Thứ Bảy, 21 tháng 4, 2012

Siêu âm canh trứng để sinh con trai

Siêu âm canh trứng để sinh con trai có chính xác không?
Tôi đã có một bé gái năm nay 3,5 tuổi; Chu kỳ kinh nguyệt của tôi không đều, ngắn nhất là 20 ngày, cao nhất là 45 ngày, nhưng thường là 31,32 ngày.
 
Trả lời (2)
 
 
Qua nhiều theo dõi, thống kê, nghiên cứu, tác giả Linh Sơn có đề ra một số phương pháp cụ thể, có thể đạt tỷ lệ 96%. Các bạn có thể tham khảo và áp dụng. Để có con trai theo ý muốn:

1. Chồng dể dành tinh dịch trong 7-10 ngày (không giao hợp trước ngày trứng rụng 7-10 ngày) và chỉ giao hợp 1 lần sau ngày trứng rụng 1 ngày vào trước 3 giờ sáng (xác định ngày trứng rụng qua cặp nhiệt độ, que thử Ovustick, siêu âm canh noãn).

2. Giao hợp theo cách thông thường, chồng trên, vợ dưới, động tác nhẹ nhàng, tránh kích thích gây trứng rụng thêm đột xuất.

3. Xuất tinh sâu, khi xuất tinh cho đầu dương vật vào sâu tận cửa tử cung để tinh trùng Y nhanh chóng tiếp cận noãn.

4. Tinh thần tâm lý thoải mái, sức khoẻ 2 vợ chồng được chuẩn bị tốt, tránh dùng bia, rượu, thuốc lá và chất kích thích.

5. Xuất tinh xong vợ nằm ngửa, 2 chân co, với tư thế thoải mái, sau 2-3 giờ mới đi tắm rửa và dùng dội nuớc vào âm đạo.

- Tinh trùng (X) thường bơi chậm nhưng sống khá lâu
- Tinh trùng (Y) khỏe mạnh, bơi nhanh nhưng lại mau chết

* Áp dụng tính chất này, bạn có thể canh ngày rụng trứng để quyết định xuất binh.
- Sinh nữ: Trước ngày đó khoảng 3 ngày - tấn công 3 ngày liên tục.
- Sinh nam: Tấn công đúng thời điểm - và dứt khoát.

Khi nói về các phương cách thụ thai theo ý muốn, xin được hỏi bác sĩ thêm rằng ngay vào giữa chu kỳ rụng trứng nếu trứng gặp được tinh trùng thì sẽ thụ thai. Thế thì làm thế nào để xác định được ngày rụng trứng của người

Ngày rụng trứng thường rơi vào ngày giữa chu kỳ. Giản dị mình cứ nhớ rằng sau 14 ngày sau khi trứng rụng thì người phụ nữ sẽ có kinh nguyệt.
Nhiều phụ nữ có chu kỳ kinh nguyệt không đều, không cách đúng 28 hay 30 ngày, thì làm thế nào để biết chính xác ngày rụng trứng?

Những người chu kỳ kinh nguyệt không được đều đặn thì có thể mua bộ thử nước tiểu để xác định ngày rụng trứng. Bộ này có bày bán ở tiệm thuốc tây, dùng để đo độ LH trong nước tiểu, chất này thường lên cao trước khi trứng rụng. Thử nước tiểu vào buổi trưa hoặc chiều, nếu thấy mức LH vượt lên cao thì biết rằng trong vòng 12-24 tiếng sau, trứng sẽ rụng. Một phương pháp khác giúp xác định ngày rụng trứng là lấy thân nhiệt vào mỗi buổi sáng trước khi bước ra khỏi giường. Nếu trứng chưa rụng thì thân nhiệt thấp, dưới 37 độ C. Khi trứng rụng rồi thì nhiệt độ sẽ tự nhiên vượt lên trên 37 độ C.

Ngoài ra có những triệu chứng nào giúp ngưòi phụ nữ có thể nhận biết được ngày trứng rụng không?

Thường khi trứng rụng thì người phụ nữ sẽ có cảm giác đau nhói ở một bên bụng, đó là do trứng vỡ ra có thể hơi chảy máu và làm hơi đau bụng. Một triệu chứng khác giúp nhận biết ngày rụng trứng là phụ nữ sẽ thấy trong âm đạo ra chất nhờn rất nhiều. hoặc sẽ thấy nhiệt độ hơi cao lên. Để dễ hiểu, chúng ta xem ngày có kinh tháng trước là ngày số 1, đếm đến ngày thứ 14, Thường ngày thứ 14-16 sau kinh kỳ sẽ là ngày trứng rụng.

Xác định được ngày rụng trứng rồi, những người mẹ muốn tìm con trai hay con gái thì nên áp dụng những phương pháp nào?

Thật sự, trai gái theo ý muốn cũng là một phần rất quan trọng. Trứng của người mẹ luôn luôn chỉ có nhiễm sắc thể X, tức chỉ có con gái thôi. Muốn được con trai hay con gái là hoàn toàn do tinh trùng của người cha.

Có nhiều người đàn ông có nhiều tinh trùng mang nhiễm sắc thể Y hơn X, tức nhiều tinh trùng đực hơn tinh trùng cái. Ví dụ trong gia đình bố mẹ sinh toàn con trai thì những người con trai ấy sau này đa số tinh trùng sẽ mang nhiễm sắc thể Y nhiều hơn, xác xuất sinh con trai cũng cao hơn.

Thông thường tinh trùng X của người cha nặng nề hơn, sống lâu hơn, còn tinh trùng đực mang nhiễm sắc thể Y thì nhỏ hơn, yếu hơn. Cho nên chúng ta thấy tình trạng trai thiếu gái thừa, vì tinh trùng X mạnh hơn nên dễ thụ thai hơn.

Thụ thai trai gái theo ý muốn thì mình phải tạo ra môi trường trong cơ thể của người mẹ sao cho tinh trùng đực (hay cái) sống được nhiều hơn. Khi trứng sắp rụng, môi trường chất kiềm trong cơ thể người mẹ thấp hơn khi trứng rụng. Lúc này, dễ thụ thai con gái.

Ngay lúc trứng rụng hay sau khi trứng rụng, môi trường trong âm đạo có chất kiềm cao hơn, vì vậy dễ thụ thai con trai. Tức là chất potassium và sodium cao hơn thì đẻ con trai. Trước đây người Trung Hoa muốn có con trai thì ăn chay niệm phật, nhưng thực sự ra vì ăn chay có nhiều chất muối mặn như chao và chất potassium trong trái cây như chuối, cam làm cho dễ thụ thai con trai.

Thật sự ra đó là tạo môi trường trong cơ thể của người phụ nữ, khiến dễ sinh con trai. Bà Marie Curie nghiên cứu việc này và khuyên rằng muốn sinh con trai thì nên ăn nhiều thực phẩm có chứa nhiều sodium và potassium.

Những loại thức ăn nào có chứa nhiều hai loại chất này?

Những thực phẩm như xúc xích, lạp xưởng, chuối, cam, dưa hấu…vv…Nếu ăn những thực phẩm nhiều sodium và potassium trong vòng 3 tháng để môi trường trong cơ thể người phụ nữ có nhiều chất kiềm hơn để tinh trùng Y dễ sống hơn, tinh trùng X bị vô hiệu hoá, thì nhiều cơ hội có thể sinh con trai. Nếu muốn sinh con gái thì ăn nhiều chất ma-nhê và calcium, tức là đậu hủ, đậu nành, rau cải, đồ biển nhiều.

Chất potassium , có tốt cho cơ thể hay không?

Chất potassium thì tốt, sodium thì không tốt lắm vì ăn nhiều muối dễ bị huyết áp cao sau này. Người ta thấy rằng nếu ăn nhiều chất potassium, tức là chất muối của trái cây, thì lại rất tốt.

Người Tây phương thì không kiên nhẫn như người Trung Hoa tức là ăn uống ba tháng trời để đổi môi trường. Phương cách người Tây Phương áp dụng để sinh con theo ý muốn là thử nước tiểu để xác định đúng ngày trứng rụng thì vợ chồng gần nhau.

Lúc này, môi trường trong âm đạo sẽ giúp tinh trùng đực dễ đến đích hơn. Có một vị bác sĩ Mỹ đề nghị thêm một phương cách khác. Đó là nếu muốn con gái, người vợ nên pha 1 lít nước ấm với 2 muỗng canh giấm rửa sạch âm đạo trước khi gần chồng. Độ chua sẽ làm cho dễ sinh con gái.

Nếu muốn sinh con trai thì pha 2 muỗng canh bột baking soda vào 1 lít nước ấm để rửa âm đạo trước khi gần chồng. Ngoài ra, để tạo điều kiện dễ thụ thai con trai, người chồng phải xuất tinh thật nhiều
saoly trả lời 1 năm trước
Các nhà khoa học đã phát hiện ra rằng tinh trùng mang nhiễm sắc thể giới Y (sinh con trai) rất "sợ" môi trường axit nhưng lại "khoái" môi trường kiềm.

Nếu muốn sinh con gái, nên chọn tư thế nam nằm trên và dương vật chỉ đưa nông vào âm đạo. Như vậy tinh trùng phóng ra sẽ ở gần âm hộ, nơi có độ axit cao hơn khu vực gần cổ tử cung. Môi trường này bất lợi với tinh trùng mang nhiễm sắc thể Y nên các tinh trùng mang nhiễm sắc thể X (sinh con gái) có điều kiện vượt lên và đi thụ tinh cho trứng.

Muốn sinh con gái, nữ không nên có khoái cực khi giao hợp vì sau khi có khoái cực, cơ thể bài tiết ra những chất làm cho môi trường âm đạo kiềm hơn, thuận lợi hơn cho các tinh trùng Y. Niêm dịch cổ tử cung vào thời điểm rụng trứng ít axit hơn và cũng rất “trơn dính” nên giúp cho tinh trùng Y đi gặp trứng nhanh hơn.

Muốn sinh con trai, khi giao hợp, dương vật cần đưa sâu hoặc đưa vào từ phía sau người nữ.

Như thế tinh trùng sẽ gần với cổ tử cung và dễ di chuyển để đi thụ tinh cho trứng hơn. Sau khi có khoái cực, cơ thể tạo ra chất có lợi cho tinh trùng sinh Y. Những co giật đi cùng với khoái cực cũng giúp tinh trùng Y di chuyển nhanh qua cổ tử cung, tăng cơ may thụ tinh.

Ngoài yếu tố tinh trùng và niêm dịch cổ tử cung, người ta nhận thấy những gia đình sinh nhiều con một bề có thể liên quan đến môi trường tử cung của người mẹ là kiềm hay axit; nếu là axit sẽ khó thụ thai con trai.

Như vậy, tư thế tình dục không phải là yếu tố quyết định tạo ra con trai hay con gái mà chỉ là góp phần tác động đến giới tính thai.

Làm thế nào để tính ngày rụng trứng ?

Làm thế nào để tính ngày rụng trứng ?

Một chu kỳ kinh được đo từ ngày đầu tiên thấy kinh cho đến ngày đầu tiên của lần tiếp theo.

- Một chu kỳ kinh điển hình kéo dài 28-32 ngày, nhưng có thể ngắn hoặc dài hơn.

- Xác định ngày rụng trứng bằng cách tính thời điểm giữa của chu kỳ, thông thường rơi vào giữa ngày thứ 11 và 21.

- Ngày rụng trứng có thể là ngày 12 cho đến ngày 16 trước ngày đầu tiên của kỳ kinh tiếp theo.

Tính theo kỳ kinh: Trước ngày đầu tiên của kỳ kinh sau 14 ngày là ngày trứng rụng dù chu kỳ kinh nguyệt dài hay ngắn. Ở đây quy ước ngày thứ nhất là ngày bắt đầu hành kinh. Nếu chu kỳ 28 ngày thì ngày thứ 14 là ngày trứng rụng (tức là 28-14 = 14). Nếu chu kỳ 29 ngày thì đó là ngày thứ 15. Ở những người kinh nguyệt không đều (do sức khỏe không bình thường, cuộc sống gia đình không vui tươi thoải mái, nếp sinh hoạt, nghỉ ngơi không hài hòa...), cách xác định trên không chính xác, không nên áp dụng để chủ động thụ thai hoặc để tránh thai. Đo thân nhiệt: Dùng nhiệt kế để theo dõi thân nhiệt mỗi sáng trước khi xuống giường vào một giờ nhất định, ghi lên bảng theo dõi. Chỉ sử dụng một nhiệt kế để tránh sai số và lấy ở một nơi nhất định trên cơ thể: nách, miệng. Đường biểu diễn sẽ có hai giai đoạn: - Giai đoạn 1: trước rụng trứng thân nhiệt thấp; - Giai đoạn 2: Sau rụng trứng thân nhiệt cao hơn. Ngày rụng trứng: thân nhiệt hạ thấp hơn giai đoạn 1 và tăng hơn giai đoạn 2. Tuy nhiên mức độ thay đổi thân nhiệt chỉ là 0,3-0,5 độ. Giai đoạn 2 kéo dài ít nhất 12 ngày. Ưu điểm của phương pháp tính thời điểm rụng trứng bằng cách đo nhiệt độ là dễ làm. Còn nhược điểm là chỉ dành cho những người có chu kỳ kinh nguyệt đều, có đời sống tinh thần tương đối ổn định (vì phải cặp nhiệt hằng ngày nên dễ quên). Nếu bị cảm cúm, mệt mỏi, tinh thần lo âu…. kết quả sẽ sai lệch. Thử bằng que LH thử rụng trứng: Bạn gái có thể dùng que OvuStick hoặc ACON (LH Ovulation Test) của Mỹ. (OvuStick lúc nào cũng hiện 2 vạch. Acon: chỉ ngày sắp rụng và ngày rụng mới hiện hai vạch). Bạn cần đọc kỹ hướng dẫn sử dụng có bán kèm que thử và thực hiện đúng theo hướng dẫn. Nhược điểm của phương pháp này là: Đối với những trường hợp hiếm muộn do rối loạn nội tiết thì hiệu quả không cao; Đối với phụ nữ lớn tuổi, do biến động về hóc môn ở lứa tuổi này que thử sẽ hiện lên đậm hơn trong nhiều ngày. Tính chính xác bị ảnh hưởng; Do vậy với nhóm tuổi này, người sử dụng sẽ phải thử trong vài chu kỳ để biết được độ đậm nhạt của vạch. Sau đó ghi lại mức độ đậm nhạt của các vạch trên que thử. 14 ngày sau có kinh sẽ biết được que nào dương tính. Siêu âm trứng: Bạn gái cần đến cơ sở y tế chuyên khoa phụ sản, bệnh viện phụ sản để siêu âm xem sự phát triển của nang trứng như thế nào và thời điểm có thể rụng trứng. Việc thực hiện siêu âm trứng thường được thực hiện khi có chỉ định của bác sỹ trong trường hợp chẩn đoán và điều trị hiếm muộn. Những dấu hiệu khác cho biết thời điểm trứng rụng: - Vào ngày trứng rụng, ở lỗ cổ tử cung có một chất dịch nhờn, trong. Cho chất đó vào hai ngón tay, có thể kéo ra được; - Từ lúc trứng rụng trở đi, độ pH ở môi trường âm đạo là 7,5 - 8,0. Trước ngày trứng rụng là 7,3 và thấp hơn; - Trong những ngày trứng rụng, ở một số người phụ nữ thường xuất hiện ham muốn tình dục cao hơn bình thường; Một số chị em có hiện tượng buồn nôn; - Vài ngày trước khi trứng rụng, ở phần lớn chị em, vú nở to và có cảm giác căng cứng… Những dấu hiệu trên chỉ dùng để tham khảo, kết hợp với các biện pháp xác định thời điểm rụng trứng khác chứ không dùng để kết luận chắc chắn về thời điểm rụng trứng. Hy vọng những thông tin trên phần nào giải đáp những băn khoăn của bạn.Chúc bạn mọi điều tốt lành!

Thời kỳ rụng trứng

Thời kỳ rụng trứng

Trong một chu kỳ kinh nguyệt, phụ nữ chỉ có 25 % cơ hội để mang thai. Nên để có khả năng đậu thai cao nhất, việc tính chu kì rụng trứng và giai đoạn “sung” nhất là rất quan trọng.

 Nguyên lý hoạt động

Chu kỳ kinh nguyệt được chia ra làm 3 giai đoạn (xem biểu đồ): giai đoạn hình thành nang mạc (diễn ra khoảng 14 ngày, trong đó 5-6 ngày kinh nguyệt);  giai đoạn rụng trứng (chỉ diễn ra trong khoảng 24h) và cuối cùng là giai đoạn hoàng thể (diễn ra trong khoảng 14 ngày). Kết thúc pha hoàng thể là bắt đầu cho một chu kì hình thành nang trứng mới. Trước khi phóng noãn, nội mạc tử cung, bao phủ bề mặt tử cung, được xây dựng theo kiểu đồng bộ hoá. Sau khi phóng noãn, nội mạc này thay đổi để chuẩn bị cho trứng thụ tinh làm tổ và hình thành thai kỳ. Nếu thụ tinh và thai kỳ không xảy ra, tử cung loại bỏ lớp nội mạc và chu kỳ kinh mới bắt đầu.
 
Số liệu trung bình. Thời gian và các số liệu khác có thể thay đỏi theo cá nhân và theo chu kỳ.


Quy trình này quay vòng trong khoảng 28 ngày. Nhưng ở một số phụ nữ, pha nang noãn diễn ra dài hơn và giai đoạn rụng trứng sẽ chậm lại so với chu kì. Nhưng dù thế nào, pha hoàng thể vẫn luôn diễn ra trong vòng 14 ngày. Với những thông tin này, chúng ta có thể tính được ngày rụng trứng để có cơ hội đậu thai cao nhất.
Như vậy, chúng ta có công thức sau để tính ngày rụng trứng :
Ví dụ :
 
Đối với chu kỳ  22 ngày, ngày rụng trứng có thể diễn ra vào ngày thứ 8: (22-14=8).
Đối với chu kì bình thường diễn ra 28 ngày, thì ngày rụng trứng sẽ là ngày thứ 14 (28-14=14).
Đối với chu kì dài là 32 ngày , ngày rụng trứng diễn ra vào ngày thứ 18 (32-14=18).

Thời kì sinh sản

Tinh trùng có thể sống 4 ngày trong cơ quan sinh dục của phụ nữ, trong khi đó, thời gian trứng chín diễn ra 1 ngày .Như vậy thời kì sinh sản diễn ra mạnh nhất  diễn ra trong vòng 4 ngày trước trước ngày phóng noãn và kết thúc sau đó 1 ngày.
Dấu hiệu tốt  
Có nhữngdấu hiệu chung báo hiệu trước thời kỳ rụng trứng mà bạn nên nắm bắt để chuẩn bị  cho việc đậu thai :

- Đau quặn vùng bụng dưới, là vùng ngay bên cạnh vùng ổ trứng bị rụng.
 
- Cổ tử cung mở rộng và tiết ra nhiều dịch để tạo không gian và môi trường tốt cho tinh trùng thâm nhập và tìm trứng.

- Thân nhiệt tăng lên (khoảng 0,3°C)

Siêu âm tính ngày rụng trứng cho chị em kinh nguyệt không đều

Tính ngày rụng trứng cho chị em có kinh nguyệt không đều
Làm thế nào để tính được ngày rụng trứng trong khi chu kỳ kinh nguyệt của bạn không đều? Bạn đã bao giờ nghe đến que thử rụng trứng chưa?
1. Lúc nào là thời kỳ dễ thụ thai?
Đáp án chính xác là lấy chu kỳ phổ biến 28 ngày để tính toán. Thời kỳ rụng trứng sẽ rơi vào ngày thứ 14 (đếm ngược) bắt đầu từ ngày đầu tiên của kỳ kinh tiếp theo.
Thời kỳ dễ thụ thai cũng có thể rơi vào khoảng thời gian từ 11 đến 16 ngày sau ngày thấy kinh đầu tiên. Ngày dễ thụ thai nhất là ngày thứ 13 đến 15 của chu kỳ.
Nếu chức năng sinh sản bình thường lại không áp dụng bất cứ biện pháp tránh thai nào thì khả năng thụ thai trong thời kỳ này là rất cao.
2. Ngày kinh đầu tiên chính xác là ngày nào?
Ngày đầu tiên của chu kỳ được tính là ngày đầu có hiện tượng ra máu. Nếu trước đó có thấy ra vài giọt máu thì có thể bỏ qua không cần tính. Nhiều người vẫn lầm tưởng ngày sạch kinh mới là ngày đầu của một chu kỳ mới, vì thế dẫn đến tính toán sai thời kỳ dễ thụ thai.
3. Nếu chu kỳ là 32 ngày thì tính thời kỳ dễ thụ thai như thế nào?
Nếu chu kỳ này là cố định thì thời kỳ dễ thụ thai cũng sẽ cố định tương ứng. Nếu chu kỳ của bạn dài hơn 28 ngày thì có thể áp dụng công thức suy đoán, tức cứ dài thêm một ngày thì ngày dễ thụ thai sẽ cộng thêm một và ngược lại nếu chu kỳ ngắn hơn 28 ngày thì ngày dễ thụ thai lại trừ đi một.
Ví dụ: Nếu chu kỳ dài 32 ngày thì thời kỳ dễ thụ thai sẽ ở vào khoảng ngày thứ 15 (11+4) đến ngày thứ 20 (16+4), ngày rụng trứng có thể rơi vào ngày thứ 18 (14+4) của chu kỳ.
4. Chu kỳ thường là 26-30 ngày, làm thế nào để tính thời kỳ dễ thụ thai?
Trong trường hợp này bạn phải tính toán 2 thời kỳ dễ thụ thai. Một là căn cứ vào chu kỳ ngắn nhất, hai là căn cứ vào chu kỳ dài nhất sau đó kết hợp 2 chu kỳ này lại với nhau.
Ví dụ với chu kỳ 26 ngày thì thời kỳ dễ thụ thai sẽ ở vào khoảng ngày thứ 9 đến ngày thứ 14 của chu kỳ.
Nếu chu kỳ 30 ngày thì thời kỳ dễ thụ thai ở vào khoảng ngày thứ 13 đến ngày thứ 18 của chu kỳ.
Tổng hợp lại, thời kỳ dễ thụ thai của bạn ở vào khoảng ngày thứ 9 đến ngày thứ 18 và ngày rụng trứng ở vào khoảng từ ngày thứ 12-16 của chu kỳ. 
351276964_aFamilythu
5. Nếu chu kỳ hoàn toàn không chuẩn thì có thể tính thế nào?
Nếu chu kỳ thường xuyên bị rối loạn không thể dự đoán được thì có thể bạn không rụng trứng. Trong trường hợp này bạn nên đến bệnh viện để kiểm tra nguyên nhân trứng không rụng trước đã.
6. Tần suất của việc sinh hoạt vợ chồng trong thời kỳ dễ thụ thai?
Tần suất lý tưởng là 2 ngày một lần hoặc 3 lần/tuần. Tuy nhiên cần chú ý, làm chuyện ấy mỗi ngày không thể làm tăng xác suất thụ thai ngược lại còn làm giảm lượng tinh dịch và khiến cơ thể mệt mỏi.
Thời kỳ dễ thụ thai với chu kỳ 28 ngày là trong khoảng ngày thứ 13 đến 15 của chu kỳ, vì thế trong giai đoạn này nên làm chuyện ấy 1-2 lần để nâng cao khả năng thụ thai.
7. Vì sao sử dụng phương pháp đo nhiệt độ tính ngày rụng trứng để tiến hành mà vẫn thất bại?
Nhiệt độ cơ thể là một công cụ hỗ trợ mang thai rất phổ biến tuy nhiên lại rất dễ khiến người ta ngộ nhận. Thường thì trong vòng 2 ngày sau khi rụng trứng thì nhiệt độ cơ thể có tăng lên đôi chút và có thể theo dõi được, thế nhưng ngày nhiệt độ cơ thể tăng cao đồng thời cũng là ngày kết thúc của thời kỳ dễ thụ thai. Nói cách khác, nhiệt độ cơ thể tăng cao có nghĩa thời kỳ dễ thụ thai của bạn đã hết.
8. Nguyên lý của que thử rụng trứng?
Nguyên lý của que thử rụng trứng là kiểm tra hàm lượng của kích thích tố LH. Thông thường hàm lượng LH trong cơ thể rất thấp nhưng nó đột ngột tăng cao trước khi rụng trứng, y học gọi đó là “giá trị đỉnh LH”. Que thử rụng trứng có tác dụng đo lại giá trị này, nếu nó xuất hiện tức là trứng sắp rụng trong khoảng 12-26 giờ nữa. Tuy nhiên nếu bạn cứ chờ đến khi giá trị đỉnh này xuất hiện thì có thể đã bị lỡ mất một nửa thời gian của thời kỳ dễ thụ thai. Lý do đơn giản là vì trước khi xuất hiện giá trị này thì đã là thời kỳ dễ thụ thai rồi.
9. Nếu không áp dụng tất cả các biện pháp trên thì làm thế nào để thụ thai?
Nếu bạn sinh hoạt vợ chồng với tần suất 2-3 ngày 1 lần trong thời gian không có kinh thì bạn đã có xác suất thụ thai rất cao rồi. Nếu bạn chỉ sinh hoạt vợ chồng 1 lần/tuần hoặc ít hơn thì rất có thể bạn đã bỏ qua thời kỳ dễ thụ thai.
10. Cần chú ý những gì để nâng cao cơ hội thụ thai?
Người chồng nên tránh cho cơ quan sinh dục ở trong tình trạng nhiệt độ cao; giảm bớt hoặc tránh hẳn việc mát xa, tắm bồn, xông hơi, hạn chế vận động mạnh và đi xe đạp.
Người vợ nên chú ý đến sự thay đổi sinh lý. Khi bước vào thời kỳ dễ thụ thai, lượng khí hư cũng tăng lên nhiều đồng thời có thêm ham muốn tình dục. Những dấu hiệu này không nên bỏ qua bởi vì không loại trừ khả năng thời kỳ dễ thụ thai lại xuất hiện đúng lúc không ngờ đến.
Người vợ phải đạt được cao trào khi làm chuyện ấy vì như thế sẽ khiến tử cung co thắt, tạo điều kiện đưa tinh trùng xâm nhập vào tử cung, nâng cao khả năng thụ thai. Vì thế nhiều khi có sinh hoạt vợ chồng nhưng không có cao trào thì tinh trùng cũng khó di chuyển vào trong.
Sau khi sinh hoạt nên nằm ngửa từ 10-15 phút đồng thời tránh tiếp xúc với các loại hoá chất. Nếu phát hiện có bệnh ở âm đạo thì phải đi khám ngay vì các căn bệnh về âm đạo cũng sẽ ảnh hưởng đến sự thụ thai.
Theo aFamily

Giai đoạn rụng trứng là gì?

Admin (18-7-2011)

Giai đoạn rụng trứng là gì?

Hỏi:Tôi năm nay 28 tuổi, đã lập gia đình cách đây một năm, hiện nay vẫn chưa có con. Hai tháng gần đây, tôi có đi siêu âm để xác định ngày trứng rụng nhưng tôi vẫn chưa hiểu rõ lắm về kỹ thuật này. Xin được hỏi: Nang noãn có đường kính khoảng bao nhiêu mm thì kết luận là đang ở giai đoạn trứng rụng? Giai đoạn trứng rụng nghĩa là gì? Là trứng đã rụng, hay chuẩn bị rụng? Trứng sẽ rụng trong khoảng từ ngày nào trong chu kỳ kinh? Siêu âm để xác định ngày rụng trứng ở đâu tốt nhất? (Thanh Thao - Q.10, TP.HCM)



   Admin (18-7-2011)

Đáp:Tuyến sinh dục nữ gồm có 2 buồng trứng ở 2 bên,kích thước trung bình 2,5x 3,4 cm. Trong tuổi hoạt động sinh dục tức là từ tuổi dậy thì đến khi mãn kinh, hàng tháng có một nang noãn chín. Thông thường khi nang noãn này lớn từ 16-26mm thì sẽ phóng ra một noãn còn gọi là hiện tượng rụng trứng. Noãn là một tế bào to nhất trong cơ thể, bao gồm nguyên sinh chất, nhân, màng ngoài, khi đã chín noãn có kích thước nhỏ hơn hạt kê, hình cầu, màu vàng nhạt. Lúc này nang noãn (nang Graaf) căng phồng, vỡ ra và phóng noãn vào một vòi loa đã đón sẵn. Khái niêm rụng trứng thường để chỉ giai đoạn phóng noãn. Ở giai đoạn này cơ thể và cơ quan sinh dục có nhiều thay đổi như thân nhiệt tăng, muốn được gần gũi với chồng hơn đồng thời dịch tiết ra ở âm đạo nhiều hơn, nhu cầu tình dục cao hơn và trứng đã sẵn sàng tiếp nhận tinh trùng để thụ thai.

Chu kì kinh nguyệt nếu đều thì thông thường hiện tượng rụng rụng trứng sẽ diễn ra vào ngày thứ 14 đối với chu kì kinh 28 ngày và ngày thứ 15 đối với chu kì kinh 30 ngày. Tuy nhiên trứng có thể rụng bất kì ngày nào trong chu kì kinh nguyệt do hưng phấn đột xuất quá mức khích thích gây ra hiện tượng rụng trứng bất thường.

Bạn có thể đi siêu âm để canh noãn với mục đích làm tăng hiệu suất có thai khi giao hợp. Xung quanh ngày rụng trứng thì tinh trùng và trứng dễ gặp nhau hơn với điều kiện chất lượng của trứng và tinh trùng đảm bảo, cũng như sự toàn vẹn của cơ quan sinh sản như không bị viêm nhiễm gây tắc vòi trứng, nội mạc tử cung đủ dày để trứng làm tổ, v.v.... Xét nghiệm này có thể làm ở bất cứ BV phụ sản nào ở TP.HCM khi có chỉ định của BS chuyên khoa.

Cơ quan sinh dục nữ

âu hỏi: Cơ quan sinh dục nữ bao gồm những gì?
Trả lời:Cơ quan sinh dục nữ đóng vai trò quan trọng trong sinh sản, nó bao gồm bộ phận sinh dục ngoài là âm hộ, bộ phận sinh dục trong gồm: âm đạo, tử cung, vòi trứng, buồng trứng.
Cơ quan sinh dục nữ
Âm hộ: bao gồm một vài cấu trúc bao quanh đường vào âm đạo:
Môi lớn: có 2 nếp da lớn bao quanh lỗ âm đạo. Gồm có mô mỡ, lông, tuyến mồ hôi, hình thành một ụ mỡ phía trước gọi là gò vệ nữ, nằm phía trên xương mu. Phía sau hai môi lớn hoà vào nhau, cùng với một số cơ tạo thành sàn của tầng sinh môn nối giữa âm đạo và lỗ hậu môn.
Môi bé: là hai nếp gấp da mảnh nằm giữa môi lớn và thành bên của đường vào âm đạo, chứa một ít tổ chức liên kết và rất nhiều mạch máu.
Âm vật: tương đương với dương vật, có chiều dài trung bình 2,5cm, là tổ chức cương, to lên khi người phụ nữ bị kích thích tình dục.
Màng trinh: là một màng mỏng bao quanh lỗ âm đạo. Ngay cả đối với thiếu nữ, màng trinh không phải kín hoàn toàn, để cho kinh nguyệt chảy qua. Màng trinh bị rách trong lần giao hợp đầu tiên, nhưng một vài di tích của nó còn được giữ lại, ngay cả sau những lần giao hợp tiếp theo.
Tuyến Bartholin: Nằm hai bên đường vào âm đạo, tuyến này tiết ra chất nhầy để bôi trơn trong quá trình giao hợp.
Bộ phận sinh dục trong: Bao gồm âm đạo, tử cung, vòi trứng và buồng trứng.
Âm đạo: là đường dẫn từ âm hộ tới tử cung dài 10cm và có thể giãn khi giao hợp hoặc sinh đẻ. Thành âm đạo nối liền với da, và có rất nhiều nếp gấp.
Tử cung: có hình dáng như quả lê, dài 7,5cm, rộng 5cm và chia làm 3 phần: đáy tử cung, thân tử cung, cổ tử cung. Trong lòng tử cung có lớp nội mạc bao phủ, thay đổi theo chu kỳ kinh nguyệt.
Vòi trứng: hình ống chạy từ thân tử cung về phía buồng trứng dài 11cm và ở phía ngoài cùng của nó nằm phía trên buồng trứng có những tua loa vòi giống như những ngón tay. Vòi trứng nối liền buồng trứng với buồng tử cung, khi buồng trứng phóng noãn, thì tua loa vòi bắt lấy noãn và chuyển qua vòi trứng vào buồng tử cung.
Sự thụ thai và quá trình phát triển ban đầu của trứng xảy ra ở vòi trứng. Trứng sẽ chuyển từ vòi trứng vào trong buồng tử cung sau phóng noãn khoảng 60 – 70 giờ. Ngược lại với sự di chuyển của noãn là sự di chuyển của tinh trùng, sự di chuyển này phụ thuộc vào tính chất tế bào của vòi trứng cũng như sự co bóp cơ của vòi trứng.
Buồng trứng: Có hình quả hạnh nhân, màu trắng ngà, nằm ở hai bên thành chậu hông. Mỗi buồng trứng có kích thước 4x3x1cm, lớp ngoài gọi là lớp vỏ, có chứa nang noãn, có chất đệm bao quanh, giữa là tuỷ của buồng trứng, cuống phía trong của buồng trứng có những mạch máu vào thần kinh đi vào.
Buồng trứng của người phụ nữ tương đương với tinh hoàn của nam giới, bên cạnh việc chứa nang noãn nó còn sản sinh ra một số hormon, chủ yếu là estrogen, progesteron.

Cựu nhân viên hộ lý bán trẻ sơ sinh

Cựu nhân viên hộ lý bán trẻ sơ sinh
TPO - Từng là hộ lý Chi biết cung - cầu về trẻ sơ sinh cao nên thị đã dùng lời đường mật dụ dỗ sản phụ có "thai ngoài ý muốn" cho con và đem bán lại cho những cặp vợ chồng hiếm muội...
Ảnh chỉ mang tính minh họa
Ảnh chỉ mang tính minh họa.
Sáng nay, TAND TP Hà Nội mở phiên xét xử hình sự sơ thẩm đối với Nguyễn Thị Kim Chi (SN 1953, trú ở phường Ngô Thì Nhậm, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội) cùng đồng phạm về hành vi mua bán trẻ em, quy định tại Điều 120 BLHS.
Theo cáo buộc, Chi từng là nhân viên hộ lý – Bệnh viện Phụ sản trung ương. Trong thời gian làm việc tại đây, Chi biết nhiều trường hợp sản phụ sinh con ngoài ý muốn, không có nhu cầu nuôi con. Lại biết nhiều gia đình hiếm muộn, muốn có con nuôi, Chi nảy sinh ý định thiết lập đường dây mua bán trẻ em.
Để đạt được mục đích này, “mẹ mìn” Nguyễn Thị Kim Chi bàn bạc với chồng – Đặng Quang Hy (SN 1944). Theo đó, Hy thường xuyên lui tới các bệnh viện lớn trên địa bàn Hà Nội, như Bệnh viện Phụ sản trung ương, Bệnh viện Giao thông vận tải...lân la, làm quen với các nhân viên bệnh viện, các lái xe ôm để họ giới thiệu “hàng” là những trẻ sơ sinh cho các cặp hiếm muộn.
Trong khoảng thời gian từ tháng 1-2009 đến tháng 11-2010, “cặp đôi hoàn hảo” Chi- Hy đã thực hiện trót lọt bốn phi vụ mua bán, chiếm đoạt trẻ sơ sinh, thu lời hàng chục triệu đồng.
Đơn cử trường hợp ngày 15-1-2009, Chi xin sản phụ Trần Thị Thảo (không xác định được địa chỉ cụ thể) cháu trai 2,7kg tại Bệnh viện Phụ sản trung ương, sau đó, Chi đem về nuôi dưỡng ít hôm và bán cho vợ chồng anh Phạm Văn Hoà (chưa xác định địa chỉ cụ thể) với giá 35 triệu đồng.
Với hành vi này, Chi cùng đồng phạm bị truy tố, xét xử theo khoản 2, Điều 120 BLHS với khung hình phạt cao nhất đến chung thân.
Tại phiên toà sáng nay, sau nhiều giờ chờ đợi, cuối cùng, phiên xử phải hoãn lại do bị cáo Chi không đảm bảo sức khoẻ. Được biết, sau khi bị cơ quan điều tra phát hiện, bắt giữ, Chi từng bị tai biến mạch máu não, sức khoẻ bị ảnh hưởng nghiêm trọng.

Hàng trăm phụ nữ phá thai nhầm vì… sợ rubella

Hàng trăm phụ nữ phá thai nhầm vì… sợ rubella

Thứ tư 10/08/2011 22:57
ANTĐ - Đó là một sự thật rùng mình được đưa ra trong kết quả nghiên cứu bước đầu về chọc dịch ối chẩn đoán thai nhi nhiễm virus rubella bằng kỹ thuật PCR Real-time, do PGS.TS Lê Anh Tuấn, Phó Giám đốc BV Phụ sản Trung ương và cộng sự tiến hành.
Chỉ 16,5% ca phá thai dương tính



Dịch rubella bùng phát mạnh ở trẻ và phụ nữ mang thai đầu năm nay

Chưa bao giờ dịch rubella lại xảy ra mạnh và có nhiều phụ nữ mang thai mắc bệnh như thời điểm những tháng đầu năm nay. Thống kê từ Trung tâm Chẩn đoán trước sinh - BV Phụ sản Trung ương cho biết, chỉ riêng trung tâm này từ đầu năm đến nay đã tiếp nhận 2.045 thai phụ đến hội chẩn rubella. Tuy nhiên do phần lớn thai phụ đến muộn, không rõ phát ban nên không xác định được thời điểm mắc rubella và nguy cơ ảnh hưởng đối với thai. Cũng do thời điểm này dịch lan rộng nên rất nhiều phụ nữ hoảng sợ. Thậm chí, số ca không có dấu hiệu phát ban nhưng tự ý đi xét nghiệm IgG (+) rất cao, cũng có rất nhiều phụ nữ đổ xô đi tiêm phòng rubella mà không biết đã có thai (trong khi việc tiêm phòng vaccine rubella thường phải được chỉ định trước khi mang thai 3 tháng).

PGS.TS Lê Anh Tuấn cho biết, một lượng rất đông thai phụ xin phá thai ngay khi còn chưa có phương pháp chẩn đoán xác định thai nhiễm virus rubella. Trong số hơn 2.000 trường hợp thai phụ đến khám, hội chẩn rubella tại BV thì có đến hơn một nửa trường hợp chấp nhận phá thai vì lo sợ nguy cơ con sinh ra bị hội chứng rubella bẩm sinh. Kết quả là trong số 103 ca phá thai vì nghi rubella (có những trường hợp do bác sĩ chỉ định, có trường hợp do gia đình đề nghị), dựa vào tần suất mắc và thai phụ làm đơn xin phá, BV lấy máu cuống rốn xét nghiệm thì chỉ 17 ca có kết quả dương tính với virus rubella, chiếm tỷ lệ 16,5%. Điều đó cũng có nghĩa, 83,5% thai phụ vội vàng làm đơn xin phá thai vì nghi rubella, sợ con sinh ra mắc hội chứng rubella là… phá nhầm và tương ứng là ngần ấy đứa trẻ đã bị bỏ đi một cách oan uổng.

Theo cách lý giải của các bác sĩ BV Phụ sản Trung ương thì 83,5% số ca có IgG (+) và IgM (-) (không dương tính với virus rubella), tuy nhiên không hẳn IgM (-) là không bị rubella. Tại BV Phụ sản Trung ương thời gian này có 28 trẻ sinh ra bị hội chứng rubella bẩm sinh, 4 trường hợp tử vong... Những trường hợp này là do mẹ không phát hiện nhiễm rubella khi có thai. Và trong 28 trẻ sinh ra mắc hội chứng này, thì xét nghiệm chỉ có 23/28 trẻ có cả 2 chỉ số IgG và IgM dương tính, 5 trẻ còn lại rõ ràng mắc hội chứng này nhưng xét nghiệm chỉ có IgG (+), còn IgM (-). Việc đưa ra quyết định đình chỉ thai hay tư vấn đình chỉ thai đối với mỗi bác sĩ là cực kỳ khó khăn.

Lỗi do đâu?

TS. Lê Anh Tuấn nhấn mạnh, thông thường nếu thai phụ mắc bệnh khi mang thai dưới 12 tuần, cả hai chỉ số IgG và IgM trong xét nghiệm sinh hóa miễn dịch đều dương tính, có biểu hiện lâm sàng (sốt, phát ban), có nguồn lây (nghĩa là chắc chắn mắc rubella) thì được chỉ định bỏ thai. Những trường hợp còn lại sẽ được tư vấn kỹ càng, còn quyết định giữ hay bỏ là tùy thuộc lựa chọn của các thai phụ. Thậm chí có trường hợp nghi mắc rubella, bác sĩ tư vấn chờ thêm nhưng bệnh nhân vẫn xin được phá thai… Chính điều đó đã đẩy tỷ lệ phá thai lên cao.

Dù vậy, không thể phủ nhận rằng nguyên nhân chính dẫn đến việc các thai phụ đưa ra quyết định xin phá thai là dựa vào lời tư vấn của các bác sĩ. Ông Tuấn cho rằng, bệnh rubella (sởi Đức) năm nay bùng lên thành dịch lớn, trong đó tỷ lệ thai phụ nhiễm rubella cũng tăng đột biến so với các năm trước. “Cũng vì thế, trong số bác sĩ, nhiều người không hiểu rõ nên việc tư vấn không nhất quán. Nhiều người chỉ biết đến bệnh trên sách vở chứ chưa gặp trực tiếp”, TS. Tuấn cho biết. Cũng theo ông Tuấn, thông thường việc tư vấn rubella được các bác sĩ dựa vào 4 yếu tố: nguồn lây, biểu hiện lâm sàng, xét nghiệm sinh hóa miễn dịch và tần suất mắc ở từng tuổi thai đã được công bố trên thế giới. Tuy nhiên, việc tư vấn chỉ dựa vào 4 yếu tố như vậy vẫn có thể có những trường hợp thai phụ nghi mắc rubella nhưng trẻ sinh ra không bị nhiễm.

Trước khó khăn đó, BV Phụ sản Trung ương đã đưa vào thử nghiệm phương pháp mới chẩn đoán thai nhi nhiễm virus rubella bằng kỹ thuật PCR real-time (chọc ối lấy mẫu xét nghiệm). Phương pháp này khẳng định đúng đến 95% thai nhi có bị nhiễm rubella hay không. Sau hơn 2 tháng thử nghiệm, BV đã tiến hành chọc ối được hơn 40 ca.

Tinh trùng cũng biết tính toán

inh trùng cũng biết tính toán
Một nghiên cứu gần đây đã chỉ ra tinh trùng cũng có “trí tuệ” nào đó và chúng còn biết đếm nữa.
Những quan sát tỉ mỉ (kèm theo là quay phim để xem đi xe lại nhiều lần) đã cho thấy chuyển động của tinh trùng được kiểm soát bởi nồng độ của canxi trong môi trường xung quanh. Lúc đầu các nhà khoa học nghĩ rằng chính nồng độ canxi là yếu tố quyết định, nhưng thực ra, không đơn giản như thế.
Tốc độ và phương hướng của tinh trùng sẽ thay đổi theo nồng độ canxi của môi trường
Tinh trùng thay đổi phương hướng và tốc độ chuyển động của chúng một cách liên tục, phụ thuộc vào nồng độ canxi thay đổi nhanh chậm ra sao. Như vậy, chúng biết “tính toán” tốc độ thay đổi của môi trường để điều chỉnh theo và đổi hướng chuyển động, tờ Zdravoe cho hay.
Nồng độ canxi trong môi trường xảy ra cuộc gặp gỡ giữa tinh trùng và tế bào trứng không đồng đều mà khác nhau ở từng địa điểm. Ở xung quanh tế bào trứng nồng độ này cao hơn hẳn. Để phát hiện ra điều đó, tinh trùng  phải biết nhận ra bất cứ sự thay đổi nào của môi trường, nghĩa là chùng phải biết tính toán.
Song cho tới nay, các nhà khoa học mới chỉ biết đến thế. Họ chưa trả lời được câu hỏi làm thế nào để tinh trùng thực hiện được công việc không hề dễ dàng này.

Một trường hợp hiếm gặp ở khoa chẩn đoán hình ảnh - Bệnh viện Phụ nữ TP. Đà Nẵng

Một trường hợp hiếm gặp ở khoa chẩn đoán hình ảnh - Bệnh viện Phụ nữ TP. Đà Nẵng

Hình - T1W, sagittal
     Ngày 9/8/2010, bệnh nhân tên Huỳnh Thị Đ… 44 tuổi được chuyển đến chụp MRI tại khoa Chẩn đoán hình ảnh (CĐHA) Bệnh viện Phụ nữ thành phố Đà Nẵng với chẩn đoán theo dõi U tủy ngực.
   Bệnh nhân đến khoa trong tình trạng tỉnh táo, yếu tứ chi, teo hai chi dưới nhẹ và rối loạn đại tiểu tiện. Bệnh nhân đã được khám, điều trị  và được cho làm các xét nghiệm chẩn đoán hình ảnh trước đó kể cả chụp Cộng hưởng từ nhiều lần nhưng vẫn không phát hiện và chẩn đoán được bệnh.

  Bệnh nhân có tiền sử phẫu thuật cột sống cổ tại Bệnh viện Chợ Rẫy cách đây 3 năm song không nhớ rõ chi tiết.

  Sau khi thực hiện các kỹ thuật chụp cột sống ngực bằng máy Magnetom Avanto 1.5 Tesla của Siemens (hiện đại nhất tại khu vực miền trung), kể cả tiêm thuốc tương phản từ vào tĩnh mạch, các bác sĩ tại khoa đã phát hiện được bệnh lý của bệnh nhân và giải thích được tình trạng bệnh hiện thời.




Hình - T2W, sagittal

 Hình ảnh ghi được là một dãi tổn thương ngoài màng cứng ống sống từ C1-D9, gây hẹp và phù tủy sống, nặng nhất ở đoạn cổ. Đường kính trước sau ống sống hẹp nhất đo được chỉ 2mm.

Hình - T2W, axial

  Tổn thương có tín hiệu rất thấp (đen) trên T1W, T2W, HEMO và sau khi tiêm thuốc tuơng phản từ thì không bắt thuốc (hình ảnh minh họa).

Hình - T1 CONTRAST (sau tiem thuoc)

  Sau khi hội ý các bác sĩ trong khoa đã thống nhất chẩn đoán hình ảnh điển hình của bệnh lý :
       + Tụ máu cũ ngoài màng cứng ống sống từ đọan cổ C1 đến đoạn ngực D9 gây hẹp ống sống, chèn ép tủy  nặng và phù tủy, nặng nhất ở đoạn cổ.
 Bệnh nhân ra khỏi phòng chụp MRI trong tình trạng an toàn. Các bác sĩ, kỹ thuật viên cảm thấy thật là vui và hạnh phúc khi đã chẩn đoán được một trường hợp bệnh lý khó và rất hiếm gặp. Bệnh nhân đã được đưa về Bệnh viện Đà Nẵng để được điều trị tiếp theo đúng chuyên khoa.
Bác sỹ Phướ

hính sách và biện pháp để ngăn ngừa lây truyền vi rút viêm gan B

hính sách và biện pháp để ngăn ngừa lây truyền vi rút viêm gan B

     Khuyến cáo từ Trung tâm Kiểm soát và phòng chống dịch bệnh Hoa Kỳ
*Ngay thời điểm tiếp nhận bệnh nhân đến sinh:

• Xem xét tình trạng nhiễm vi rút viêm gan B (xét nghiệm HBsAg) của tất cả phụ nữ mang thai.

• Ghi nhận kết quả xét nghiệm HBsAg của người mẹ vào Hồ sơ bệnh án và vào bệnh án sơ sinh.

• Tiến hành xét nghiệm HBsAg càng sớm càng tốt khi người phụ nữ:

 - Không có kết quả/ không làm xét nghiệm HBsAg trước đó
 - Có nguy cơ nhiễm vi rút viêm gan B (HBV) trong thai kỳ (ví dụ: có hơn 1 bạn tình trong vòng 6 tháng trước đó; chẩn đoán và điều trị bệnh lây truyền qua đường tình dục; đang được dùng thuốc tiêm; hoặc bạn tình có HBsAg dương tính (HBsAg +); hoặc
 - Có bệnh viêm gan trên lâm sàng kể từ lần xét nghiệm trước.
*Sau khi sinh:
Đối với người mẹ có HBsAg dương tính và con của họ

• Tiêm vắc xin viêm gan B và tiêm Globulin miễn dịch viêm gan B (HBIG) cho tất cả những trẻ sinh ra từ người mẹ có HBsAg dương tính trong vòng 12 giờ sau khi sinh, ghi lại ngày & thời gian tiêm HBIG và vắc xin viêm gan B vào bệnh án sơ sinh/ Sổ tiêm chủng.

• Cung cấp thông tin về viêm gan B cho các bà mẹ có HBsAg dương tính, bao gồm:
 - Khuyến cáo rằng họ có thể cho con bú mẹ sau khi sinh;
 - Các con đường lây nhiễm HBV;
 - Cần tiêm phòng vắc xin cho người nhà, bạn tình và những người sử dụng chung kim tiêm với họ;
 - Cần điều trị tình trạng nghiện thuốc nếu thích hợp;
 - Cần xử trí y tế và có thể phải điều trị tình trạng viênm gan B mạn tính.

Đối với người mẹ chưa biết rõ tình trạng HBsAg và con của họ

• Tiêm vắc xin viêm gan B (không tiêm HBIG) cho tất cả những trẻ sơ sinh của người mẹ chưa biết rõ tình trạng HBsAg trong vòng 12 giờ sau khi sinh, ghi lại ngày & thời gian tiêm vắc xin viêm gan B vào bệnh án sơ sinh /Sổ tiêm chủng.

• Cảnh báo cho nhân viên y tế chăm sóc trẻ sơ sinh nếu bé sơ sinh ra viện trước khi người mẹ có kết quả xét nghiệm HBsAg; nếu người mẹ được xác định có HBsAg dương tính, thì nên tiêm HBIG cho trẻ càng sớm càng tốt nhưng không chậm hơn 7 ngày tuổi.
Đối với tất cả các bà mẹ và trẻ sơ sinh

• Tiêm 1 liều vắc viêm gan B cho tất cả trẻ sơ sinh có trọng lượng
> 2.000gr.

• Phải đảm bảo rằng tất cả các bà mẹ đều được làm xét nghiệm HBsAg trước khi sinh hoặc khi đến sinh tại cơ sở y tế, và có ghi nhận kết quả xét nghiệm.
*Khi trẻ sơ sinh ra viện

Cung cấp sổ tiêm chủng của trẻ sơ sinh cho người mẹ và nhắc nhở họ mang theo ngay khi đưa con đi khám bệnh lần đầu tiên
Người dịch: Kim Thạch
Nguồn: CDC. A comprehensive immunization strategy to eliminate transmission of hepatitis B virus infection in the United States: recommendations of the Advisory Committee on Immunizatio

Quy trình khám điều trị hiếm muộn – vô sinh tại Phòng khám đa khoa Hữu Nghị Việt Pháp

Quy trình khám điều trị hiếm muộn – vô sinh tại

     Sau hơn 1 năm đi vào hoạt động (từ ngày 19/05/2010 đến nay) Khoa Hiếm muộn và Hỗ trợ sinh sản của Phòng Khám Đa khoa Hữu Nghị Việt Pháp đã mang lại niềm vui cho hơn 100 cặp vợ chồng đến khám và điều trị tại khoa. Theo định nghĩa các cặp vợ chồng trong tuổi sinh sản sau một năm chung sống và không áp dụng các biện pháp tránh thai mà vẫn không có con được gọi là Vô sinh (nếu người vợ >35 tuổi thời gian chỉ còn 6 tháng).

   Bệnh nhân có thể tham khảo qui trình khám và điều trị tại khoa để thuận tiện hơn trong quá trình điều trị.

   Khi tới Phòng Khám đa khoa hữu nghị việt Pháp 112, Phố mai dịch, Cầu Giấy (tầng 2, phòng 204), bệnh nhân sẽ được nhân viên hỏi về tình trạng bệnh (khai hồ sơ), khám phụ khoa tổng quát, siêu âm. Dựa trên kết quả thăm khám, bệnh nhân sẽ được cho làm một số xét nghiệm sơ khởi, bao gồm:

   + Chồng:
- Xét nghiệm máu (HIV, VDRL, HBsAg)
- Xét nghiệm tinh dịch đồ

   + Vợ:
- Xét nghiệm máu (HIV, VDRL, HbsAg)
- Xét nghiệm nội tiết vào ngày thứ 2 của vòng kinh (kiểm tra chức năng hoạt động của buồng trứng)
- Chụp HSG sau khi sạch kinh 2-3 ngày, không quan hệ (khi có nghi ngờ tổn thương tử cung - vòi trứng)

   Sau khi hoàn tất các xét nghiệm cơ bản tìm nguyên nhân, bệnh nhân sẽ được Bác sĩ trả lời kết quả xét nghiệm và tư vấn phương pháp điều trị phù hợp.

   Điều trị hiếm muộn rất đặc thù không như điều trị một bệnh thông thường, đòi hỏi bệnh nhân phải kiên trì (đến khám rất nhiều lần) và có niềm tin trong cả quá trình điều trị. Tiến trình điều trị vô sinh liên quan mật thiết với chu kỳ kinh của người phụ nữ, do vậy đơn vị thời gian trong điều trị không tính bằng ngày mà bằng tháng, và bệnh nhân phải tái khám đúng theo ngày hẹn để đảm bảo chất lượng điều trị.

Điều trị nội khoa thai ngoài tử cung

Điều trị nội khoa thai ngoài tử cung

Thai ngoài tử cung ở đoạn kẻ 12 tuần, kết quả cuối cùng là CTC.
     Theo kinh điển, điều trị thai ngoài tử cung chỉ là phẫu thuật. Với kinh nghiệm điều trị bằng methotrexate, điều trị thai ngoài tử cung chọn lọc bằng nội khoa là một cuộc cách mạng.
Điều trị nội khoa đang lôi cuốn những ý kiến phẫu thuật vì một số lí do bao gồm: giảm tỉ lệ tử vong do phẫu thuật, do gây mê toàn thân , ít bị tổn thương vòi trứng, ít chi phí và không cần nhập viện.
Ở Mỹ, từ năm 2002 đến 2007, chỉ định điều trị thai ngoài tử cung bằng methotrexate tăng từ 11,1% đến 35,1%.
Methotrexate là yếu tố hóa trị kháng chuyển hóa mà nó kết hợp với enzyme biến đổi dihydrofolate, emzyne này liên quan trong tổng hợp những nhân purine. Điều này cản trở sự tổng hợp DNA và phá vỡ sự nhân lên của tế bào. Methotrexate được biết có hiệu quả trong điều trị bệnh bạch cầu, u bạch huyết bào và ung thư ở đầu, cổ, vú, buồng trứng và bàng quang. Nó được dùng như yếu tố ức chế miễn dịch trong việc phòng ngừa mô ghép đối với vật thể chủ và trong điều trị chốc lỡ nặng, viêm khớp dạng thấp nặng.Nó bắt nguồn từ kinh nghiệm điều trị methotrexate trong bệnh thai trứng và ung thư tế bào nuôi, hiệu quả của nó trong điều trị mô tế bào nuôi tốt. Methotrexate được dùng để điều trị thai ngoài tử cung bằng tiêm bắp đơn liều hoặc đa liều.
Những tác dụng phụ liên quan với điều trị methotrexate có thể phân chia do tác dụng phụ của thuốc và của điều trị. Tác dụng phụ của thuốc bao gồm : buồn nôn, nôn, viêm dạ dày, ỉa chảy,viêm đường ruột, chóng mặt, tăng men gan thoáng qua. Những phản ứng nặng như là ngăn cản việc tổng hợp xương, viêm da, viêm màng phổi, viêm phổi, rụng tóc có thể xảy ra khi dùng liều cao hơn nhưng hiếm gặp khi dùng với liều điều trị thai ngoài tử cung. Những ảnh hưởng điều trị của methotrexate bao gồm đau bụng nhiều hơn (xảy ra ở 2/3 bệnh nhân), gia tăng nồng độ βhCG kéo dài từ 1-3 ngày sau khi điều trị và chảy máu ở âm đạo.

Bệnh nhân nào thì được chọn để điều trị nội khoa, một số yếu tố được đưa ra : bệnh nhân đó phải có tình trạng huyết động ổn định, không có những dấu hiệu hoặc triệu chứng của chảy máu tiến triển hoặc xuất huyết trong ổ bụng. Bệnh nhân đó phải là người tin cậy và tái khám để theo dõi. Yếu tố khác là kích thước của túi thai không quá 3,5 cm ở đường kính lớn nhất trên siêu âm và không có bất cứ chống chỉ định nào khi dùng methotrexate.
Nồng độ βhCG > 15000 IU/L, có tim thai, có dịch trong túi cùng trên siêu âm (biểu hiện thai ngoài tử cung vỡ) là những chống chỉ định điều trị nội. Mặc dù, bệnh nhân với nồng độ βhCG > 15000 IU/L, có tim thai đã được điều trị thành công với methotrexate, những bệnh nhân này đòi hỏi được theo dõi chặt chẽ hơn nhiều và chịu nguy cơ cao của hậu quả can thiệp phẫu thuật.Có một sự kết hợp trái ngược giữa nồng độ βhCG và điều trị thành công thai ngoài tử cung bằng phương pháp nội khoa. Bài báo cáo hồi cứu của Menon và cộng sự, bao gồm 503 bệnh nhân cho rằng có sự gia tăng việc thất bại điều trị nội khoa thai ngoài tử cung với liều đơn methotrexate khi nồng độ βhCG là 5000 IU/L.
Những chống chỉ định khi dùng methotrexate bao gồm : nhạy cảm với methotrexate, cho con bú, suy giảm miễn dịch, nghiện rượu, bệnh gan do rượu hoặc bất kỳ bệnh gan khác, rối loạn tạo máu, giảm bạch cầu, giảm tiểu cầu, thiếu máu, bệnh phổi tiến triển, bệnh loét dạ dày tá tràng, rối loạn thận gan hoặc rối loạn huyết học. Trong mỗi trường hợp, nguy cơ phẫu thuật  phải được cân nhắc so với chống chỉ định tương đối.
Một số tiêu chuẩn đối với dùng methotrexate trong điều trị thai ngoài tử cung : ban đầu dùng methotrexate đa liều với leucovorin để giảm đi những tác dụng phụ. Leucovorin là axid folenic, đó là sản phầm cuối cùng của phản ứng được xúc tác bởi sự biến đổi dihydrofolate, cùng một enzyme được ức chế bởi methotrexate. Những tế bào phân chia bình thường dễ hấp thụ leucovorin, vậy thì nó làm giảm tác dụng của methotrexate, bởi vậy nó làm giảm tác dụng phụ toàn thân của methotrexate. Cơ chế này liên quan đến dùng methotrexate 1 mg/kg tĩnh mạch vào ngày 0, 2, 4, 6 kèm theo 4 liều leucovorin 0,1 mg/kg vào ngày 1, 3, 5 và 7. Bởi tỷ lệ tác dụng phụ cao hơn và đòi hỏi ở bệnh nhân nhiều nhu cầu, nên chế độ đa liều methotrexate không còn dùng ở Mỹ nữa.
Chế độ phổ biến hơn ngày nay là dùng liều đơn, liều methotrexate 50 mg/m2 tiêm bắp 1 lần hoặc chia 2 để tiêm bắp 2 mông. So sánh điều trị dùng methotresate đơn liều với đa liều thì kết quả như nhau. Với liều đơn này thì liều dùng điều trị nhỏ hơn và số lần tiêm ít hơn, tác dụng phụ ít hơn và không cần dùng kết hợp leucovorin nữa.
Đầu tiên là tiêm methotrexate , bệnh nhân phải được tư vấn kỹ về các nguy cơ, hiệu quả, tác dụng phụ và có khả năng thất bại trong điều trị, có thể vỡ vòi trứng cần phải phẫu thuật. Những bệnh nhân cần cảnh giác những dấu chứng và triệu chứng liên quan đến vỡ vòi trứng và khuyên bênh nhân gặp bác sĩ ngay khi có cơn đau bụng đáng kể hoặc bụng có phản ứng, chảy máu âm đạo nhiều, chóng mặt, nhịp tim nhanh, đánh trống ngực hoặc ngất.
Hầu hết bệnh nhân đau bụng gia tăng thường xảy ra 2, 3 ngày sau khi tiêm thuốc. Đau bụng là do phần thai tách khỏi vị trí bám. Điều đó khác với thai ngoài tử cung vỡ thì đau nhẹ hơn, đau bụng trong một khoảng thời gian kéo dài từ 24 đến 48 giờ kèm với huyết động ổn định. Khi điều trị bằng methotrexate, bệnh nhân nên tránh dùng thức uống bằng cồn, những chất vitamin có chứa acid folic, những thuốc kháng viêm không steroid, và không giao hợp. Cái chính là bệnh nhân phải chấp nhận điều trị. Cấp cho bệnh nhân 1 tờ giấy ghi đầy đủ thông tin liên quan đến điều trị methotrexate. Tờ giấy này ghi rõ những tác dụng phụ của điều trị nội, lịch đến tái khám theo dõi, hoặc nhập viện khi cấp cứu.
Trước khi bắt đầu điều trị, lấy máu để xác định chức năng của thận, gan, tủy xương cũng như nồng độ βhCG cơ bản. Xác định nhóm máu, yếu tố Rh và hiện diện của kháng thể. Những bệnh nhân có Rh âm tính nên nhận globulin miễn dịch Rh. Đánh giá βhCG lập lại sau 4 ngày, 7 ngày sau khi tiêm methotrexate. βhCG lúc đầu gia tăng thường là vào ngày thứ 3 nhưng không báo hiệu nguy hiểm. Giảm nồng độ  βhCG ít nhất 15% từ ngày 4 đến 7 sau khi tiêm, đó là sự đáp ứng điều trị nội thành công. βhCG nên được đánh giá hàng tuần cho đến khi trở về âm tính.
Thất bại điều trị nội được xác định khi nồng độ βhCG tăng hoặc chỉ giảm đến mức 15% từ 4 đến 7 ngày sau tiêm. Lúc này nên can thiệp phẫu thuật.
Một liều đơn methotrexate lặp lại sau khi đánh giá lại những chỉ định và chống chỉ định (gồm siêu âm lặp lại). Điều trị methotrexate là một phương pháp lý tưởng khi có thai định vị ở cổ tử cung, buồng trứng hoặc ở đoạn kẽ hoặc ở sừng tử cung. Điều trị phẫu thuật ở những trường hợp này khi có nguy cơ xuất huyết tăng và kết quả là thường đưa đến cắt tử cung hoặc cắt bỏ buồng trứng.
Điều trị nội khoa bằng methotrexate thành công với kết quả là có thai trở lại tốt bởi do là giảm nguy cơ do phẫu thuật gây tổn thương vòi trứng.
Cách điều trị methotrexate bằng đường uống đang được nghiên cứu và những báo cáo sơ bộ cho thấy có những kết quả mong đợi. Tiêm trực tiếp methotrexate ở vị trí khu trú ( tiêm vào vòi trứng) đối với thai ngoài tử cung dưới sự chỉ dẫn của siêu âm hoặc nội soi cũng đã được báo cáo. Tuy nhiên, những báo cáo từ những nghiên cứu này đưa đến những kết quả tương phản nhau. Những thuận lợi từ tiêm bắp vẫn có ý nghĩa điều trị tốt hơn.
Điều trị nội khoa thai ngoài tử cung đòi hỏi sự chấp nhận của bệnh nhân, thầy thuốc cần phải nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tái khám, theo dõi định kỳ, có những thông tin đầy đủ của bệnh nhân gồm địa chỉ, số điện thoại ở nhà và ở cơ quan. Cần thu thập những thông tin của bệnh nhân từ điện thoại hoặc thư điện tử, bởi vì đó là những bằng chứng y học hợp pháp.

Hội chứng buồng trứng đa nang

Hội chứng buồng trứng đa nang

     Khái niệm: Hội chứng buồng trứng đa nang - HCBTĐN (PCOS-Pcoly Cystic Ovary Syndrome) là bệnh gây ra do tình trạng rối loạn nội tiết và là một trong những nguyên nhân thường gặp gây vô sinh do không rụng trứng hay rối loạn phóng noãn. HCBTĐN cho hình ảnh siêu âm buồng trứng có nhiều nang nhỏ, không phát triển được, dẫn đến vô sinh.
Hội chứng buồng trứng đa nang chiếm tỷ lệ khoảng 16-22% số phụ nữ nói chung, có nghĩa là cứ 5 người thì có 1 có dấu hiệu của căn bệnh này.

Những dấu hiệu của bệnh:
    - Béo phì (30-50% phụ nữ BTĐN bị béo phì) Người ta nhận thấy rằng cân nặng đóng vai trò rất quan trọng trong thúc đẩy các triệu chứng BTĐN. Kiểm soát cân nặng có thể giúp cải thiện tiên lượng của Hội chứng BTĐN.

    - Mụn trứng cá

    - Rậm lông (lông phát triển giống như nam giới - mọc ria mép, lông mày rậm, lông chân, lông bụng nhiều).

    - Rối loạn kinh nguyệt (thường là thưa và kéo dài, máu kinh thất thường, ít). Những phụ nữ có chu kỳ kinh dưới 25 ngày hoặc trên 35 ngày sẽ có nhiều nguy cơ không phóng noãn; khoảng 3/4 trường hợp không phóng noãn liên quan đến hội chứng buồng trứng đa nang. Sau 2-3 năm kể từ lần hành kinh đầu tiên, nếu kinh nguyệt vẫn không đều, cần nghĩ nhiều đến hội chứng này.
 Ảnh hưởng của HCBTĐN đến việc có thai

    - 17% trường hợp vẫn có thể có thai tự nhiên (dù không điều trị gì)

    - Số còn lại phải có sự can thiệp của các biện pháp hỗ trợ sinh sản (IUI, IVF,…)
Bệnh được phát hiện càng muộn, việc điều trị càng khó khăn và ít hiệu quả.
 Phương pháp điều trị:

    Đây là một nguyên nhân phổ biến nhất của vô sinh do không rụng trứng và là một hội chứng phức tạp, cơ chế bệnh sinh và nguyên nhân chưa được hiểu rõ nên đến nay vẫn chưa có một phương pháp điều trị tối ưu.
   
    Những phụ nữ từng mắc hội chứng BTĐN rất dễ bị sẩy thai. Vì vậy, khi đã có thai, họ cần được hỗ trợ bằng nội tiết tố nhau thai và theo dõi của bác sĩ.

Một số yếu tố có khả năng ảnh hưởng đến quá trình sinh tinh trùng

Một số yếu tố có khả năng ảnh hưởng đến quá trình sinh tinh trùng

     1. Rượu: Nghiện rượu nặng có thể làm giảm cả số lượng và chất lượng tinh trùng. Các nhà khoa học thuộc Trung tâm Sinh sản Aberdeen (Scotland) sau khi nghiên cứu trên 16.000 mẫu tinh dịch của 7.500 đàn ông trong vòng 13 năm, đã đưa ra cảnh báo chính thức về tác hại rõ rệt của rượu và thuốc lá lên chất lượng tinh trùng. Do đó, hãy hạn chế rượu ở mức cho phép. Ví dụ: Với bia là khoảng 330ml thì chấp nhận được (tương đương 1 lon), rượu vang: 125ml, rượu mạnh (gin, vodka, whiskey) 40ml...
2. Thuốc lá
Khói thuốc lá chứa rất nhiều chất độc gồm có: nicotin, CO2, các chất thơm thuộc nhóm benzen...có khả năng làm giảm số lượng và độ di động của tinh trùng. Nicotin trong khói thuốc gây hại không chỉ với nam giới mà cả ở nữ giới việc tiếp xúc với nicotin có thể gây co thắt ống dẫn trứng làm tăng nguy cơ chửa ngoài tử cung.
Thử nghiệm trên động vật cho thấy nicotin và các chất thơm gốc benzen có thể làm tinh trùng dị dạng hay teo tinh hoàn. Ở người, thuốc lá có thể gây ra các bất thường di truyền tinh trùng và ảnh hưởng lên các cháu bé sinh ra.
3. Căng thẳng về thể chất và tinh thần
Hầu hết những căng thẳng về thể chất và tinh thần quá mức đều có thể làm giảm số lượng tinh trùng: stress về tình cảm, làm việc vất vả hay chơi thể thao quá sức.
4. Mặc quần áo bó sát người
Mặc quần Jean, quần lót quá chật hoặc quần lót bằng chất liệu nylon có thể ảnh hưởng đến quá trình phát triển cơ quan sinh dục do gây ra sự tăng nhiệt độ ở da bìu và gây những chấn thương do đè ép. Tình trạng tăng nhiệt độ tương tự cũng diễn ra ở những người phải ngồi nhiều một chỗ như tài xế, phi công, nhân viên văn phòng…Ngoài ra, những người làm việc trong các ngành nghề phải thường xuyên tiếp xúc với nhiệt độ cao thường có chất lượng tinh trùng suy giảm như: thợ rèn, thợ hàn, thợ luyện kim, đầu bếp...
5. Bức xạ, sóng điện thoại di động
Theo kết quả nghiên cứu khoa học mới nhất của các chuyên gia Hungari, sóng điện thoại di động có thể hủy hoại tinh trùng của nam giới. Người cho ĐTDĐ vào túi quần và đeo ở thắt lưng thường xuyên sẽ bị giảm chất lượng tinh trùng.
Sử dụng máy tính xách tay đặt lên đùi cũng làm giảm chất lượng tinh trùng. Nguyên nhân có thể do nhiệt độ cao và từ trường do máy phát ra ảnh hưởng đến hiện tượng sinh tinh.
Các tế bào sinh tinh trùng rất nhạy cảm với vùng phóng xạ. Xạ trị, tia X, các dạng phóng xạ khác ảnh hưởng nhiều đến quá trình sản xuất tinh trùng.
6. Tắm nước nóng
Nếu đi tắm hơi, nhiệt độ trong phòng tắm lên tới 70- 80oC, so với phòng tắm bình thường nhiệt độ cao hơn 2 lần. Đó là điều hết sức bất lợi cho tinh trùng. Các chuyên gia cảnh báo, dù tắm nóng hay tắm hơi, nhiệt độ khoảng 34 độ C là thích hợp nhất.
7. Đi xe đạp
Khi đi xe đạp, nhất là xe đạp thể thao tinh hoàn bị đè vào giữa yên xe và vùng đáy chậu gây nên tình trạng chèn ép, thiếu máu nuôi. Ngoài ra, tinh hoàn thường xuyên bị sức nén và cọ sát nên thường xuyên bị sung huyết, nhiệt độ vùng bìu cũng ở mức cao.
8. Các loại thuốc
Tiền căn dùng thuốc: Một số thuốc chữa bệnh có thể gây tổn hại tạm thời hay vĩnh viễn quá trình sinh tinh như hóa trị ung thư, hóc-môn, cimetidin, sulphasalazine, spironolactone, các thuốc huyết áp
9. Hóa chất,  thuốc trừ sâu và kim loại nặng
Một số chất ô nhiễm được ghi nhận có ảnh hưởng rõ rệt lên chất lượng tinh trùng bao gồm: Các gốc oxy tự do, các hóa chất diệt côn trùng, diệt cỏ (DDT, aldrin, dieldrin, PCPs, dioxin, furan...), một số hydrocarbon (ethylbenzene, benzene, toluen, xylen...), một số chất bảo quản, hóa chất có trong vật liệu xây dựng, nội thất... Ngoài ra, tiếp xúc trong thời gian dài với kim loại nặng như chì, cadmium, arsenic làm giảm số lượng tinh trùng.

Thiếu canxi gây suy giảm sức khỏe bà bầu

Thiếu canxi gây suy giảm sức khỏe bà bầu

     Chế độ ăn uống không hợp lý, thiếu vi dưỡng chất quan trọng như canxi, a xít folic và chất sắt là một trong những nguyên nhân làm suy giảm sức khỏe của bà mẹ.
   Điều này khiến thai khi không phát triển toàn vẹn hệ xương, gây khuyết tật ống thần kinh thậm chí hiện tượng sinh non, thai chết lưu… Can-xi ngoài tác dụng tăng cường dưỡng chất cần thiết cho sự phát triển của khung xương, lợi cho hệ thần kinh còn giúp ngăn ngừa hiện tượng tắc nghẽn mạch máu.
   Bên cạnh đó, vi chất sắt cũng là thành tố quan trọng tham gia vào quá trình tạo máu. Đây là thành phần của huyết sắc tố (có trong hồng cầu) và nhiều men khác trong cơ thể. Sắt tham gia vận chuyển oxy cùng chất dinh dưỡng tới tất cả tế bào của mọi cơ quan, bộ phận. Khi mang thai, các bà mẹ cần được bổ sung chất sắt để nuôi dưỡng thai nhi và rau thai, ngăn ngừa và loại bỏ nguy cơ sinh non và tử vong khi sinh do thiếu sắt.
Cùng với 2 dưỡng chất trên, axit folic cũng được coi là một trong những vi chất quan trọng trong quá trình cấu tạo và phát triển hệ thần kinh của thai nhi. Trong thời kỳ mang thai, nhu cầu axit folic của thai phụ có thể tăng tới 800 mcg một ngày.
   Để chuẩn bị cho việc mang thai, bạn cần nuôi dưỡng sức khỏe. Khi bắt đầu mang thai, thai phụ cần những dưỡng chất phù hợp như các vitamin và ba vi dưỡng chất quan trọng: can-xi, chất sắt, axit folic. Điều này giúp ngăn ngừa những rủi ro cho sức khỏe bà mẹ, hỗ trợ thai nhi phát triển toàn diện.
   Từ những tháng đầu trong thai kỳ, bà mẹ cần ăn, uống các chất giàu dinh dưỡng và dễ tiêu hóa, kiêng chất kích thích, thuốc lá, rượu hay ăn uống thiên lệch. Theo các bác sĩ sản khoa và chuyên gia dinh dưỡng, thai phụ nên chú trọng bổ sung dưỡng chất thông qua việc uống sữa dành riêng cho bà mẹ mang thai hàng ngày. Sau khi thụ thai, sự sinh trưởng phát triển của thai nhi nhờ vào tinh huyết từ tạng phủ của người mẹ để nuôi dưỡng nên công năng khí huyết của tạng phủ người mẹ ảnh hưởng trực tiếp tới sự sinh trưởng, phát triển của thai nhi.

Bảo Vệ Sinh dục Nữ

Sức khỏe và vệ sinh sinh dục nữ
Thời gian 01/07/2011 06:11 Tác giả levi Duyệt 1615
Print Pdf Email RSS

Âm đạo
là một môi trường phức tạp của các vi khuẩn lành mạnh, nhiệt độ và độ ẩm. Khi một trong các yếu tố trên thay đổi, cân bằng tự nhiên của cơ thể bị ảnh hưởng và sự viêm nhiễm đường sinh dục có thể xảy ra. Điều này có thể liên quan đến hoạt động tình dục nhưng cũng do nhiều các nguyên nhân khác ...





Âm đạo là một môi trường phức tạp của các vi khuẩn lành mạnh, nhiệt độ và độ ẩm. Khi một trong các yếu tố trên thay đổi, cân bằng tự nhiên của cơ thể bị ảnh hưởng và sự viêm nhiễm đường sinh dục có thể xảy ra. Điều này có thể liên quan đến hoạt động tình dục nhưng cũng do nhiều các nguyên nhân khác. Vệ sinh hằng ngày thực sự quan trọng trong phòng ngừa các bệnh viêm nhiễm, nên nhớ không được rửa âm hộ quá nhiều vì điều này có thể làm mất đi các vi khuẩn có lợi ở vùng này.
Một số người có cơ địa dễ bị viêm nhiễm hơn những người khác. Viêm nhiễm do vi khuẩn là dạng thường gặp và thông thường dễ điều trị, nếu không điều trị sẽ dẫn đến tình trạng bệnh nghiêm trọng, đặc biệt nếu bạn đang mang thai. Vì vậy cần hiểu rõ và chăm sóc tốt cho cơ thể của mình.
1.      Viêm nhiễm do nấm do sự phát triển quá mức của một loại nấm có tên là candida - đây là loại nấm sinh sống tự nhiên trên cơ thể chúng ta. Triệu chứng bao gồm sự ngứa rát âm hộ (phía ngoài âm đạo), và tiết dịch âm đạo không mùi, vón cục. Không phải tất cả phụ nữ đều có triệu chứng chính xác như vậy, vì vậy khi nghi ngờ: hãy hỏi bác sĩ.
Nên mặc quần lót “có thể thở được” (100% cotton) và sử dụng xà phòng có chất tẩy nhẹ (tránh các loại xà phòng có nước hoa và có màu, chúng có thể làm rát âm đạo) để rửa bên ngoài âm đạo. Không cần thiết rửa bên trong âm đạo vì chất thụt rửa có thể làm tăng nguy cơ viêm nhiễm. Thuốc kháng sinh có thể tạo ra sự mất cân bằng trong môi trường âm đạo của người phụ nữ. Phụ nữ mang thai rất dễ bị viêm nhiễm do nấm.
Bạn có thể chữa trị viêm nhiễm do nấm với kem thoa hoặc thuốc viên theo đơn thuốc. Tuy nhiên, sẽ tốt hơn nếu bạn đi khám bác sĩ trước. Nếu bạn có sinh hoạt tình dục, không nên sinh hoạt tình dục cho đến khi viêm nhiễm được chữa khỏi hoàn toàn, vì bạn tình của bạn có thể mắc phải viêm nhiễm và lây nhiễm lại cho bạn. Viêm nhiễm do nấm là rất thông thường nhưng không thường lây qua đường tình dục.
2.     Nhiễm khuẩn âm đạo do sự phát triển quá mức của vi khuẩn sống tự nhiên trong âm đạo. Nhiễm khuẩn âm đạo có thể gây tiết dịch âm đạo màu xám có mùi tanh. Nguy cơ nhiễm khuẩn âm đạo tăng khi: thụt rửa, hút thuốc, hoặc nhiều yếu tố khác (phụ nữ có thể bị nhiễm khuẩn âm đạo mặc dù không có tiếp xúc tình dục). Nhiễm khuẩn âm đạo được chữa khỏi bằng thuốc kháng sinh, dạng viên hoặc dạng gel. Nếu bạn có hoạt động tình dục, không quan hệ tình dục cho đến khi sự viêm nhiễm được chữa khỏi hoàn toàn và bạn phải hoàn tất chương trình điều trị của bạn.
3.      Nhiễm trùng đường tiểu là một tình trạng phổ biến gây ra bởi vi khuẩn trong niệu đạo (nơi nước tiểu thải ra khỏi cơ thể), và đặc trưng bởi triệu chứng thường xuyên mắc tiểu và nóng rát khi đi tiểu. Phụ nữ có nguy cơ bị nhiễm trùng đường tiểu cao hơn các đối tượng khác, và trong 5 phụ nữ thì có 1 người bị nhiễm.
Để tốt cho sức khỏe nên đi tiểu trước và sau khi giao hợp, dòng chảy của nước tiểu có thể giúp làm sạch các vi khuẩn có thể đã tích tụ lại trong niệu đạo.
Sau khi đi vệ sinh, bạn lau từ trước ra sau (lau sạch từ niệu đạo) để tránh mang vi khuẩn từ hậu môn về phía niệu đạo.
Nhiễm trùng đường tiểu có thể chữa trị bằng kháng sinh. Uống nước nhiều cũng giúp trong việc chữa trị. Tình trạng tái phát là phổ biến. Nếu không điều trị, nhiễm trùng đường tiểu sẽ chuyển sang tình trạng nặng hơn nếu nó lây sang bàng quang và thận, vì vậy cần phải điều trị ngay!
Hằng ngày
·         Mặc quần lót vải cotton và mặc quần áo khô. Không mặc quần áo quá chật và đừng bao giờ chia sẻ quần lót hoặc đồ tắm với người khác.
·         Thay đồ tắm hoặc đồ tập thể dục ra càng sớm càng tốt.
·         Rửa bên ngoài âm đạo bằng xà phòng có chất tẩy nhẹ.
·         Không sử dụng chất thụt rửa
* Chất thụt rửa là bất cứ loại chất lỏng nào người phụ nữ sử dụng để xịt thẳng vào bên trong âm đạo để “làm sạch” bên trong. Thật ra, thụt rửa như vậy là không tốt vì nó làm mất đi sự cân bằng mong manh của các vi khuẩn lành mạnh sống bên trong âm đạo và có thể đẩy các vi khuẩn có hại vào sâu bên trong cơ thể của người phụ nữ. Chất thụt rửa cũng có thể làm khô và kích thích sự nhạy cảm của thành âm đạo, làm tăng nguy cơ trầy xước (vết cắt và vết trầy xước) và viêm nhiễm. Ngoài ra, thụt rửa hậu môn được khuyến cáo không nên sử dụng cho phụ nữ hoặc nam giới.
·      Tránh sử dụng thuốc xịt vệ sinh, thuốc đạn, băng vệ sinh/tăm bông có mùi thơm hoặc có màu, xà bông tắm tạo bọt hoặc giấy toilet có chứa nước hoa.
·         Ăn một chế độ ăn cân bằng và tránh ăn đường quá nhiều để có sức khỏe tốt nhất và sự dễ chịu âm đạo.
·       Kiêng sinh hoạt tình dục cho đến khi viêm nhiễm được chữa khỏi hoàn toàn để tránh lây nhiễm lại cho chính mình.
Hãy nhớ …
Tiết dịch bất thường, ngứa rát, đau nhức và mùi hôi ở âm đạo có thể do một số nguyên nhân như nhiễm lậu, Chlamydia, Trichomoniasis, nhiễm khuẩn, nhiễm nấm, nhiễm trùng âm đạo và các nhiễm trùng khác. Vì vậy điều quan trọng là phải được kiểm tra bởi bác sĩ để đảm bảo có một phác đồ điều trị đúng.
Âm đạo tự làm sạch và bôi trơn hằng ngày bằng cách tiết ra một lượng nhỏ chất dịch gọi là huyết trắng sinh lý. Chất dịch này giữ cho âm đạo khỏe mạnh và sạch sẽ.
Huyết trắng sinh lý có màu trong suốt hoặc màu hơi trắng và có mùi thơm nhẹ. Nếu huyết trắng của bạn bị đổi màu hoặc có mùi khác thường, điều này cho biết đang có tình trạng viêm nhiễm. Khi nghi ngờ bạn nên đi khám bác sĩ để được điều trị thích hợp.

Nhiễm HIV ở Các Nước Đang Phát triển

Ở nước đang phát triển, nữ hành nghề mại dâm có khả năng nhiễm HIV gấp 14 lần

  



Nữ hành nghề mại dâm trong các nước có thu nhập thấp và trung bình có khả năng nhiễm HIV gấp 14 lần so với dân số ở các nước còn lại, theo một phân tích bởi các nhà nghiên cứu tại Trường Y tế Công cộng Johns Hopkins Bloomberg. Phát hiện này gợi ý một nhu cầu bức thiết cần tăng cường chất lượng tiếp cận với các chương trình phòng ngừa HIV có chất lượng tại các quốc gia này. Nghiên cứu này được đăng tải trên tạp chí The Lancet Infectious Diseases.







 


Chủ nhiệm nhóm nghiên cứu đã phát biều “Dù ta đã biết từ lâu là nữ hành nghề mại dâm là nhóm dân số bị ảnh hưởng chính, tuy nhiên phạm vi và mức độ nguy cơ nhiễm HIV của nhóm này vẫn chưa được minh chứng rõ ràng. Do đó bên cạnh áp dụng liệu pháp điều trị kháng vi rút.và các chương trình phòng ngừa hiện tại cho các đối tượng hành nghề mại dâm, cần xem xét đến các chính sách và luật pháp dành cho mại dâm, cũng như vai trò rất quan trọng của việc đối xử phân biệt, kì thị và xâm hại nhóm nữ mại dâm một cách toàn cầu để giảm thiểu gánh nặng bệnh tật quá lớn trên những phụ nữ này.”
 
Trong nghiên cứu này, Johns Hopkins đã tiến hành một phân tích gộp  (meta-analysis) trên 102 nghiên cứu được công bố trước đây đại diện cho gần 100.000 nữ mại dâm trong 50 quốc gia. Tý lệ hiện mắc HIV ở nữ mại dâm tại các nước có thu nhập thấp và trung bình ở khoảng 12%, tương ứng với gia tăng tỷ lệ nhiễm 14 lần so với nữ mại dâm ở các nước còn lại. Trong 26 nước có mức độ nền HIV được xếp loại là trung bình và cao, gần 31% nữ mại dâm được phát hiện nhiễm HIV và tỷ lệ này gấp 12 lần so với dân số chung. Nữ mại dâm ở châu Á tăng 29% tỷ lệ nhiễm so với các vùng khác, đây là sự khác biệt lớn nhất trong các nghiên cứu trên phạm vi khu vực. Nữ mại dâm ở châu Phi và Mỹ Latinh tăng 12% tỷ lệ nhiễm so với những phụ nữ khác trong những vùng này.
 
Phân tích này tiến hành trong một dự án lớn mang tên "Dịch HIV toàn cầu ở nhóm nữ mại dâm: Dịch tễ học, phòng ngừa, tiếp cận chăm sóc, chi phí và quyền con người" chỉ đạo bởi các nhà nghiên cứu của Trường Y tế Công cộng Johns Hopkins. Một dự án lớn hơn đang đánh giá không chỉ về dịch tễ học nhiễm HIV ở nữ mại dâm trong các nước có thu nhập thấp và trung bình mà còn đưa ra tình trạng các can thiệp phòng ngừa và hoàn cảnh xã hội chung quanh nghề mại dâm trong những điều kiện khác nhau và sử dụng các mô hình toán học và phân tích chi phi-hiệu quả để đánh giá các tác động tiềm tàng và các nuồn lực cần thiết để tăng cường hiểu biết về phòng ngừa, điều trị và các dịch vụ chăm sóc cho người hành nghề mại dâm.

Nghiên cứu được tài trợ bởi Ngân hàng Thế giới và Quỹ Dân số Liên hiệp quốc.
Liên hệ tác giả: Tim Parsons, vietphapclinic@yahoo.com

Bệnh nan y của ngành y

Bệnh nan y của ngành y
Ngày gửi: Thứ tư, 20:34, 28/3/2012
Một tờ báo đã so sánh số người tử vong vì lao “bằng tai nạn giao thông và HIV/AIDS cộng lại”. Trong khi đó, nếu không có một chính sách đúng và kịp thời, bác sĩ lao ở Việt Nam, nói không ngoa - chẳng mấy mà “tiệt chủng”.

Y học cổ truyền liệt lao, cùng với phong, cổ (cổ trướng), lại (ung thư) là "tứ chứng nan y". Nhưng dù là bệnh gây tử vong hàng đầu trong các bệnh truyền nhiễm, bệnh lao đã có thuốc chữa trị từ lâu và bệnh này có thể chữa khỏi hẳn...
Ấy vậy mà ngày 26.3, khi Bộ trưởng Bộ Y tế đăng đàn trả lời chất vấn, một con số kinh hoàng liên quan đến căn bệnh này đã được đưa ra: 30.000 người chết mỗi năm. Bình quân 82 người chết mỗi ngày. 
Ở Việt Nam, theo điều tra dịch tễ từ cách đây 5 năm, tỷ lệ người mắc lao phổi dương tính cao gấp 1,6 lần so với ước tính 90/100.000 dân của Tổ chức Y tế thế giới. Việt Nam cũng có tên trong cả 2 danh sách các nước có gánh nặng bệnh lao và gánh nặng lao đa kháng thuốc. Ấy vậy mà Bộ trưởng Bộ Y tế chỉ duy nhất một lần nhắc đến chữ "lao". Nhưng đó là lời kêu khó về tình trạng khan hiếm nhân lực điều trị bệnh lao, mà không giải thích nguyên nhân.
Còn nhớ năm ngoái, PGS-TS Đinh Ngọc Sỹ - Chủ nhiệm Chương trình Phòng chống lao quốc gia chua chát nói: "Cán bộ làm công tác chống lao đang "già đi" do không có người thay thế trong khi bệnh lao lại đang "trẻ lại". Tỷ lệ bác sĩ lao chỉ 1,58/100.000 dân, có lẽ còn ít hơn cả tỷ lệ bác sĩ pháp y. Và sự thiếu hụt này được ông Sỹ đánh giá "chính là nguyên nhân sâu xa của việc chỉ có khoảng một nửa số bệnh nhân lao ở Việt Nam được phát hiện".
Sự khan hiếm nhân lực trong ngành lao thực ra đã được kêu ca từ gần chục năm trước. Nhưng trong từng đó năm, ngành y tế đã làm gì, ngoài chuyện kêu ca? Tại nghị trường, Bộ trưởng Bộ Y tế mười mấy lần nhắc đến hai chữ "kinh phí", đã liệt kê ra vô số những nhóm giải pháp với giải pháp. Nhưng quanh đi quẩn lại toàn chỉ thấy chuyện cần "tiền" - hoặc trực tiếp từ các khoản thu "bổ đầu bệnh nhân" (viện phí), hoặc gián tiếp qua ngân sách - thực ra cũng là thuế do người dân đóng góp.
Theo Bộ Y tế, riêng chuyên khoa lao, chỉ có 1,5 bác sĩ/100.000 dân, với một số lượng "đếm trên đầu ngón tay", trong tình trạng "cứ 10 người dân có 4 người nhiễm lao". Nếu không có một chính sách đúng, và kịp thời, bác sĩ lao ở Việt Nam, nói không ngoa- chẳng mấy mà “tiệt chủng”. Khi đó, những từ ngữ như "quốc nạn" hay "sóng thần" cũng không đủ để mô tả thảm họa do căn bệnh- 4 thập kỷ qua đã không còn là một trong "tứ chứng nan y"- gây ra.