sử dụng Mirena
Những phụ nữ muốn tránh thai lâu dài có thể phục hồi.
Rong kinh, cường  kinh, thống kinh liên quan rối loạn nội tiết, u xơ tử cung, lạc nội mạc tử cung.
Liệu pháp hormon thay thế trong những trường hợp phụ nữ mãn kinh không thể dung nạp progestin đường uống.
 Thời hạn sử dụng: 5 năm.
 Những trường hợp chống chỉ định:
Ung thư vú.
Có thai.
Viêm nhiễm vùng chậu cấp tính.
Nhiễm khuẩn sau hút thai, sau sẩy thai.
Nhiễm khuẩn hậu sản.
Rong huyết chưa chẩn đoán được nguyên nhân.
Những bất lợi khi sử dụng Mirena
 Vì Mirena thực chất cũng là một dụng cụ được đưa vào lòng tử cung nhẳm tạo hiệu quả tránh thai nên Mirena cũng có những tai biến giống như đặt những DCTC khác xảy ra ngay tại thời điểm dặt: co thắt và đau, thủng tử cung (hiếm gặp). Một số trường hợp vòng nằm lệch vị trí hay tuột thấp.
 Một số tác dụng  phụ có thể gặp khi sử dụng vòng Mirena như: rối loạn kinh nguyệt, tình trạng ra  huyết rỉ rả kéo dài, nhức đầu, đau ngực, mụn trứng cá. Tuy nhiên những triệu chứng  khó chịu này chỉ thường gặp trong những tháng đầu tiên và sẽ đa phần giảm dần theo thời gian sử dụng.
Thời điểm đặt và theo dõi sau khi đặt Mirena
Trong vòng 7 ngày đầu tiên của kỳ kinh.
Có thể đặt vào  thời điểm khác của chu kỳ nếu chắc chắn không có thai.
Ngay sau khi hút thai.
Muốn đổi phương pháp ngừa thai khi đang sử dụng một biện pháp tránh thai lâu dài khác.
Sau sanh 6 tuần, trường hợp nếu chưa có kinh  thì cần chắc chắn không có thai.
Phụ nữ sau sanh và đang cho con bú vẫn có thể sử dụng mirena ngừa thai, vì không gây ảnh hưởng đến chất lượng của sữa mẹ và sự phát  triển của trẻ.
         
Vế vấn đề có thai trở lại sau khi ngưng sử dụng vòng Mirena
Đây là điều  mà người sử dụng rất quan tâm khi chọn biện pháp tránh thai có tác dụng lâu dài này. Dựa trên những nghiên cứu người ta thấy rằng khả năng mang thai cũng như chức năng buồng trứng của người sử dụng sẽ lập tức hồi phục ngay sau khi tháo vòng.
Mỗi một phương pháp tránh thai đều có những ưu điểm và nhược điểm. Tùy vào mức độ ảnh hưởng trên từng đối tượng sử dụng như thế nào mà người sử dụng có thể chấp nhận và tiếp tục sử dụng hay không.
Vòng tránh thai nội tiết là một phương pháp ngừa thai hiệu quả cao và lâu dài, đồng thời được sử dụng như là một phương pháp điểu trị duy trì trong một sốtrường hợp. Tuy nhiên, giá thành của phương pháp này vẫn còn khá cao, đối tượng sử dụng thường là những người có thu nhập cao. Do đó, trước khi quyết định chọn lựa một phương pháp ngừa thai nào thì việc cân nhắc sự phù hợp về giá thành, nhu cầu và tính  hiệu quả của phương pháp đó rất cần thiết.