Thứ Hai, 2 tháng 3, 2015

Sử dụng Estrogen trong phụ khoa

Nhận định chung
Sử dụng hormon trong phụ khoa cũng như sử dụng hormon trong các chuyên ngành khác, nhằm thay thế các honnon đang bị thiếu, kích thích các tuyến nội tiết khi cần chúng hoạt động tốt hơn hoặc ức chế các tuyến nội tiết khi cần làm giảm hoặc ngừng hoạt động của chúng. Thí dụ, dùng hormon hướng sinh dục để kích thích phóng noãn là nhằm thay thế tuyến yên đồng thời kích thích buồng trứng. Dùng vòng kinh nhân tạo là thay thế buồng trứng đồng thời kích thích tử cung và niêm mạc tử cung. Dùng progesteron trong điều trị rong kinh do quá sản niêm mạc tử cung vừa nhằm kích thích vừa nhằm ức chế niêm mạc tử cung phát triển tùy từng trường hợp.
Estrogen có tác dụng
Làm phát triển cơ từ cung bằng cách làm tăng phát triển số lượng, độ dài và độ lớn cùa các sợi cơ. Sử dụng điều trị trong tử cung kém phát triển.
Làm cơ tử cung tăng nhạy cảm với oxytocin khiến tử cung dẻ co bóp. ứng dụng diéu trị trong kích thích cơn co tử cung gây sẩy thai chết lưu.
Làm phát triển niêm mạc tử cung qua việc làm tăng phân bào niêm mạc tử cung, áp dụng điều trị trong việc gây vòng kinh nhân tạo hoặc gây tái tạo nhanh niêm mạc tử cung.
Kích thích các tuyến cổ tử cung chế tiết nhiều chất nhầy, làm cho chất nhầy trong và loãng, áp dụng trong điều trị vô sinh, giúp tinh trùng dễ thâm nhập lên đường sinh dục trên của người phụ nữ.
Làm phát triển biểu mô âm đạo, giúp các tế bào hiểu mô âm đạo chứa glycogen và tạo điều kiện dế các trực khuẩn Dolerlein biến glycogcn này thành acid lactic. Sử dụng điều trị trong các trường hợp teo âm đạo hoặc viêm âm dạo do thiếu estrogen.
Làm phát triển các môi lớn và môi nhỏ của âm hộ. Ứng dụng điều trị trong các trường hợp viêm teo ngứa âm hộ do thiếu estrogen ở người già hay người đã cắt bỏ hai buồng trứng.
Làm phát triển các tuyến sữa của vú. Sử dụng điều trị đối với những trường hợp vú kém phát triển do thiếu estrogen bẩm sinh (thí dụ hội chứng Tumer).
Làm tăng giữ nước và Na ở tế bào gây phù.
Giúp giữ can xi ở xương trong quá trình tạo xương, chống loãng xương. Sử dụng trong đề phòng và điều trị loãng xương ở người già và người đã được cắt bỏ hai buồng trứng.
Cùng với anđrogen tạo nên dục tính (libido).
Trong thị trường dược có thể gặp các estrogen tự nhiên như estradiol thường dưới dạng estradiol benzoat như Bert7.ogynocstryl, estron, estriol tan trong dầu, hoặc estrogcn phức hợp như Premarin, tan trong nước. Nhiều khi người ta sử dụng estrogen bán tổng hợp như ethinylestradiol mà biệt dược hay gặp ở Việt Nam là Mikrotollin. Loại estrogen có nhân stilben như diethylstilboestrol mà biệt dươc quen biết là Oestrasid hiện không còn được ưa dùng trong phụ khoa nữa.
Điều trị đối với âm hộ, âm đạo
Estrogen chữa viêm ngứa âm hộ, âm đạo do thiểu dưỡng ở người già hay người đã bị cắt bỏ 2 buồng trứng. Người già nên uống Ovestin (trong chứa estriol) 0,25mg mỗi ngày 2- 4 viên trong 15 ngày hoặc dùng thuốc mỡ Trophicreme trong chứa estriol với hàm lượng 100mg trong 30g chất mỡ bôi âm hộ mỗi ngày 1 lần, sau khi các triệu chứng đã giảm thì cách ngày bôi một lần. Có thể dùng thuốc mỡ Colpotrophine trong chứa promestriène với tỷ lệ 1%, cách bôi cũng như trên vào âm hộ và bơm vào âm đạo mỗi ngày 1g thuốc mỡ.
Estriol không có tác dụng lên niêm mạc tử cung nên không sợ gây ung thư niêm mạc tử cung. Promestriene chỉ có tác dụng estrogen tại chỗ, không có tác dụng xa, không gây ảnh hưởng lên niêm mạc tử cung, vú và tuyến yên. Cả hai thứ này đều sử dụng an toàn đối với người có tuổi.
Đối với những phụ nữ trẻ tuổi bị cắt bỏ hai buồng trứng nếu không có nhu cầu hành kinh thì có thể điều trị theo phương án như người cao tuổi. Nếu có nhu cầu hành kinh thì có thể dùng vòng kinh nhân tạo, cũng có tác dụng điều trị tại chỗ đối với âm hộ. Nhưng phải thường xuyên theo dõi ảnh hưởng xấu đối vói vú và niêm mạc tử cung.
Đối với tất cả các lứa tuổi có thể kết hợp điều trị viêm âm đạo và viêm âm hộ do thiếu estrogen bằng cách đặt thuốc âm đạo và bôi thuốc âm hộ. Thuốc đặt âm đạo có thể là các viên trứng Trophigil với hàm lượng estriol 0,2mg trong mỗi viên, mỗi ngày đặt hai lần, sáng và tối, mỗi lần 1 viên, kéo dài 2 - 3 tuần. Có thể dùng viên trứng Physiogine trong chứa 0,5mg estriol hoặc viên Colpotrophine trong chứa promestriene 10mg.
Cách sử dụng và thời gian đặt đều giống nhau.
Đối với cổ tử cung
Estrogen làm tăng tiết chất nhầy ở cổ tử cung, có thể sử dụng trong điều trị vô sinh nữ, đặc biệt trong trường hợp dùng clomilen cilral bị giảm tiết chất nhầy. Có thể dùng Mikrofollin (ethinyl-estradiol) 0,05mg 1 - 2 viên/ngày trong 4 - 5 ngày, bắt đầu từ ngày thứ 10 - 11 của vòng kinh. Không nên dùng sứm hơn, sợ ức chế phóng noãn. Cũng không nên kéo dài hơn, sợ ảnh hưởng đến sự làm tổ của trứng. Có thể dùng Premarin (estrogen phức hợp) 1,25mg, mỗi ngày 1 - 2 viên từ ngày thứ 6 đến ngày thứ 14 của vòng kinh. Có thể dùng
Ovestin 1- 2mg/ngày cũng trong thời gian như trên. Những người ta thấy có trường hợp chỉ cần đến 0,25mg Ovestin mỗi ngày và ngược lại cũng có trường hợp cần đến 8mg mỗi ngày. Do đó cần phải thăm dò liều thích hợp từ thấp đến cao trong từng trường hợp.
Đối với thân tử cung
Làm phát triển cơ tử cung trong trường hợp tử cung kém phát triển. Vi phải dùng trong nhiều tháng nên tốt nhất là dùng theo kiểu vòng kinh nhân tạo, nghĩa là trong nửa đầu với estrogcn và nửa sau kết hợp estrogen vơi progestin.
Làm phát triển niêm mạc tử cung trong trường hợp vô kinh lâu năm do thiểu năng nội tiết, giúp cho trứng làm tổ tốt khi điều trị vô sinh sau này. Tốt nhất, cũng là vòng kinh nhân tạo.
Có nhiều cách gây vòng kinh nhân tạo, dùng phác đồ sau: Mikrofollin 0,05mg x 1 viên x 14 ngày, tiếp sau đó: Rigevidon 1 viên x 12 ngày. Như vậy, tổng cộng là 26 ngày. Ngừng dùng thuốc trong khoảng 2 ngày, người bệnh sẽ hành kinh, ta được môt vòng kinh 28 ngày.
Có tác giả dùng các hormon tự nhiên như Benzo-Gynoestryl 5mg mỗi tuần tiêm 1 ống vào bắp thịt, tiêm trong 4 tuần. Từ tuần thứ 3 tiêm kết hợp mỗi ngày 1 ống progesteron 10mg vào bắp thịt cho đến khi ngừng tiêm Benzo-Gynoestryl. Phương pháp này có hiệu quả trong việc chuẩn bị niêm mạc tử cung điều trị vô sinh hơn phương pháp uống ở trên nhưng phức tạp hơn, nhất là lại phải tiêm.
Giúp niêm mạc tử cung phất triển nhanh sau nạo tử cung, đạc biệt trong những trường hợp nạo tử cung sau đẻ, để tránh dính buồng tử cung. Có thể cho uống Mikrofollin mỗi ngày 1 viên 0,05mg trong 10 ngày hoặc tiêm Benzo-Gynoestryl 5mg hai lần, cách nhau 5 ngày.
Giúp chuyển hoá can xi
Estrogen giúp giữ can xi, tăng tác dụng của calcitonin, giảm quá trình tiêu xương, đề phòng loãng xương sau mãn kinh hoặc sau cắt bỏ buồng trứng. Cố thể dùng Benzo- Gynoestryl 5mg hàng tuần tiêm bắp thịt. Nhưng tiện nhất có lẽ là dùng Mikrofollin 0,05mg mỗi ngày trong 20 - 25 ngày mỗi tháng. Sau đó có thể giảm liều xuống một nửa, cứ 2 ngày uống 1 viên. Nên vào 10 ngày cuối của mỗi chu kỳ cho thêm progestin, môi ngày 10 mg.
Chống bốc hỏa và rối loạn thần kinh thực vật
Đối với những người mãn kinh hoặc cắt hai buồng trứng có thể bị bốc hoả và có những rối loạn thần kinh thực vật như hồi hộp, tim đập nhanh, hay ra mồ hôi, lạnh đầu chi có thể áp dụng phương án như đối với đề phòng loãng xương như đã nêu ở trên. Ngoài ra có thể dùng estriol 4 - 8mg mỗi ngày trong vài tuần sau đó giảm liều dần. Ngừng dùng khi có dấu hiệu cứng vú.
Các chống chỉ định sử dụng estrogen
Không được dùng estrogen trong các trường hợp ung thư vú, ung thư niêm mạc tử cung, bệnh tim mạch, bệnh tăng huyết áp, bệnh thận gây phù, bệnh mạch vành, các chứng tắc mạch, đang có thai, đang cho con bú.

Vòng kinh Không phóng noãn

Nhận định chung
Vòng kinh không phóng noãn còn có tên gọi là vòng kinh một giai đoạn. Khi hành kinh, trước kia người ta gọi là kinh nguyệt gỉa (pseudomen struation) vì theo quan niệm cũ, hành kinh phải là do bong một niêm mạc tứ cung có chế tiết, nghĩa là có tác dụng của progesteron của giai đoạn hoàng thể sau phóng noãn. Nhưng ngày nay người ta quan niệm rộng rãi hơn: Bất cứ hiện tương ra huyết nào từ tử cung do bong niêm mạc tử cung dưới ánh hưởng của tụt hormon sinh dục nữ đều được coi là hành kinh.
Độ dài của vòng kinh không phóng noãn có thế vẫn bình thường, nhưng thông thường ngắn hơn, 23 - 25 ngày. Không những vòng kinh không phóng noãn mà ngay những vòng kinh có hoàng thế kém cũng dễ ngắn hơn bình thường. Đó là do hormon của buồng trứng vì không có hoạt dộng tốt của hoàng thể nên chóng tụt hơn hình thường.
Vòng kinh không phóng noãn hay gặp vào tuổi dậy thì và tuổi tiền mãn kinh. Vào tuổi dậy thì, vùng dưới đồi chưa chế tiết đầy đủ Gn-RH nên tuyến yên chế tiết không đầy đủ FSH làm nang noãn không chín, không đầy dủ LH làm nang noãn (dù chín) không phóng noãn. Còn vào tuổi tiền mãn kinh, buồng trứng không còn đủ nhạy cảm để trả lời thích đáng hormon của tuyến yên nên nang noãn không chín và không phóng noãn, mặc dầu LH có thể vẫn cao. Sau sẩy thai, sau đó, những vòng kinh đầu tiên có thể không phóng noãn.
Hiện tượng không phóng noãn có thể là cơ năng nhưng có thể trong một số ít trường hợp có tổn thương thực thể như u tuyến yên, hội chứng Stein - Lcvcnthal (buồng trứng đa nang).
Chẩn đoán hiện tượng không phóng noãn
Chủ yếu dựa vào các xét nghiệm thăm dò. Về lâm sàng không có gì đặc trưng để phân biệt phóng noãn và không phóng noãn, mặc dầu người ta nhận xét thấy từ lâu rằng những vòng kinh không phóng noãn kết thúc bằng kỳ hành kinh không đau bụng, vì cũng có nhiều vòng kinh có phóng noãn mà cũng không đau bụng. Ngược lại, những xét nghiệm, thăm dò có ý nghĩa quan trọng, có tính chất quyết định trong chẩn đoán.
Xét nghiệm cổ tử cung
Về các mặt độ mở cổ tử cung, lượng chất nhầy, độ trong, độ loãng, độ kéo sợi, độ kết tinh hình lá dưong sỉ. Theo dõi nếu thấy sau khi tăng lên tới cực đại rồi tụt xuống nhanh chóng sau vài ngày là có phóng noãn vào ngày cực đại. Nếu xuống chậm và tính từ ngày có cực đại đến ngày hành kinh không được 10 ngày thì là không có phóng noãn, hoặc có phóng noãn nhưng hoàng thế yếu.
Làm tế bào học âm đạo nội tiết
Theo dõi chỉ số ái toan và chỉ số nhân đông thấy không có đỉnh cực đại thì là không có phóng noãn.
Đo thàn nhiệt cơ sở
Vào các sáng sớm trước khi xuống gường đúng giờ - Lấy nhiệt độ ở hậu môn hay ở miệng, không lấy ở nách. Nếu thấy nhiệt độ thấp dươi 37°c, không có hiểu hiện hai thì là không có phóng noãn vì không có mặt của pregnandiol, chất chuyển hoá của progesteron gây tăng thân nhiệt.
Định lương LH: vào giữa vòng kinh không thây có đỉnh cao. Định lượng progesteron trong huyết tương vào tuần thứ 3 của vòng kinh (trước khi hành kinh 1 tuần) không thấy tăng là không có phóng noãn. Có thể định lượng pregnandiol trong nước tiểu 24 giờ, cũng không thấy tăng.
Soi ổ bụng
Vào nửa sau của vòng kinh không thấy hoàng thể hoặc sẹo của hoàng thể.
Theo dõi bằng siêu âm nếu thấy nang noãn ngày càng lớn lên rồi méo mó, nhỏ đi là có phóng noãn. Nếu không, là không cố phóng noãn.
Sinh thiết niêm mạc tứ cung
Vào cuối tuần lễ thứ 3 của vòng kinh (trước khi hành kinh dự kiến 1 tuần) nếu không thấy niêm mạc tử cung có hình ảnh chế tiết là khỏng có phóng noãn.
Nói chung, tất cá các phương pháp thăm dò nói trên đều chỉ cố tính chất hồi cứu, nghĩa là chỉ phát hiện đươc sau khi phóng noãn, đã có mặt của hoàng thể và hormon của hoàng thể. Riêng xét nghiệm cổ tử cung còn có chút tính chất phỏng đoán và có ích thực tê trong điều trị vô sinh. Thật vậy, khi các dấu hiệu của cổ tử cung phát triển ở mức cao, tức là có biểu hiện của nang noãn chín, sắp phóng noãn, có thể tiến hành chỉ định những bước cụ thể như khuyên giao hợp, thụ tinh nhân tạo...
Điều trị
Vòng kinh không phóng noãn trên thực tế chỉ có mục đích điều trị vô sinh. Đôi khi có mục đích điều trị rong kinh với ý nghĩ cho rằng rong kinh là do không có progesteron, kết quả của hiện tượng không phóng noãn. Đối với những vòng kinh không đều, không có phóng noãn có thể cho thuốc tránh thai uống trong 3 - 6 tháng. Sau khi ngừng thuốc sẽ có thể có hiệu ứng nhảy vọt, vùng dưới đồi tăng tiết Gn - RH và phóng noãn có thể xảy ra.
Dựa trên cơ chế tranh chấp vị trí vùng dưới đối với estrogcn, người ta có thể dùng clomifen citrat, một hoá chất có tác dụng kháng estrogen nhẹ, nhằm tạo nên hồi tác dương (feed - back positif), kích thích vùng dưới đồi tăng tiết Gn - RH, dẫn tới phóng noãn. Cho uống clomifen citrat 50mg x 1 - 2 viên/ngày, trong 5 - 10 ngày, bắt đầu từ ngày thứ 3 hay thứ 5 của vòng kinh. Trước kia người ta hay chỉ định từ ngày thứ 5 của vòng kinh, mỗi ngày 2 viên, trong 5 ngày. Hiện nay người ta có xu hướng cho uống thuốc từ ngày thứ 3 của vòng kinh.
Phóng noãn thường xảy ra vào ngày thứ 14 của vòng kinh. Nhưng cũng có khi muộn hơn.
Nếu sau khi theo dõi thấy nang noãn phát triển (qua siêu âm thấy nang noãn có đương kính trên 18 mm chẳng hạn), có thể cho hCG tiêm 6000 đến 10.000 đơn vị vào bắp. Sẽ có phóng noãn trong vòng 12 - 24 giờ sau tiêm, trên thực tế, ít khi chỉ thiếu LH mà không thiếu FSH, nên kích thích phóng noãn đơn thuần bằng hCC (tương đưong tác dụng với LH) ít đem lại kết quả. Nhiều khi người ta phải kích thích nang noãn phát triển trước bằng FSH (biệt dược Human Meno pausal Gonadotropin) rồi mới kích thích phóng noãn bằng hCG sau (biệt dược của hCG có choriogonin, Pregnyl...). Có thể kết hợp cho clomifen xitrat và hCG. Cho clomifen citrat trước như thường lệ. Đến gần ngày dự kiến phóng noãn, cho thêm hCG, liều lượng như đã nói trên.
Có thể kết hợp dùng những hiện pháp bồi phụ. Đó là những biện pháp không tấc dụng trực tiếp đối với phóng noãn mà chỉ giúp đỡ thêm. Thí dụ giảm căng thẳng trong đời sống, thay đổi hoàn cảnh sống, hoàn cảnh công tác, nơi ở, tắm nước nóng, nước suối nóng, chạy sóng ngắn, cho vitamin A, E, c v.v...

Choáng trong Sản Khoa

Nhận định chung
Choáng là một tình trạng bệnh lý do hậu quả của việc thiếu hụt oxy tổ chức mà chủ yếu do giảm cung lượng máu đến to chức, hoặc tế bào của tố chức bị giảm khả năng sử dụng oxy (như trong nhiễm trùng, nhiễm độc...)- Trong sản khoa thường gặp choáng do chấn thương, giảm thể tích máu do bị chảy máu. Choáng nhiễm trùng nhiễm độc do nhiễm trùng bộ phận sinh dục.
Nguyên nhân đưa đến choáng sản khoa
Do mất máu nhiều bởi:
Chấn thương gây chảy máu (rách phần mềm âm hộ âm đạo, rách cổ tử cung, vỡ tử cung, thủng tử cung chảy máu và thường kèm theo đau đớn gây choáng thêm).
Rau tiền đạo.
Rau bong non, rau bong dở dang, rau cài răng lược.
Đờ tử cung sau đẻ, sau nạo phá thai, nhất là thai lưu.
Do nhiễm trùng, nhiễm độc (độc tố của vi trùng gây ra):
Viêm nhiễm đường sinh dục, nhiễm trùng ối (trong đó do loại vi khuẩn gram(-) gây rối loạn chuyến hoá của tế bào tổ chức gây choáng và khả năng sử dụng oxy tế bào giảm nặng do màng tế bào bị tổn thương.
Bị đau đớn nhiều:
Do sang chấn đẻ khó, can thiệp thủ thuật lại không được gây tê, gây mê và hồi sức hỗ trợ một cách đầy đủ. Có biểu hiện tâm thần ở trạng thái không bình thường.
Các yếu tố thuận lợi
Khi bị các nguyên nhân trên rồi lại kèm theo các yếu tố thuận lợi sau đây thì choáng sẽ xảy ra trong sản khoa.
Có bệnh về tim mạch.
Nhiễm độc thai nghén.
Chuyên dạ kéo dài, tình trạng sức khoẻ không tốt trước đẻ nên mệt nhiều.
Lo sợ và kém chịu đựng.
Triệu chứng và chẩn đoán
Với choáng do mất máu và chấn thương
Triệu chứng và chẩn đoán dựa vào các yếu tố sau (cho mọi tuyến):
Lãm sàng:
Xanh tái, mệt mỏi, vã mồ hôi ở môi, trán, có vẻ thờ ơ, chân tay lạnh, đôi khi có vật vã, giãy giụa (do co rút cơ thiếu oxy tổ chức).
Thở nhanh, nông (hổn hển).
Mạch nhanh, nhỏ, lướt (đôi khi khó bắt mạch) hoặc không có mạch quay nếu mất máu nặng (từ lOOOml trở lên).
Huyết áp hạ thấp, có khi không đo được (nếu mất máu nặng hoặc sang chấn nặng, hoặc choáng về thần kinh và tinh thần nặng nề...). Đây là những dấu hiệu lâm sàng ở tuyến nào cũng có thể thấy và cần có thái độ xử trí kịp thời, tích cực, đúng kỹ thuật.
Cận lâm sàng:
Xét nghiệm tuỳ khả năng từng tuyến mà làm:
Thấy hồng cầu giảm (ít hoặc nhiều tuỳ cách chảy máu).
Hematocrit dưới 30% (gây thiếu oxy trầm trọng).
Có thể đo áp lực tĩnh mạch trung tâm.
Đo pH máu (sẽ là < 7,2, bình thường là 7,35-7,4).
Điện giải có: kali máu tăng, natri máu hạ.
Yếu tố tiên lượng:
Phải xác định được lượng máu đã mất đi dù là đong đo cụ thể hoặc ưóc tính gần đúng nhưng nhớ rằng khi mất máu từ 30-50% (tương đương với 1.600-2.OOOml) là choáng nặng và mất trên 50% (tương đương với trên 2.000ml máu) thường choáng không hồi phục, dễ tử vong nếu không có điều kiện xử trí, cấp cứu tốt.
Đo trên lâm sàng thường ước tính lượng máu mất đi ít hơn lượng đã mất thực sự. Do vậy với tuyến y tế cơ sở trở lên nếu thấy lượng máu mất từ 350-500ml với phụ nữ Việt Nam là phải có thái độ xử trí đúng đắn kịp thời (từ chuyển tuyến cho đến điều trị thực thụ cho từng tuyến). Cụ the là với các tuyến y tế cơ sở nói chung là chuyến lên tuyến trên khi có dấu hiệu này. cần chú ý với tuyến cơ sở phải mời ngay tuyến trên về hỗ trợ với choáng nặng (nguy cơ không hồi phục) vì chuyển đi nguy hiểm.
Choáng nhiễm trùng sản khoa
Triệu chứng và chẩn đoán trên lâm sàng (ở tuyến nào cũng có thê thây).
Lâm sàng:
Mệt mỏi, lơ mơ, chân tay lạnh toát, vật vã, đôi khi kêu nóng, sốt.
Sốt cao, rét run (39-40°C), có khi lại hạ thân nhiệt.
Mạch nhanh nhỏ.
Huyết áp hạ, kẹt, dao động.
Áp lực tĩnh mạch trung tâm giảm (ở tuyến đo được: Tỉnh, Trung ương).
Thở nhanh, sâu (đe doạ suy hô hấp).
Có những mảng xuất huyết tím ở chi (ngón tay, đầu gối).
Có thể đau cơ, cứng hàm.
Nước tiểu ít, biểu hiện suy gan, thận, tim mạch (nặng).
Cận lâm sàng:
Tại các tuyến trên: các trung tâm sản khoa tỉnh, tuyến cao nhất cần có những xét nghiệm tống phân tích máu và thế dịch (tuỳ theo khả năng ở tuyến có thế làm được) các xét nghiệm sau:
Bạch cầu tăng cao > 15.000-20.000, trong đó 80-90% là bạch cầu đa nhân trung tính (viêm cấp).
Urê máu tăng, urê nước tiểu giảm (đào thải tồi).
Đường máu tăng do tăng tiết catecholamin.
Transaminase tăng.
Cấy vi trùng có thể thấy (+).
Cách xử trí
Xử trí choáng sản khoa do mất máu
Mục đích đạt được:
Bồi phụ đủ thể tích máu đã mất (hoặc dịch thay thế máu).
Cung cấp oxy cho tế bào.
Loại bỏ được (hạn chê tôi đa nguyên nhân chảy máu, nếu tuyến dưới trước khi chuyên đi).
Xử trí cần thiết:
Thở oxy qua mũi hoặc hô hấp hỗ trợ.
Truyền máu tươi cùng nhóm hoặc dung dịch thay thế máu::
Với tốc độ truyền nhanh bằng nhiều đường truyền để có thể đạt được 500ml/ 5 phút hoặc 1000ml trong 10 phút đầu (khi đó tương đương với việc chảy gần thành dòng) để đưa huyết áp tối đa lên được từ 70 hoặc 80mmHg, rồi mới giảm tốc độ truyền về 100 đến 120 giọt/phút cho đến khi huyết áp đạt mức 100- 120mmHg.
Cố gắng ở tuyến có máu truyền bồi phụ với tỷ lệ 2/3 lượng đã mất.
Ringer lactat là 1/4 lượng bù đã tính.
Dextrose là 5%-10% lượng bù đã tính.
Các dịch thay máu (cao phân tử như gelafundin, huyết tương tươi v.v... nếu có thì dùng không quá 1.000ml/24 giờ).
Trợ tim mạch:
Trợ tim mạch với dopamin 5-10mcg/kg/phút (ống 200mg hoà với 500ml glucose 5% truyền 20-25 giọt/phút).
Lợi tiểu:
Lợi tiểu furosemid, lasic tuỳ loại nào đang có. Nếu nước tiểu nhiều (trên 700ml- 1000ml) thì không phải dùng trong ngày.
Ở các tuyến cao hơn cần phải làm một số xét nghiệm về sợi huyết, thăng bằng kiềm toan (phải giữ được mức pH từ 7,35-7,4, dự trữ kiềm 20-26mEq) và nếu toan chuyến hoá thì phải cho:
Chống toan:
Natribicarbonat 1,4% x 500ml.
Ringer lactat X 500ml.
Chống rối loạn đông máu: tuỳ từng trường hợp mà sử dụng:
Transamin 250-500mg tĩnh mạch.
Bibrinogene l-4g tĩnh mạch.
Điều trị nguyên nhân chảy máu: cắt tử cung nếu do đờ tử cung hoặc vỡ tử cung,
vỡ nhân di căn tử cung. Trước đó phải kiểm tra kỹ vùng rách ở phần mềm từ âm hộ, âm đạo đến cổ tử cung để xử trí cầm máu thật tốt.
Theo dõi
Có còn chảy máu không ? (mạch nhanh, huyết áp tụt...?).
Nếu mạch chậm đi, huyết áp lại giảm dần là tiên lượng nặng dễ là một choáng không hồi phục, do đó việc chuyển tiếp lên tuyến cao hơn là cần thiết và phải nhanh chóng chuyên đi đê có các biện pháp can thiệp cao hơn và tích cực hơn do đã có điều kiện trang bị và trình độ cao hơn hẳn - kháng sinh đề phòng bội nhiễm.
Xử trí choáng nhiễm trùng nhiễm độc sản khoa
Mục tiêu
Cải thiện rối loạn huyết động học bằng truyền các dung dịch để hồi phục thể tích máu (kể cả máu nếu có thiếu máu nặng qua số lượng hồng câu, huyết sắc tố thấp...).
Cung cấp đầy đủ oxy cho tế bào.
Cải thiện những rối loạn chức năng của tim, gan, thận, hô hấp.
Loại trừ tác nhân vi khuẩn gây bệnh.
Công việc cụ thể
Thở oxy (áp suất oxy máu > 80mmHg).
Truyền dịch kiềm natribicarbonat 1,4% x 500ml.
Ringer lactat 1.500 - 2000ml với tốc độ truyền 20ml/phút, nếu áp lực tĩnh mạch trung tâm dưới 5cm nước thì phải truyền dịch cho tới khi áp lực này đạt tói 12cm nước.
Trợ tim, tăng lưu lượng tuần hoàn: dopamin 200mg để truyền 5-10mcg/kg/phút trong dung dịch glucose 5% x 500ml.
Chống viêm và nhiễm trùng với:
Prednisolon 80mg/6 giờ.
Kháng sinh theo kháng sinh đồ (nếu không có kháng sinh đồ thì dùng loại lactamin, aminozit tác dụng với vi trùng gram(+) hoặc ciproílonxalin nếu nghĩ tói do liên cầu trùng.
Điều trị nguyên nhân nhiễm trùng.
Dẫn lưu ổ mủ.
Rút sonde bàng quang.
Loại bỏ ổ nhiễm trùng đó.
Theo dõi
Các chức năng:
Hô hấp (nhịp thở và cách thở).
Tuần hoàn (huyết áp, mạch).
Tiết niệu (nước tiểu: số lượng, xét nghiệm).
Kẽt luận
Vấn đề phòng bệnh (cần nhấn mạnh phòng choáng xảy ra)
Trong sản khoa phải theo dõi sát thai phụ để phát hiện: chảy máu trong chuyển dạ, sau đẻ, nguy cơ nhiễm trùng để xử trí sớm, chuyển tuyến sớm trước khi xuất hiện choáng đối với các tuyến cơ sở (xã, huyện).
Giảm các yếu tố thuận lợi gây choáng sản khoa:
Phát hiện các bệnh lý liên quan trong thai sản.
Các thao tác thủ thuật phải đúng chỉ định, nhẹ nhàng có vô cảm, giảm đau trước khi làm thủ thuật.
Chế độ và quy tắc vô trùng, tiệt khuẩn phải đảm bảo tốt trong khám bệnh và đỡ đẻ cũng như điều trị.
Đ phòng các biến chứng do sản khoa
Suy thận cấp (do mất máu nhiều, catecholamin tăng tiết gây co mạch thận -> giảm máu đến vỏ thận -» gây hoại tử thận).
Suy hô hấp: do bị ứ máu phổi, viêm phế quản - phổi.
Suy tim cấp (do bị ức chế, thiểu năng tuần hoàn tim, nhão cơ tim).
Chảy máu tiêu hoá: là một biến chứng nặng nề khi bị choáng không hồi phục.

03 MỐC SIÊU ÂM QUAN TRỌNG

Vì sự phát triển khỏe mạnh của bé ngay khi còn trong bào thai, việc siêu âm thai vào đúng các mốc quan trọng cần được các mẹ chú ý đặc biệt. Siêu âm chính là cách duy nhất để bạn biết bé yêu cần và muốn gì.

1. Thời điểm siêu âm

Thực tế, có nhiều bà mẹ chủ quan cho rằng siêu âm thai vào thời điểm nào cũng được. Nếu đã là dị tật thì chỉ cần qua máy siêu âm sẽ phát hiện ra ngay lập tức. Nhưng sự thật hoàn toàn không như các mẹ nghĩ.
Có những dạng dị tật chỉ được phát hiện qua siêu âm vào một thời điểm nhất định của thai kỳ. Ngay cả khi máy móc tốt, siêu âm đúng thời điểm mà bác sĩ chẩn đoán dị tật thiếu kinh nghiệm cũng khó có thể phát hiện được những dấu hiệu bất thường ở thai nhi.
Trường hợp siêu âm muộn, dị tật có thể trở nên nặng hơn do người mẹ không chú ý đến ăn uống, luyện tập và sinh hoạt điều độ. Khi đó tuổi thai cũng đã trễ để thực hiện đình chỉ thai nghén. Điều này sẽ gây ra cho em bé rất nhiều thiệt thòi khi chào đời.

2. Siêu âm nhiều có tốt không?

Không ít bà mẹ lại có quan niệm siêu âm càng nhiều càng tốt dẫn đến việc lạm dụng. Siêu âm dù không gây đau đớn và có vẻ như không có những ảnh hưởng xấu có thể nhìn thấy được. Nhưng chưa ai dám khăng định siêu âm là hoàn toàn vô hại đối với thai nhi. Nhất là khi tuổi thai còn quá nhỏ, khoảng dưới 8 tuần tuổi, là thời điểm mà các tổ chức thai đang được hình thành và sắp xếp. 
Trong giai đoạn chưa ổn định về mặt cấu trúc cơ thể này, không có gì đảm bảo chắc chắn rằng thai nhi không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ loại tia nào (kể cả tia X). Chưa kể đến việc siêu âm nhiều cũng gây ra mệt mỏi cho thai phụ khi phải đi lại, chờ đợi, lo lắng và tốn kém về kinh tế.
ba mốc siêu âm quan trọng

3. Ba mốc siêu âm quan trọng

Sau đây là 3 mốc siêu âm được coi là bắt buộc để xác định thai có phát triển bình thường hay không:

Từ 11-12 tuần:

Đây là thời điểm duy nhất có thể đo độ mờ da gáy, nhằm dự đoán một số bất thường về nhiễm sắc thể nguy hiểm (gây bệnh down, dị dạng tim, chi, thoát vị cơ hoành,…). Nếu chỉ số này cao, bác sĩ sẽ chỉ định cho thai phụ chọc ối vào tuần 17-18 để chẩn đoán bệnh. Bước sang tuần thứ 13, chỉ số này không chính xác và không còn giá trị nữa.
Lần siêu âm này cũng có thể phát hiện một số dị tật khác như thai vô sọ, khe hở thành bụng, không xương mũi,… Bác sĩ cũng khuyên thai phụ nên làm thêm xét nghiệm doule test để kiểm soát các bất thường bẩm sinh của thai.

Từ 22-23 tuần:

Vào thời điểm này đã có thể quan sát được tất cả những bất thường về hình thái của thai như sứt môi, hở hàm ếch, dị dạng ở các cơ quan, nội tạng. Đó là trong trường hợp máy móc chính xác và bác sĩ có kinh nghiệm. Bởi vậy, người mẹ khi đi siêu âm nên tìm hiểu, chọn địa chỉ uy tín hoặc đến bệnh viện chuyên khoa.
Lần siêu âm này vô cùng quan trọng, vì tất cả các dị tật đều có biểu hiện ở thời điểm này và nếu cần đình chỉ thai nghén thì phải làm trước tuần thứ 28.

Từ 31-32 tuần:

Đây là lần siêu âm "chốt" trước sinh nên rất quan trọng mà bà bầu không nên bỏ qua. Một số vấn đề hình thái xảy ra muộn như bất thường ở động mạch, tim và cấu trúc não có thể được phát hiện. Ngoài ra, lần siêu âm này cũng giúp nhận biết tình trạng phát triển chậm trong tử cung, vốn là nguyên nhân gây suy thai và ngạt sau đẻ.
Dị tật được phát hiện trong thời điểm này tuy không thể can thiệp được nhưng có thể có cách ứng phó phù hợp khi sinh như: chọn nơi sinh, phương pháp sinh và chuẩn bị cho việc chăm sóc, chữa bệnh cho trẻ kịp thời sau đó.
Đây là ba mốc siêu âm giúp phát hiện chính xác các dị tật ở thai nhi. Tuy nhiên không có nghĩa bạn chỉ siêu âm ba lần trong suốt thai kỳ. Tùy vào sức khỏe của mẹ và bé mà bác sĩ có thể hẹn bạn thời gian cụ thể để siêu âm lại và làm các xét nghiệm cần thiết.
Vì sự phát triển khỏe mạnh của bé ngay khi còn trong bào thai, việc siêu âm thai vào đúng các mốc quan trọng cần được các mẹ chú ý đặc biệt. Siêu âm chính là cách duy nhất để bạn biết bé yêu cần và muốn gì.

Phẫu thuật nội soi ổ bụng

Phẫu thuật nội soi ổ bụng
Khoa Nội soi - BV Từ Dũ
Phẫu thuật nội soi (PTNS) là gì?
PTNS được mô tả là phẫu thuật trong đó bác sĩ dùng ống soi có gắn vào máy quay phim và nguồn sáng để nhìn vào trong bụng bệnh nhân.
So với mổ hở, PTNS có nhiều ưu điểm: sẹo mổ nhỏ, ít đau sau mổ, rút ngắn thời gian nằm viện, hồi phục sức khỏe nhanh, trở lại công việc và sinh hoạt hàng ngày sớm.
Phẫu thuật nội soi được áp dụng trong những trường hợp nào?
Thông thường PTNS chia làm 2 loại:
1. Nội soi chẩn đoán:
Sau các xét nghiệm X - quang, siêu âm, nội soi chẩn đoán có thể được xem như là 1 biện  pháp chẩn đoán có thể được xem như là 1 biện pháp chẩn đoán nhờ nhìn trực tiếp vào bên trong bụng, nhờ đó các bác sĩ có thể biết nguyên nhân gây bệnh và tổn thương ở đâu.
2. Nội soi phẫu thuật:
Nhiều bệnh lý có thể được điều trị PTNS:
- Thai ngoài tử cung.
- Khối u buồng trứng.
- U xơ tử cung.
- Bệnh lý lạc nội mạc TC.
- Vô sinh do vòi trứng, do buồng trứng đa nang.
- Cắt tử cung.
- Són tiểu, nạo hạch ung thư,…
- Vòng xuyên cơ.
  ….
Phẫu thuật nội soi được thực hiện như thế nào?
1. Nội soi chẩn đoán:
Bệnh nhân được gây mê, bác sĩ rạch 1 vết khoảng 8mm trên da vùng quanh rốn, qua đó đưa ống soi và khí CO2 vào làm căng bụng, giúp nhìn rõ các nội tạng bên trong, sau đó rạch thêm 1 vết khoảng 5mm đưa dụng cụ hỗ trợ vào thăm dò các cơ quan trong bụng.
2. Nội soi phẫu thuật:
Sau khi biết nội tạng bị bệnh, cùng lúc bác sĩ sẽ thực hiện luôn việc điều trị nội tạng đó.
Ví dụ:
Có khối u ở buồng trứng thì bác sĩ sẽ tiến hành bóc lấy khối u sau khi rạch thêm 2 vết rạch da khoảng 5mm.
Chăm sóc sau mổ nội soi như thế nào?
1. Chăm sóc vết thương:
- Vết thương nhỏ, được băng bằng băng dán thoáng không thấm nước.
- Giữ sạch, khô vết thương.
- Cắt chỉ sau mổ 5 ngày.
2. Một số triệu chứng sau mổ: 
- Đau vai, đau lưng, đau bẹ sườn 1 – 2 ngày đầu.

- Căng đau ít ở vết mổ.

- Đôi khi cảm giác tức bụng, sình bụng 1 – 2 ngày đầu sau mổ.

- Chảy máu lượng ít, hay ra dịch nhày hồng ở âm đạo trong 1 –  2 tuần sau mổ (tùy loại phẫu thuật).Các triệu chứng này không đáng ngại, có thể điều trị bằng thuốc giảm đau, đắp túi ấm lên vết thương, dùng băng vệ sinh sạch…

  3. Hoạt động sau mổ:
- Vận động ngồi dậy đi lại càng sớm càng tốt tránh dính ruột, trung tiện lại sớm.

- Uống nước sau khi tỉnh.

- Ăn uống lại bình thường sau khi đã trung tiện.

- Tránh các hoạt động thể lực nặng (cử tạ, hít đất, khuân vác nặng…) trong 1 – 2 tuần đầu tiên sau mổ.

- Hạn chế hoạt động giao hợp trong 4 -6 tuần đầu sau mổ (tùy loại phẫu thuật).

- Có thể đi làm lại sau 1 – 2 tuần nghỉ ngơi (tùy loại phẫu thuật)
Phẫu thuật nội soi có thể có tai biến gì không? 
- Thông thường PTNS được xem là an toàn. Tuy nhiên, cũng như các loại phẫu thuật khác vẫn có nguy cơ và tai biến.

- Trước mổ bác sĩ sẽ tư vấn cho bệnh nhân, cân nhắc giữa lợi ích của nội soi và các nguy cơ tai biến để chọn phương pháp mổ.

- Tai biến chung giống như trong các loại mổ khác:
+  Do gây mê, đặt ống thở khó khăn, dị ứng thuốc, bệnh tim phổi.
+  Nhiễm trùng vết thương.
+  Chảy máu.
+  Viêm tắc tĩnh mạch, tắc mạch phổi do có cục máu đông trong lòng mạch.
- Các tai biến đặc biệt trong nội soi:

+ Tổn thương thành bụng: chảy máu, thoát vị thành bụng.

+ Tổn thương cơ quan trong bụng (ruột, bàng quang, mạch máu lớn...)

Chủ Nhật, 1 tháng 3, 2015

Khám Sản Phụ Khoa Miễn Phí Tại Phòng Khám Việt Pháp



Thứ hai, 2/3/2015 | 10:27 GMT+7
Chia sẻ bài viết lên facebook Chia sẻ bài viết lên twitter Chia sẻ bài viết lên google+ |

Khám sản phụ khoa miễn phí

500 ca bệnh lý sản phụ khoa sẽ được các bác sĩ  Phòng Khám Việt Pháp  khám miễn phí vào ngày 8/3.
Đối với người chưa có gia đình, bác sĩ nữ sẽ kiểm tra và phát hiện bệnh từ mẫu huyết trắng. Người có gia đình, bác sĩ đặt mỏ vịt, siêu âm đầu dò, lấy mẫu dịch cổ cung làm xét nghiệm pap smear để tầm soát bệnh ung thư cổ tử cung. Thai phụ được khám thai, siêu âm và tư vấn sức khỏe thai kỳ. Chị em khám và siêu âm nhũ hoa nhằm phát hiện ung thư vú.
Ảnh minh họa: H.M
Siêu âm thai định kỳ để đảm bảo thai nhi phát triển khỏe mạnh. Ảnh: H.M
Chương trình diễn ra tại  112, Phố Mai dịch, Quận Cầu Giấy, Hà Nội. Đăng ký lịch khám 01266200777 hoặc 0466741651 từ 7 đến mỗi ngày. Tư vấn bệnh lý qua bác sĩ Lê Thị Kim Ngân, Trưởng Khoa Phụ Sản, Bệnh viện  0988410350