Thứ Sáu, 6 tháng 4, 2018

Điều trị u xơ tử cung, rong huyết bằng phương pháp cắt tử cung hoàn tongàn tại Khoa sản Bệnh viện Nam thăng lo

Bệnh viện Nam Thăng Long: Phẫu thuật nội soi cắt tử cung hoàn toàn bằng dao siêu âm

Ngày 27/03/2018 Bệnh viện Nam Thăng Long tiến hành phẫu thuật nội soi cắt tử cung hoàn toàn bằng dao siêu âm cho bệnh nhân Đinh Thị V. (60 tuổi) thường trú tại Hải Bối, Đông Anh, Hà Nội.

Ngày 27/03/2018 Bệnh viện Nam Thăng Long tiến hành phẫu thuật nội soi cắt tử cung hoàn toàn bằng dao siêu âm cho bệnh nhân Đinh Thị V. (60 tuổi) thường trú tại Hải Bối, Đông Anh, Hà Nội.
Người bệnh đã mãn kinh 10 năm, mấy tháng gần đây bệnh nhân thấy ra máu âm đạo từng đợt không rõ nguyên nhân và có biểu hiện đau tức vùng hạ vị vào viện khám. Qua thăm khám nhận thấy hai phần phụ bình thường, âm đạo ra ít huyết, cổ tử cung viêm nhẹ, khi tiến hành siêu âm tử cung và phần phụ các bác sỹ phát hiện thành trước tử cung có khối nhân xơ, niêm mạc tử cung 11mm… Bệnh nhân được chuẩn đoán u xơ tử cung, rong huyết, quá sản niêm mạc tử cung có chỉ định phẫu thuật nội soi cắt tử cung hoàn toàn và hai phần phụ bằng dao siêu âm.
Phẫu thuật nội soi cắt tử cung hoàn toàn và hai phần phụ bằng dao siêu âm cho bệnh nhân Đinh Thị V. (60 tuổi).
Phẫu thuật nội soi cắt tử cung hoàn toàn và hai phần phụ bằng dao siêu âm cho bệnh nhân Đinh Thị V. (60 tuổi).
Bác sĩ Đặng Thế Cường_Trưởng khoa sản bệnh viện Nam Thăng Long cho biết: Kỹ thuật mổ nội soi bằng dao siêu âm mới được Bệnh viện Nam Thăng Long áp dụng trong phẫu thuật cắt tử cung hoàn toàn đối với các trường hợp như u xơ tử cung, ung thư niêm mạc tử cung… Bệnh nhân V. (60 tuổi) đã trải qua hai lần sinh nở áp dụng phương pháp mổ nội soi bằng dao siêu âm sẽ mang lại lợi ích cho cả bác sỹ và bệnh nhân, dao siêu âm cắt và hàn mạch luôn giúp bệnh nhân ít bị mất máu, sang chấn mô tối thiểu, bệnh nhân hồi phục nhanh sau mổ, rút ngắn thời gian điều trị và nằm viện.
Cùng ngày Bác sĩ Đặng Thế Cường cũng đã thực hiện thành công ca phẫu thuật cắt u nang buồng trứng đối với bệnh nhân Đỗ Thu H. (46 tuổi) thường trú Hải Bối, Đông Anh, Hà Nội. Chị H cho biết chị bị u nang buồng trứng cách đây đã một năm, thời gian gần đây chị thấy kinh nguyệt không đều, hay đau tức bụng nên chị tới khám và được chỉ định mổ do khối u phát triển có nguy cơ gây xoắn nang hoặc ung thư buồng trứng.
Trong thời gian gần đây Khoa sản Bệnh viện Nam Thăng Long tiếp nhận nhiều hơn các trường hợp chị em gặp vấn đề về sản phụ khoa như u xơ tử cung, u nang buồng trứng, ứ mủ vòi trứng, chửa ngoài tử cung vỡ… ở mọi lứa tuổi. Đặc biệt một số trường hợp chị em chửa ngoài tử cung do không đến bệnh viện khám mà tự dùng thuốc phá thai dẫn đến nhập viện cấp cứu trong tình trạng sock mất máu cấp do khối chửa ngoài tử cung vỡ lụt máu ổ bụng nguy hiểm đến tính mạng.
Bác sĩ Đặng Thế Cường khuyến cáo: “Phụ nữ ở mọi lứa tuổi nên đi khám phụ khoa định kỳ 1-2 lần/ năm, làm các xét nghiệm tầm soát để phát hiện sớm các bệnh lý sản phụ khoa. Với phụ nữ sau mãn kinh không có triệu chứng ra máu cũng nên khám sức khỏe định kỳ và tầm soát để sớm phát hiện các tổn thương tiền ung thư và ung thư cổ tử cung để được chuẩn đoán và xử lý sớm mang lại hiệu quả điều trị tốt nhất”.

Thứ Hai, 20 tháng 3, 2017

Que tránh thai: một biện pháp tuyệt vời?

Que cấy tránh thai: một biện pháp tuyệt vời?

Bs. Nguyễn Trần Quốc Hải
Khoa KHHGĐ – BV Từ Dũ

Que cấy là phương pháp tránh thai dùng một hay các que nhỏ như que diêm chứa hormone progesterone cấy vào dưới da. Sau khi được đưa vào cùng da dưới cánh tay, các que cấy sẽ phóng thích dần dần lượng hormone vào cơ thể tạo ra tác dụng ngừa thai kéo dài có thể lên đến 5 năm. Hormone sử dụng trong que cấy tránh thai là progesterone : levonorgestrel hay etonogestrel. Số lượng que cấy có thể từ 1 đến 6 que tùy loại
Ảnh do tác giả cung cấp
- Norplant : 6 que, tác dụng trong 5-7 năm
- Jadelle, Sinoplant : 2 que, tác dụng 5 năm
- Implanon : 1 que, tác dụng 3 năm
Đây là phương pháp ngừa thai rất hiệu quả nhưng còn khá mới ở nước ta. Implanon là loại que cấy hiện đang lưu hành tại Việt Nam. Bài viết xin đề cập chủ yếu đến dạng que cấy này. Implanon chứa etonogestrel, có ưu điểm là chỉ có một que cấy duy nhất, tác dụng ngừa thai kéo dài trong 3 năm.
Hiệu quả tránh thai
Điều đầu tiên cần phải đề cập đến là hiệu quả ngừa thai thực sự ấn tượng của Implanon: 99.95%, tức là có 9995 người sử dụng Implanon trong 10000 người sẽ không bị có thai ngoài ý muốn. Tỷ lệ này gần như tương đương với phương pháp triệt sản nữ, ngoại trừ rằng khả năng thụ thai của Implanon sẽ hồi phục hoàn toàn và nhanh chóng sau khi que cấy được lấy ra. Các phương pháp ngừa thai khác hay bị ảnh hưởng bởi sự tuân thủ của người sử dụng, tức là tỷ lệ thành công trên thực tế (typical use) thấp hơn so với lý thuyết (perfect use). Implanon hoàn toàn không bị tác động, chỉ 1 que cấy duy nhất và một lần cấy duy nhất, không cần phải làm gì thêm.
Tất nhiên nếu để que cấy quá thời gian được khuyến cáo, đối với Implanon là 3 năm, thì hiệu quả ngừa thai sẽ giảm đi.
Cơ chế tác dụng

 
  Cũng như các biện pháp tránh thai có progesterone khác, que Implanon hoạt động dựa trên 2 cơ chế chính:
1. Làm đặc chất nhầy cổ tử cung, ngăn không cho tinh trùng xâm nhập buồng tử cung.
2. Ngăn sự rụng trứng (ở hơn phân nửa các chu kỳ).
Khả năng có thai trở lại
 Không như thuốc chích ngừa thai DMPA, sau khi rút que cấy, sự thụ thai hồi phục nhanh chóng và hoàn toàn.
Có thể lấy que cấy bất cứ khi nào bạn muốn. Nếu bạn muốn có thai trở lại, hãy đến cơ sở y tế, nhân viên y tế sẽ lấy que cấy ra cho bạn.


 


Tác dụng phụ
Cũng như các biện pháp tránh thai có chứa hormone, Implanon có thể tạo ra sự thay đổi trong chu kỳ kinh nguyệt.
Trong vài tháng đầu triệu chứng có thể xảy ra là ra kinh ít hơn, ngắn hơn hay rong kinh >8 ngày, rong huyết, không có kinh. Sau 1 năm thì Implanon thường hay gây vô kinh.
Các triệu chứng khác ít gặp hơn như đau đầu, chóng mặt, căng ngực, buồn nôn … Các triệu chứng này thường thoáng qua hay giảm đi theo thời gian.
Ưu điểm của Implanon
  Đối tượng sử dụng của Implanon là rất rộng. Các bà mẹ đang cho con bú, phụ nữ trên 40 tuổi, người có u xơ tử cung có thể sử dụng Implanon an toàn. Các bà mẹ tốt nhất nên đợi trẻ hơn 6 tuần tuổi mới bắt đầu sử dụng que cấy này.
Các trường hợp có yếu tố nguy cơ cho tim mạch như hút thuốc lá, béo phì, tiểu đường hay cả bệnh nhân cao huyết áp đều có thể dùng Implanon.
Implanon chỉ đặt 1 lần duy nhất, chỉ với 1 que cấy, không yêu cầu người sử dụng phải tuân thủ. Không phải uống thuốc mỗi ngày hay phải chuẩn bị trước mỗi lần quan hệ, Implanon cũng không ảnh hưởng đến quan hệ tình dục.
Nhược điểm
 Thường gây rong kinh trong vài tháng đầu.
Cũng như dụng cụ tử cung, Implanon cần phải được đặt tại cơ sở y tế và được thực hiện bởi nhân viên y tế được huấn luyện về cách đặt và rút que cấy.

Vấn đề vô kinh khi sử dụng Implanon

Sau 1 năm sử dụng, Implanon hay gây ra tình trạng vô kinh. Tùy theo quan niệm của mỗi người mà đây có thể là ưu điểm hay là nhược điểm của que cấy này. Đối với một số người thì việc không ra máu kinh hàng tháng của một phụ nữ là chuyện “bất thường”, không hợp với tự nhiên. Thực ra giai đoạn vô kinh này không là bệnh lý, máu kinh không hề tích tụ trong cơ thể. Nếu một phụ nữ ra máu ít hay không ra máu kinh thì điều này có lợi cho sức khỏe, ngăn ngừa tình trạng thiếu máu thiếu sắt hay gặp ở phụ nữ hay không hạn chế họ trong các hoạt động vui chơi. Do đó không nên xem vấn đề này là một bất lợi khi cân nhắc sử dụng Implanon.
Các trường hợp cần thận trọng
- Cho trẻ bú dưới 6 tuần sau sanh.
    - Có huyết khối tĩnh mạch sâu ở chân hay phổi.

    - Xuất huyết âm đạo chưa giải thích được.
      - Ung thư vú hay có tiền căn ung thư vú.
        - Đang có bệnh lý gan nặng.

        - Đang sử dụng thuốc chống động kinh hay thuốc điều trị lao (rifampicin).
        Mỗi trường hợp có những mức độ nặng nhẹ khác nhau để cân nhắc sử dụng Implanonnhưng thông thường nếu gặp các trường hợp này nên dùng biện pháp tránh thai khác.
        Kết luận
          Que cấy ngừa thai là một biện pháp tránh thai hiện đại, có hiệu quả rất cao do không cần phải tuân thủ điều kiện sử dụng. Que cấy này có thể áp dụng cho rất nhiều đối tượng có nhu cầu ngừa thai. Với ưu điểm chỉ có một que cấy, thời gian sử dụng kéo dài 3 năm, Implanon có thể là một sự lựa chọn thích hợp cho bạn.
        * Khoa Kế hoạch gia đình - Bệnh viện Từ Dũ hiện đang cung cấp que cấy ngừa thai Implanon. Bạn có thể đến để được tư vấn.Chi phí tổng cộng là khoảng 110USD cho 1 que cấy sử dụng trong 3 năm.
        Nếu có nhu cầu xin liên hệ 
        Khoa Kế hoạch gia đình, Bệnh viện Từ Dũ
        284 Cống Quỳnh Q1 TP HCM ĐT: (08) 5404 4355
        Phòng Khám Việt Pháp số 2A, Ngõ 217, Phố Mai dịch , Cầu Giấy, Hà Nội, Đặt que cấy tránh thai Implent loại hai que

        Thứ Ba, 6 tháng 12, 2016

        SIÊU ÂM CANH TRỨNG

        SIÊU ÂM CANH TRỨNG TẠI PHÒNG KHÁM SỐ 2A NGÕ 217, PHỐ MAI DỊCH, CẦU GIẤY, HÀ NỘI

        Thời kỳ rụng trứng

        Thời kỳ rụng trứng

        TRONG MỘT CHU KỲ KINH NGUYỆT, PHỤ NỮ CHỈ CÓ 25 % CƠ HỘI ĐỂ MANG THAI. NÊN ĐỂ CÓ KHẢ NĂNG ĐẬU THAI CAO NHẤT, VIỆC TÍNH CHU KÌ RỤNG TRỨNG VÀ GIAI ĐOẠN “SUNG” NHẤT LÀ RẤT QUAN TRỌNG.

         Nguyên lý hoạt động

        Chu kỳ kinh nguyệt được chia ra làm 3 giai đoạn (xem biểu đồ): giai đoạn hình thành nang mạc (diễn ra khoảng 14 ngày, trong đó 5-6 ngày kinh nguyệt);  giai đoạn rụng trứng (chỉ diễn ra trong khoảng 24h) và cuối cùng là giai đoạn hoàng thể (diễn ra trong khoảng 14 ngày). Kết thúc pha hoàng thể là bắt đầu cho một chu kì hình thành nang trứng mới. Trước khi phóng noãn, nội mạc tử cung, bao phủ bề mặt tử cung, được xây dựng theo kiểu đồng bộ hoá. Sau khi phóng noãn, nội mạc này thay đổi để chuẩn bị cho trứng thụ tinh làm tổ và hình thành thai kỳ. Nếu thụ tinh và thai kỳ không xảy ra, tử cung loại bỏ lớp nội mạc và chu kỳ kinh mới bắt đầu.
         
        Số liệu trung bình. Thời gian và các số liệu khác có thể thay đỏi theo cá nhân và theo chu kỳ.


        Quy trình này quay vòng trong khoảng 28 ngày. Nhưng ở một số phụ nữ, pha nang noãn diễn ra dài hơn và giai đoạn rụng trứng sẽ chậm lại so với chu kì. Nhưng dù thế nào, pha hoàng thể vẫn luôn diễn ra trong vòng 14 ngày. Với những thông tin này, chúng ta có thể tính được ngày rụng trứng để có cơ hội đậu thai cao nhất.
        Như vậy, chúng ta có công thức sau để tính ngày rụng trứng :
        Ví dụ :
         
        Đối với chu kỳ  22 ngày, ngày rụng trứng có thể diễn ra vào ngày thứ 8: (22-14=8).
        Đối với chu kì bình thường diễn ra 28 ngày, thì ngày rụng trứng sẽ là ngày thứ 14 (28-14=14).
        Đối với chu kì dài là 32 ngày , ngày rụng trứng diễn ra vào ngày thứ 18 (32-14=18).

        Thời kì sinh sản 

        Tinh trùng có thể sống 4 ngày trong cơ quan sinh dục của phụ nữ, trong khi đó, thời gian trứng chín diễn ra 1 ngày .Như vậy thời kì sinh sản diễn ra mạnh nhất  diễn ra trong vòng 4 ngày trước trước ngày phóng noãn và kết thúc sau đó 1 ngày.
        Dấu hiệu tốt  
        Có nhữngdấu hiệu chung báo hiệu trước thời kỳ rụng trứng mà bạn nên nắm bắt để chuẩn bị  cho việc đậu thai :

        - Đau quặn vùng bụng dưới, là vùng ngay bên cạnh vùng ổ trứng bị rụng.
         
        - Cổ tử cung mở rộng và tiết ra nhiều dịch để tạo không gian và môi trường tốt cho tinh trùng thâm nhập và tìm trứng.

        - Thân nhiệt tăng lên (khoảng 0,3°C)

        Thứ Bảy, 17 tháng 9, 2016

        ĐỐT SÙI MÀO GÀ TẠI PHÒNG KHÁM 2A, NGÕ 217, PHỐ MAI DỊCH LIÊN HỆ ĐT : 01266200777

        Đốt Sùi Mào Gà Tại Phòng Khám Mai dịch , Cầu Giấy, Hà Nội


        ĐIỆN THOẠI PHÒNG KHÁM : 01266200777

        ĐỐT SÙI MÀO GÀ CÓ ĐAU KHÔNG? CÓ ẢNH HƯỞNG GÌ?

        Em nghe nói phương pháp Đốt sùi mào gà bằng Laser có thể khỏi được bệnh vậy em muốn hỏi các bác sĩ phương pháp này có đau không và có ảnh hưởng gì tới khả năng mang thai của em sau này không ạ?

        Em không nên quá lo lắng vì em đã được đốt tia Laser nên không ảnh hưởng gì tới sinh đẻ tuy nhiên đốt Laser chỉ là để phá hủy những thương tổn da do virus HPV (nguyên nhân gây ra bệnh sùi mào gà) thôi chứ không thể diệt virus này. Trong cơ thể em luôn tồn tại virus HPV vì thế cần ăn uống đầy đủ chất, ăn nhiều hoa quả để có sức đề kháng chống lại virus. Ngoài ra em nên lưu ý một vài điều sau:
        - Vệ sinh sạch sẽ.
        - Chung thủy một vợ một chồng.
        - Vợ chồng khám phụ khoa, da liễu định kỳ (3-6 tháng/ lần).
        - Theo dõi khi mang thai và chuyển dạ.
        Em vẫn có thể có thai, sinh con bình thường em nhé.

        KHÁM PHỤ KHOA TẠI PHÒNG KHÁM 2A, NGÕ 217 , PHỐ MAI DỊCH LIÊN HỆ 01266200777

        Khám phụ khoa ưu việt trọn gọi tại chuỗi phòng khám Việt Pháp Clinic


        Theo Trung tâm Giải phẫu Tế bào học - Bệnh viện Bạch Mai, 90% phụ nữ Việt Nam bị viêm nhiễm đường sinh dục, trong đó 70% nằm ở nhóm phụ nữ có kiến thức, có thu nhập từ mức khá trở lên và phụ nữ trong độ tuổi sinh sản. Nhằm giúp chị em chăm sóc tốt hơn sức khỏe và đề phòng các bệnh lý phụ khoa, chuỗi phòng khám quốc tế Vinmec cung cấp gói khám và tư vấn phụ khoa ưu việt.

        Chi tiết dịch vụ: 
        Chi tiết dịch vụ
         Giải thích 
        Nữ
        Khám phụ khoa
        Kiểm tra các vấn đề về phụ khoa
        x
        Soi cổ tử cung

        x
        Xét nghiệm tầm soát UT cổ tử cung theo phương pháp hiện đại của Hoa Kỳ  (Thinprep Pap test)
         Kiểm tra và phát hiện tế bào bất thường ở cổ tử cung, viêm nhiễm do một số  nhân gây bệnh đặc biệt ( virút, ký sinh trùng, vi khuẩn )
        x
        Soi nhuộm dịch âm đạo
         Kiểm tra phát hiện các bệnh viêm nhiễm phụ khoa
        x
        Siêu âm phụ khoa
        Phát hiện bệnh lý tử cung, niêm mạc tử cung và buồng trứng
        x
        Trọn gói đề xuất
        500,000

        Thứ Sáu, 26 tháng 8, 2016

        PHÒNG KHÁM SIÊU ÂM 4D TẠI SỐ 2A, Ngõ 217, PHỐ MAI DỊCH

        PHÒNG KHÁM SIÊU ÂM MÀU 4D THUỘC PHÒNG KHÁM ĐA KHOA HỮU NGHỊ VIỆT PHÁP


        PHÒNG KHÁM SIÊU ÂM MÀU 4D THUỘC PHÒNG KHÁM ĐA KHOA HỮU NGHỊ VIỆT PHÁP
        Uy tín – Chính xác – An toàn – Tận tâm
        Địa chỉ:  112 PHỐ MAI DỊCH – CẦU GIẤY – Hà Nội
        Điện thoại: 0988410350 – 0985893920 ( BS CK 1 Cường )
        Email: vietphapclinic@yahoo.com
        Giờ làm việc:
              Các tối từ thứ 2 đến thứ 6: Từ 7h30 h – 20h 30’ làm cả thứ 7, chủ nhật và ngày lễ.
        Việc siêu âm thai nhi là điều vô cùng quan trọng, ngoài việc cung cấp các thông tin y tế cần thiết như: Dự kiến ngày sinh em bé, xác định đa thai, dị tật bẩm sinh, kiểm tra tăng trưởng và phát triển của bé... thì nó còn giúp cha mẹ bước đầu giao tiếp với con mình và có những hình ảnh đầu tiên về con. Vậy! để tất cả các cuộc vượt cạn đều được mẹ tròn con vuông, các sản phụ cần khám thai và siêu âm đúng theo  chỉ dẫn của bác sỹ.





        Phòng khám siêu âm màu 4D tại 112, Phố Mai dịch – Cầu giấy – Hà Nội, tự hào là phòng khám đi đầu trong lĩnh vực:
        +  Phát hiện sớm dị tật thai nhi cùng với bệnh lý sản phụ khoa.
        + Phát hiện sớm các khối u cùng với các bệnh lý thuộc các cơ quan trong ổ bụng (gan, thận…)
        + Phát hiện sớm các bệnh lý tim và mạch máu.
        + Phát hiện sớm các khối u vùng cổ, ngực và một số cơ quan khác.


        Một số phản hồi của khách hàng sau khi đến với phòng khám siêu âm màu 4D - 42 Ngô Thì Nhậm – Hai Bà Trưng – Hà Nội:
        1. Mình là Phương Thị Nhàn (38 tuổi) ở Đống Đa – Hà Nội:
        Ngày 21/02/2011 mình đến PK siêu âm thuộc Phòng khám Đa khoa Hữu Nghị Việt Pháp tại 112, Phố Mai dịch, Cầu Giấy  siêu âm màu 4 chiều thai nhi. Sau khi siêu âm BS. Bùi Quang Thắng kết luận con mình được 23 tuần 2 ngày và bị “nang ống mật chủ bẩm sinh”. BS. Thắng bảo đây là một loại dị tật bẩm sinh lành tính về đường mật, khi sinh ra sẽ phẫu thuật nội soi bóc nang và không ảnh hưởng đến sự phát triển của bé. Sau khi siêu âm chỗ BS. Thắng mình đi khám lại tại bệnh viện C, tại đây các bác sĩ cho mình đi chụp cộng hưởng từ thai nhi và cũng cho kết quả giống với kết quả của BS. Thắng  là con mình bị Nang ống mật chủ bảm sinh”. Sau đó 1  thời gian mình sinh bé và khi bé được 4 tháng tuổi mình đưa bé đến bệnh viện nhi TW làm phẫu thuật bóc nang. Đến nay cháu được 6 tháng tuổi, cháu phát triển khỏe mạnh bình thường. Qua đây mình xin gửi lời cảm ơn đến BS. Thắng vì đã phát hiện sớm cho con mình, nhờ đó cháu được điều trị kịp thời…

        Thứ Hai, 11 tháng 7, 2016

        hư thế nào được gọi là hẹp bao quy đầu?

        Trong tình trạng dương vật cương cứng nhưng bao quy đầu không kéo xuống để lộ quy đầu được thì đó là biểu hiện cho thấy tình trạng hẹp bao quy đầu.Hai dạng chính của hẹp bao quy đầu là hẹp bao quy đầu sinh lý và bệnh lý.

        Hẹp bao quy đầu sinh lý

        Hẹp bao quy đầu sinh lý thường gặp ở trẻ sơ sinh khi có sự kết dính nhẹ giữa mặt ngoài quy đầu với phần da bên trong. Bệnh gây cản trở việc lộn bao quy đầu đến rãnh quy đầu. Loại này được gọi là hẹp bao quy đầu sinh lý, thông thường sau 2 – 3 năm sẽ tự biến mất, không ảnh hưởng đến sức khỏe của người bệnh.


        Mặt ngoài của bao quy đầu và phần da bên trong kết dính với nhau giúp bảo vệ dương vật và lỗi tiểu. Khi dương vật phát triển, các lớp tế bào chết dần được thay tế. Các lớp tế bào thượng bì được bong ra, tạo thành chất màu trắng nằm trong bao quy đầu. Nếu trẻ bị hẹp bao quy đầu, các chất cặn bẩn này không được loại bỏ sẽ tạo điều kiện cho vi khuẩn phát triển và gây viêm nhiễm. Đa số, hẹp bao quy đầu sinh lý gặp ở bé trai mới sinh, sau 2 – 3 tuổi sẽ giảm dần là khi 14 tuổi, chỉ còn khoảng 1% trẻ nam mắc hiện tượng này.

        Hẹp bao quy đầu bệnh lý

        Hẹp bao quy đầu bệnh lý là một số trường hợp dù nam giới bước vào tuổi trưởng thành nhưng bao quy đầu vẫn không thể tuột xuống được, được gọi là hẹp bao quy đầu bệnh lý. Hẹp bao quy đầu bệnh lý gồm 2 cấp độ:Hẹp bao quy đầu hoàn toàn và hẹp bao quy đầu không hoàn toàn (hay còn gọi là bán hẹp bao quy đầu).

        Hẹp bao quy đầu hoàn toàn là hiện tượng bao quy đầu bít kín hoàn toàn quy đầu dương vật và chỉ để hé ra một lỗ nhỏ như lỗ kim để thoát nước tiểu. Bao quy đầu hoàn toàn không thể kéo xuống được.


        Bán hẹp bao quy đầu là hiện tượng bao quy đầu chỉ bị hẹp ở mức độ nhẹ, vẫn để lộ ra một phần hoặc một nửa quy đầu dương vật. Bao quy đầu vẫn có thể kéo xuống được khi dương vật ở trạng thái bình thường, nhưng khi dương vật cương cứng thì không thể kéo xuống được, hoặc kéo xuống được thì bị nghẹt bao quy đầu ở rãnh quy đầu và bao quy đầu có cảm giác căng, đau, rát.

        Theo như bạn mô tả thì rất có thể bạn đang bị hẹp bao quy đầu. Tuy nhiên để xác định chắc chắn bạn có bị hẹp bao quy đầu hay không thì cần đến nagy cơ sở y tế chuyên khoa để được chẩn đoán chính xác và điều trị hiệu quả.

        Hẹp bao quy đầu nếu không điều trị kip thời sẽ dẫn đến hiện tượng viêm dương vật, Dễ dẫn đến viêm nhiễm thậm chí gây ra các bệnh về cơ quan sinh dục. Vậy khi có bất cứ biểu hiện nào của hẹp bao quy đầu bạn cần đi khám và điều trị kịp để tránh gây nhiều biến chứng khôn lường thậm chí là nguyên nhân thứ phát dẫn đến vô sinh ở nam.



        Phòng khám VIỆT PHÁP với công nghệ hiện đại, y bác sĩ nhiệt tình và chu đáo với bệnh nhân. Phòng khám được đánh giá là cóchất lượng . Phòng khám đã và đang áp dụng công nghệ vào cắt bao quy đầu. Với công nghệ cắt bao quy đầu sẽ không đau và hiệu quả cũng như chất lượng sẽ vượt trội hơn bình thường.

        Trên đây là những chia sẻ của bác sĩ phòng khám VIỆT PHÁP  về vấn đề như thế nào được gọi là hẹp bao quy đầu?. Vì dung lượng bài viết có hạn nên không thể truyền đạt hết được tất cả các vấn đề. Bạn có thể liên hệ với các chuyên gia nam khoa của chúng tôi để được tư vấn miễn phí.
         
        Qua điện thoại:0988410350

        Tất cả mọi thắc mắc của các bạn sẽ nhanh chóng được giải đáp.

        Thứ Bảy, 21 tháng 5, 2016

        Lồng ruột ở trẻ em

        Lồng ruột ở trẻ em: các khái niệm hiện nay về chẩn đoán

        Intussusception in Children: Current Concepts in Diagnosis and Enema Reduction

        Gloria del-Pozo, MD,
        José C. Albillos, MD,
        Daniel Tejedor, MD,
        Rosa Calero, MD,
        Miguel Rasero, MD,
        Urbano de-la-Calle, MD,
        Ulpiano López-Pacheco, MD
        March 1999 RadioGraphics, 19, 299-319.
        —————————-
        LỒNG RUỘT Ở TRẺ EM: CÁC KHÁI NIỆM HIỆN NAY TRONG CHẨN ĐOÁN VÀ THỤT THÁO LỒNG.
        (Bài này xuất bản đã lâu nhưng tôi đọc lại về chủ đề lồng ruột trẻ em chưa thấy có thay đổi đáng kể. Bài dài nên tôi sẽ chia và post làm 2 phần: chẩn đoán và thụt tháo lồng).
        GIỚI THIỆU
        Lồng ruột là một trong các nguyên nhân phổ biến nhất gây đau bụng cấp ở trẻ nhỏ. Lồng ruột xảy ra khi một phần ống tiêu hóa (intussusceptum-phần ruột bị lồng) lồng vào đoạn kế tiếp (intussucipiens-phần ruột nhận lồng). Bệnh thường xảy ra ở trẻ từ 6 tháng tới 2 tuổi. Trong nhóm tuổi này, lồng ruột là tự phát trong hầu hết các trường hợp. Phần lớn là lồng hồi tràng-manh tràng. Trong quá khứ, lồng ruột là bệnh nặng với tỉ lệ tử vong và di chứng cao. Hiện nay, chẩn đoán nhanh chóng và điều trị hiệu quả đãn đến những kết cực thuận lợi ở hầu hết các trường hợp bệnh.
        Trong nhiều trường hợp bệnh, các triệu chứng lâm sàng có thể gây nhầm lẫn. Thực tế, chỉ 30%-68% trẻ có dấu hiệu lâm sàng gợi ý lồng ruột được chứng thực là có lồng ruột [1-8]. Do đó, các phương tiện chẩn đoán mong ước là không độc hại để tránh khả năng gây độc với trẻ, giảm các tác dụng phụ với các trường hợp bệnh thực sự, và bớt các phiền phức trong khám xét. Về điểm này, các phương pháp chẩn đoán truyền thống là phim Xquang thường và thụt ruột [9] đang được thay thế bằng X quang thường và siêu âm [1,2,5,7,10-18].
        Siêu âm có độ chính xác cao trong chẩn đoán lồng ruột: độ nhạy 98%-100%, độ đặc hiệu 88%-100% [1,5,7,11,13,15,17,19,20]. Hơn nữa, dùng siêu âm có thể đưa đến một chẩn đoán thay thế (thí dụ bệnh lý ngoài đường ruột), điều này không dễ có được khi sử dụng phương pháp chẩn đoán thụt chất cản quang baryt [1,10]. Do đó siêu âm là phương pháp chẩn đoán thay thế thụt thuốc cản quang, và thụt chỉ dành cho mục đích điều trị [1,5,10,11,18].
        ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG
        Tam chứng cổ điển đau bụng cơn cấp, phân đỏ sền sệt như thạch (nguyên văn là currant-jelly stools = thạch lý chua) hay phân có máu (hematochezia), và sờ thấy khối ổ bụng gặp ở ít hơn 50% trẻ lồng ruột [10]. Biểu hiện khởi phát của các triệu chứng ổ bụng không đặc hiệu, chủ yếu là nôn, không ỉa máu (thường trong các trường hợp dưới 48 tiếng), và thường không thu được tiền sử đáng tin cậy do trẻ chưa biết nói dẫn tới việc bỏ qua chẩn đoán lồng ruột trong gần 50% các trường hợp [21].
        Hơn nữa, trong một số tình huống trẻ ngủ lịm hoặc co giật là triệu chứng và dấu hiệu nổi trội; tình huống này khiến người ta nghĩ tới rối loạn thần kinh hơn là lồng ruột [22]. Cuối cùng, một số trường hợp chẩn đoán bị chậm trễ nên biểu hiện là sốc không rõ nguyên nhân. Bệnh cảnh lâm sàng còn mờ hơn nữa khi các bệnh phổ biến khác (cơn đau bụng trẻ nhỏ, viêm dạ dày ruột) hoặc bệnh ít phổ biến (viêm ruột thừa, túi thừa Meckel biến chứng) có thể khởi đầu giả lồng ruột. Trên căn cứ không chắc chắn của lâm sàng, phần lớn các trường hợp lồng ruột cần dựa vào chẩn đoán hình ảnh.
        CHẨN ĐOÁN BẰNG X QUANG THƯỜNG
        Nhiều dấu hiệu X quang thường qui đã được mô tả. Hay gặp nhất là một khối mô mềm, thường thấy ở một phần tư trên phải ổ bụng xoá bờ gan gần kề. Các dấu hiệu khác bao gồm giảm khí trong ruột non hoặc bụng ít khí, khí trong một ruột thừa bị di lệch, và tắc ruột non [8,9,23,24]. Các dấu hiệu xq thường đặc trưng nhất là dấu hiệu hình bia (target sign) và dấu hiệu mặt khum (meniscus sign, còn gọi là hình thấu kính). Dấu hiệu hình bia gồm có một khối mô mềm chứa các vòng tròn đồng tâm hoặc các viền đồng tâm sáng, chúng do mỡ mạc treo của khối lồng tạo nên. Khối thường thấy ở 1/4 trên phải ổ bụng phủ trước thận phải [23,25](Hình 1). Dấu hiệu mặt khum (thấu kính) bao gồm một liềm khí bên trong lòng đại tràng viền quanh đỉnh của khối lồng (intussusceptum-phần ruột bị lồng)[26](Hình 2). Ngược lại, nhận ra manh tràng chứa đầy khí hoặc phân ở vị trí bình thường là một dấu hiệu cho phép loại trừ lồng ruột với độ tin cậy cao [8]. Độ chính xác của X quang thường qui trong chẩn đoán hoặc loại trừ lồng ruột từ 40% tới 90% [8,27,28].
        Hình 1. Dấu hiệu hình bia. Phim X quang thường cho thấy khối mô mềm hình tròn ở 1/4 trên phải ổ bụng. Khối chứa các vòng tròn sáng.
        Hình 2. Dấu hiệu mặt khum (thấu kính). Phim X quang thường cho thấy dấu hiệu mặt khum: một khối mô mềm hình tròn (intussusceptum-phần ruột bị lồng) lồi vào trong đại tràng ngang chứa đầy khí (intussuscepiens-phần ruột nhận lồng).
        Vai trò truyền thống của chụp X quang thường qui trong đánh giá trẻ nghi bị lồng ruột thể hiện ở 3 tình huống: (a) Khi mức độ nghi ngờ lâm sàng thấp, X quang cho phép loại trừ lồng ruột và chẩn đoán những bệnh khác gây triệu chứng ở bệnh nhân. (b) Khi mức độ nghi ngờ lâm sàng cao, X quang cho phép xác nhận lồng ruột. (c) Nếu có lồng ruột, X quang cho phép loại trừ tắc ruột hoặc thủng.
        Khi các triệu chứng ổ bụng không rõ và sự nghi ngờ lâm sàng của lồng ruột là thấp, phim xq thường qui có thể đưa tới các chẩn đoán khác. Mặt khác, phát hiện lượng khí lớn trong các quai ruột non bình thường, gồm cả manh tràng, gợi ý chẩn đoán cơn đau bụng trẻ con hoặc liệt ruột do nhiễm trùng trong hoặc ngoài ổ bụng. Trong các trường hợp đó, không yêu cầu thêm các biện pháp chẩn đoán hình ảnh khác. Không thường xuyên, việc phát hiện đông đặc một trong các thùy dưới của phổi hoặc sỏi phân đưa đến các chẩn đoán khác chứ không phải lồng ruột. Do độ nhạy của bất cứ phương pháp chẩn đoán hình ảnh nào trong bệnh cảnh các triệu bụng không đặc hiệu đều thấp nên chụp X quang thường qui được dùng như phương pháp sàng lọc ban đầu.
        Khi có hai hoặc nhiều hơn các triệu chứng chính của lồng ruột, mức độ nghi ngờ lâm sàng là cao. Trong bệnh cảnh có tiềm năng gây tử vong này, một chẩn đoán âm tính giả là không thể bảo vệ được; chính một chẩn đoán như vậy (âm tính giả) có thể xảy ra khi chỉ dùng có X quang thường [8,26,27]. Do đó, trong các trường hợp nghi ngờ lâm sàng cao có lồng ruột, sử dụng một phương tiện chẩn đoán có độ nhạy cao (như là kiểm tra siêu âm, thụt) là bắt buộc. Trong các trường hợp như vậy không cần thiết chụp phim thường, đặc biệt nếu các triệu chứng diễn ra trong khoảng thời gian ngắn (< 8 tiếng) [8,10,13,16].
        Mục đích thứ ba của chụp X quang thường qui là kiểm soát các biến chứng do lồng ruột kéo dài: tắc và thủng ruột. Tắc ruột được phát hiện một cách dễ dàng trên các phim X quang thường qui. Sự xuất hiện của tắc ruột không ngăn cản các phương pháp thụt tháo lồng hoặc nhất thiết thay đổi điều trị bệnh nhân. Nếu thủng được phát hiện, phẫu thuật được chỉ định. Tuy nhiên theo kiến thức của chúng tôi chưa có báo cáo nào về lồng ruột có tràn khí phúc mạc là một phát hiện X quamg ban đầu, ngay cả trong các trường hợp thủng được phát hiện khi phẫu thuật [8,10, 29-35]. Do đó, có một khả năng thấp là thủng trong lồng ruột được loại trừ bằng X quang thường qui.
        Với các lý do đã kể trên, người ta không khuyên chụp X quang thường qui khi mức độ nghi ngờ lâm sàng cao với lồng ruột. Trong hoàn cảnh này, chúng tôi tin rằng nên dùng siêu âm là phương tiện chẩn đoán hình ảnh đầu tiên. Tuy nhiên, khi các dấu hiệu lâm sàng gây bối rối và các triệu chứng là mập mờ, nên dùng X quang là phương tiện chẩn đoán ban đầu.
        CHẨN ĐOÁN BẰNG THỤT
        Thụt barýt là một tiêu chuẩn tham chiếu đối với chẩn đoán lồng ruột trong nhiều năm. Thực tế, thụt dịch hoặc thụt khí là phương tiện chẩn đoán chính ở nhiều trung tâm. Các dấu hiệu cổ điển của lồng ruột trong khảo sát thụt là dấu hiệu mặt khum và dấu hiệu lò xo (coiled spring). Dấu hiệu mặt khum (thấu kính) trong khảo sát bằng thụt tương tự với dấu hiệu mặt khum trong phim X quang thường qui và được tạo ra bởi đỉnh tròn của phần ruột bị lồng (intussusceptum) lồi vào cột thuốc cản quang (Hình 3a). Dấu hiệu lò xo được tạo ra khi các nếp niêm mạc phù ở lớp quặt ra của phần ruột bị lồng được phủ bởi chất cản quang trong lòng đại tràng (Hình 3b).
        Hình 3 (a, b). Dấu hiệu mặt khum (thấu kính) và dấu hiệu lò xo. (a) Dấu hiệu mặt khum trong lòng đại tràng chứa đầy thuốc cản quang.
        Hình 3 (b). Dấu hiệu mặt khum (thấu kính) và dấu hiệu lò xo.  (b) Hình từ thủ thuật tháo lồng chưa hoàn toàn cho thấy dấu hiệu lò xo. Thuốc cản quang xen vào các bề mặt niêm mạc giáp nhau của phần đại tràng nhận lồng và phần đại tràng bị lồng.
        Độ chính xác cao của siêu âm trong chẩn đoán lồng ruột, mức an toàn và sự thuận tiện lớn của siêu âm khiến chúng tôi và các nhiều nhà nghiên cứu khác dành thụt ruột cho mục đích điều trị. Một thiếu sót tiềm tàng của phương pháp này là siêu âm không sẵn 24 giờ trong ngày ở tất cả các trung tâm.
        CHẨN ĐOÁN BẰNG SIÊU ÂM
        Siêu âm có độ nhạy cao trong chẩn đoán lồng ruột (98%-100%) [1,5,7,11,13,15,17,19,20]. Khối lồng là một cấu trúc lớn, thường lớn hơn 5 x 2,5cm, nó thường đẩy các quai ruột gần kề; nó được nhận ra một cách dễ dàng, thậm chí với cả những người làm siêu âm ít kinh nghiệm [5,10]. Phần lớn các khối lồng (loại hồi-đại tràng) xảy ra ở vùng dưới gan. Bởi vì sự xuyên sâu của chùm siêu âm là không cần thiết với trẻ nhỏ, nên có thể dùng đầu dò độ phân giải cao (5-10 MHz) để tăng độ nét của ảnh.
        Các nghiên cứu ban đầu về hình thái của khối lồng báo cáo về hình giả thận (pseudokidney) hoặc bánh rán (doughnut) bao gồm một vòng ngoài giảm âm và vùng trung tâm tăng âm. Hình này tương tự với dấu hiệu siêu âm của các bệnh lý đường ruột khác gây dày thành ruột [12,36-39]. Các hình thái đặc trưng của lồng ruột đã được báo cáo, bao gồm dấu hiệu nhiều vòng đồng tâm [40] và dấu hiệu liềm bên trong hình bánh (cressent-in-doughnut sign) trên mặt cắt ngang [17] và dấu hiệu bánh kẹp (sandwich)[1,41] hoặc cái chĩa cỏ (hayfork sign)[42] trên mặt cắt dọc. (Trong siêu âm lồng ruột, thuật ngữ ngangdọc liên quan đến trục của khối lồng).
        Một khối lồng có cấu trúc phức tạp (Hình 4,5). Đoạn ruột nhận lồng (quai nhận) chứa đoạn ruột bị lồng gấp nếp lại (quai tới), nó có hai thành phần: lớp vào và lớp quặt ra. Mạc treo ruột bị kéo vào giữa lớp vào và lớp quặt ra. Thành phần dày nhất của quai tới là lớp quặt ra, nó cùng với quai nhận (mỏng) tạo thành vòng ngoài giảm âm trên mặt cắt ngang. Trung tâm của khối lồng chứa lớp vào có độ dày bình thường và được bao quanh lệch tâm bởi mạc treo tăng âm.
        Hình 4. Cấu trúc của một khối lồng. Biểu đồ biểu diễn mặt cắt dọc và 3 mặt cắt ngang của khối lồng; 3 quai ruột và mạc treo có thể thấy rõ. Đoạn ruột nhận lồng (A) chứa hai lớp của đoạn ruột bị lồng: lớp quặt ra (B) bị phù, và lớp vào (C) ở trung tâm của khối lồng kèm theo mạc treo (M). Mạc treo có một vài hạch bạch huyết (L). MS = chỗ tiếp xúc của các bề mặt niêm mạc đoạn ruột nhận lồng và lớp quặt ra, S = chỗ tiếp xúc của bề mặt thanh mạc lớp quặt ra và lớp vào ở trung tâm.
        Hình 5 (a, b). Cấu trúc cắt ngang của khối lồng trên siêu âm và mẫu bệnh tương ứng từ lợn cho thấy dấu hiệu hình bánh rán (doughnut sign): vòng ngoài giảm âm được tạo bởi lớp quặt ra của khúc ruột bị lồng (B) và khúc ruột nhận lồng (A), vùng trung tâm biến đổi theo từng mức cắt. C = lớp trung tâm của khúc ruột bị lồng (lớp vào). (a, b) Siêu âm (a, hình trên) và mảnh bệnh học (b, hình dưới) ở đỉnh của một khối lồng (mặt cắt 1 trong Hình 4) cho thấy trung tâm giảm âm, nó  tương ứng với lớp trung tâm của đoạn ruột bị lồng không có mạc treo kèm theo. Lưu ý hình thái nhiều lớp, nó do 5 lớp của 3 quai ruột liên quan.
        Hình 5 (c, d). Cấu trúc cắt ngang của khối lồng trên siêu âm và mẫu bệnh tương ứng từ lợn cho thấy dấu hiệu hình bánh rán (doughnut sign): vòng ngoài giảm âm được tạo bởi lớp quặt ra của khúc ruột bị lồng (B) và khúc ruột nhận lồng (A), vùng trung tâm biến đổi theo từng mức cắt. C = lớp trung tâm của khúc ruột bị lồng (lớp vào). (c, d) Siêu âm (c, hình trên) và mảnh bệnh học (d, hình dưới) ở đáy (gần cổ) của khối lồng (mặt cắt 2 trong H. 4) cho thấy trung tâm tăng âm, hình liềm. Hình thái này xuất hiện khi mạc treo bao quanh lớp trung tâm của đoạn ruột bị lồng (the crescnet-in-doughnut sign).
        Hình 5 (e, f). Cấu trúc cắt ngang của khối lồng trên siêu âm và mẫu bệnh tương ứng từ lợn cho thấy dấu hiệu hình bánh rán (doughnut sign): vòng ngoài giảm âm được tạo bởi lớp quặt ra của khúc ruột bị lồng (B) và khúc ruột nhận lồng (A), vùng trung tâm biến đổi theo từng mức cắt. C = lớp trung tâm của khúc ruột bị lồng (lớp vào). (e, f) Siêu âm (e) và mảnh bệnh học (f) ở vị trí khác của đáy khối lồng (mặt cắt 3 trong Hình 4) cho thấy một vùng giảm âm thêm vào liềm tăng âm trung tâm. Vùng giảm âm này tương ứng với một hạch bạch huyết (L).
        Siêu âm cắt ngang
        Trên mặt cắt ngang của siêu âm, khối lồng có hình thái rất thay đổi, chủ yếu do lượng mạc treo bị cuốn theo. Mạc treo bị cuốn theo không có ở đỉnh của khối lồng và tăng dần hướng tới đáy khối lồng (cổ) (xem Hình 4, 5). Ngược lại, lớp quặt ra của đoạn ruột bị lồng dầy ở đỉnh hơn ở đáy. Do đó, lớp cắt ngang của siêu âm ở đỉnh cho thấy một vòng ngoài giảm âm với trung tâm giảm âm (Hình 6a). Trong một số trường hợp, hình thái nhiều vòng đồng tâm có thể thấy ở gần đỉnh (Hình 6b). Khi khảo sát siêu âm hướng tới đáy khối lồng, hình thái thay đổi dần do tăng lượng mạc treo ở trung tâm. Ở đáy khối lồng, kích thước của mạc treo lớn nhất; kết quả là một vòng ngoài giảm âm, trung tâm tăng âm hình liềm (the crescent-in-doughnut sign) (Hình 6c).
        Hình 6 (a). Các hình thái khác nhau trên các lớp siêu âm cắt ngang. C = lớp trung tâm của đoạn ruột bị lồng. (a) Lớp siêu âm ở đỉnh khối lồng cho thấy một vòng ngoài giảm âm phân cách với trung tâm giảm âm bởi một vòng tăng âm tương ứng với các bề mặt thanh mạc của đoạn ruột bị lồng (so sánh Hình 4 [mặt cắt 1], 5a, 5b). G = túi mật.
        Hình 6 (b). Các hình thái khác nhau trên các lớp siêu âm cắt ngang. C = lớp trung tâm của đoạn ruột bị lồng.  (b) Lớp cắt siêu âm ở gần đỉnh của khối lồng cho thấy nhiều vòng đồng tâm (một vòng tăng âm ở giữa, một vòng giảm âm ở trung tâm và ở ngoài). Vòng tăng âm được tạo bởi sự thêm vào của các bề mặt thanh mạc và dưới niêm mạc tăng âm của đoạn ruột bị lồng.
        Hình 6 (c). Các hình thái khác nhau trên các lớp siêu âm cắt ngang. C = lớp trung tâm của đoạn ruột bị lồng.  (c) Lớp cắt siêu âm ở đáy của khối lồng cho thấy lớp trung tâm của đoạn ruột bị lồng được bao lệch tâm bởi mạc treo tăng âm (M), tình huống tạo ra the crescent-in-doughnut sign (so sánh Hình 4 [mặt cắt 2], 5c, 5d).
        Các dấu hiệu trên siêu âm cắt dọc
        Trên mặt cắt dọc của siêu âm, sự sắp xếp của mạc treo có thể thấy ở một hoặc cả hai phía lớp trung tâm của đoạn ruột bị lồng, nó tạo ra sự biến đổi hình thái. Nếu đoạn giữa của khối lồng được ghi ảnh trên mặt cắt dọc, người ta thấy 3 dải giảm âm song song bị phân cách bởi 2 dải tăng âm. Dải giảm âm ngoài tương ứng với lớp quặt ra bị phù của đoạn ruột bị lồng và đoạn ruột nhận lồng có thành mỏng; dải giảm âm trung tâm là lớp trung tâm của đoạn ruột bị lồng. Dải tăng âm do mạc treo bị kéo theo quai ruột. Hình thái này được gọi là dấu hiệu bánh kẹp (sandwich sign) (Hình 7a). Dấu hiệu cái chĩa cỏ (hayfork sign) là một biến thể của sandwich sign được thấy ở đỉnh của khối lồng. Dấu hiệu cái chĩa cỏ gồm có ba vùng giảm âm song song nhau (các ngạnh của cái chĩa cỏ) tương ứng với các dải giảm âm trong sandwich sign. Các ngạnh được phân cách bởi hai dải tăng âm của mạc treo. Các ngạnh nối ở đỉnh nơi đoạn ruột bị lồng gập lại (Hình 7b). Dấu hiệu giả thận xảy ra nếu khối lồng bị cong hoặc ghi ảnh chếch và mạc treo (ở chỗ dày nhất) được thấy chỉ ở một mặt của lớp trung tâm của đoạn ruột bị lồng (Hình 7c).
        Hình 7 (a). Các hình thái khác nhau trên các lớp siêu âm cắt dọc. C = lớp trung tâm của đoạn ruột bị lồng, M = mạc treo. (a) Lớp cắt siêu âm đúng theo mặt phẳng dọc của khối lồng hơi xa đỉnh một chút cho thấy sandwich sign. Các dải giảm âm bên ngoài (mũi tên) biểu thị lớp quặt ra của đoạn ruột bị lồng bên dưới đoạn dưới đoạn ruột nhận lồng. Hai dải tăng âm là mạc treo. Dải giảm âm trung tâm là lớp trung tâm của đoạn ruột bị lồng.
        Hình 7 (b). Các hình thái khác nhau trên các lớp siêu âm cắt dọc. C = lớp trung tâm của đoạn ruột bị lồng, M = mạc treo. (b) Lớp cắt siêu âm dọc ở đỉnh của khối lồng cho thấy dấu hiệu cái chĩa cỏ, nó khác với sandwich sign ở chỗ mạc treo mỏng dần tới đỉnh. Ba ngạnh giảm âm của cái chĩa là các quai ruột liên quan bị phân cachs bởi mạc treo tăng âm. L = hạch bạch huyết.
        Hình 7 (c). Các hình thái khác nhau trên các lớp siêu âm cắt dọc. C = lớp trung tâm của đoạn ruột bị lồng, M = mạc treo.  (c) Lớp cắt siêu âm cho thấy dấu hiệu giả thận. Mạc treo nằm ở một phía của lớp trung tâm của đoạn ruột bị lồng.
        Các dấu hiệu biến thể trên siêu âm cắt ngang
        Vòng ngoài.– Vòng ngoài thường giảm âm đồng nhất, đặc biệt ở đỉnh của khối lồng. Đôi khi, vòng ngoài đồng âm hoặc thậm chí tăng âm so với nhu mô gan gần kề (Hình 8a). Biến thể này thường thấy ở đáy hoặc giữa khối lồng. Chúng tôi đã quan sát thấy đậm độ âm của vòng ngoài tăng khi trẻ có một cơn đau bụng. Trong các trường hợp khác, các lớp khác nhau của thành ruột trong khối lồng đã được bộc lộ và tạo thành hình ba hoặc nhiều lớp (Hình 8b). Hình thái này có thể liên quan ít hơn đến mức độ tổn thương mạch máu của ruột. Hình nhiều lớp thường xảy ra ở đáy của khối lồng và đôi khi xyar ra ở đỉnh của khối lồng trong giai đoạn đầu. Cuối cùng, đôi khi thấy các chấm tăng âm nằm giữa bề mặt niêm mạc của đoạn ruột nhận lồng và lớp quặt ra của đoạn ruột bị lồng (Hình 8c). Những chấm đó có thể do khí bị kẹt lại hoặc do loét niêm mạc.
        Hình 8 (a). Các dạng biến đổi của vòng ngoài. (a) Siêu âm cắt ngang cho thấy vòng ngoài (đầu mũi tên) tăng âm so với gan gần kề (L). Hình thái này thấy ở trẻ có cơn đau bụng.
        Hình 8 (b). Các dạng biến đổi của vòng ngoài. (b) Siêu âm cắt ngang cho thấy các dải tăng âm và giảm âm (mũi tên) tạo bởi nhiều lớp của thành đoạn nhận lồng và lớp quặt ra của đoạn ruột bị lồng (hình nhiều lớp).
        Hình 8 (c). Các dạng biến đổi của vòng ngoài. (c) Siêu âm cắt ngang cho thấy một dải nhiều chấm tăng âm giữa đoạn ruổ nhận lồng (A) mỏng và lớp quặt ra của đoạn ruột bị lồng (B). Đầu các mũi tên chỉ vòng ngoài.
        Liềm mạc treo.– Mạc treo bị kéo vào trong khối lồng cùng với đoạn ruột bị lồng có hình liềm khi ghi ảnh ở mặt phẳng ngang. Liềm mạc treo tăng tâm nhưng thường chứa các ổ giảm âm (các hạch bạch huyết, mạch máu, phức hợp manh tràng-ruột thừa) (Hình. 9). Các hình dạng biến đổi đó thường thấy tại đáy hoặc gần đáy khối lồng (cổ khối lồng).
        Hình 9 (a). Các hình dạng biến đổi của liềm mạc treo. C = lớp trung tâm của đoạn ruột bị lồng. (a) Siêu âm cắt ngang qua đáy khối lồng thấy the crescent-in-doughnut sign bị sửa đổi bởi hai nốt bạch huyết (L) (so sánh H. 4 [mặt cắt 3]. 5e, 5f).
        Hình 9 (b). Các hình dạng biến đổi của liềm mạc treo. C = lớp trung tâm của đoạn ruột bị lồng.  (b) Siêu âm cắt ngang qua đáy của khối lồng cho thấy thấy the crescent-in-doughnut sign bị sửa đổi bởi phức hợp manh tràng-ruột thừa (mũi tên).
        Hình 9 (c). Các hình dạng biến đổi của liềm mạc treo. C = lớp trung tâm của đoạn ruột bị lồng.  (c) Siêu âm cắt ngang qua đáy của khối lồng cho thấy thấy the crescent-in-doughnut sign bị sửa đổi do ruột thừa (mũi tên) và các mạch máu xen vào (các chấm giảm âm).
        Lớp trung tâm của đoạn ruột bị lồng.– Lớp trung tâm (của quai ruột bị lồng) bị xẹp lại trong hầu hết các trường hợp bệnh. Trong những trường hợp hiếm, người ta có thể thấy một ít dịch trong lòng của lớp này. Thêm vào, với hình ảnh thời gian thực thì người ta có thể thấy khí hoặc dịch đi trong lòng của lớp này trong trường hợp lồng ruột không tắc (Hình 10).
        Hình 10 (a). Các dạng biến đổi của lớp trung tâm của khối đoạn ruột bị lồng. (a) Siêu âm cắt ngang cho thấy một ít dịch (F) bên trong lòng của lớp trung tâm.
        Hình 10 (b). Các dạng biến đổi của lớp trung tâm của khối đoạn ruột bị lồng. (b) Siêu âm cắt ngang cho thấy một vùng tăng âm (mũi tên) với bóng cản âm. Hình này do khí đi qua lòng của lớp trung tâm.
        Lồng ruột có dịch phúc mạc bị giữ lại
        Sự xuất hiện của dịch phúc mạc bị giữ lại bên trong một khối lồng ruột tương quan có ý nghĩa với thiếu máu cục bộ và không thể phục hồi được [18]. Thật may, biến chứng này có tỷ lệ thấp ở các nước phát triển, dưới 15% các trường hợp. Dịch đó phản ánh tổn thương mạch máu của lớp quặt ra, tụ lại giữa các lớp thanh mạc ở cả hai lớp của đoạn ruột bị lồng. Mạc treo đóng vai trò như một cái chêm và ngăn dịch chảy vào khoang phúc mạc.
        Trên các lớp cắt ngang của siêu âm, biến chứng này xuất hiện là dấu hiệu liềm kép (the double-crescent-in-doughnut sign). Thêm vào với hình liềm bên trong khối lồng thông thường là một liềm trống âm tương ứng với dịch bị giữ lại (Hình 11). Trong các giai đoạn tiến triển, quai ruột bị lộn ra có thể trở nên giãn nhiều khả năng do thiếu máu cục bộ và lượng dịch bị kẹt tăng lên. Giãn chủ yếu diễn ra ở bờ tự do (đối diện bờ mạc treo); kết quả là sự phân bố không đối xứng của dịch [18]. Trên siêu âm, dịch phân bố không đối xứng có thể giả một quai ruột giãn (như closed-loop obstruction, tắc do xoắn) hoặc nang ruột đôi (duplication cyst) [43]. Trái lại, một lượng nhỏ dịch tự do trong ổ bụng gặp trong 50% các trường hợp (Hình 12). Sự xuất hiện của riêng dấu hiệu này không liên quan rành mạch với thiếu máu cục bộ hoặc tăng nguy cơ thủng ruột [5, 44, 45].
        Hình 11 (a,b). Dịch phúc mạc bị giữ lại. (a) Siêu âm cắt ngang thấy dấu hiệu liềm kép trong khối lồng, liềm trống âm (F) do dịch bị giữ lại.
        Hình 11 (a,b). Dịch phúc mạc bị giữ lại. (b) Siêu âm cắt dọc qua đỉnh khối lồng thấy đoạn ruột bị lồng chứa đầy dịch.
        Hình 12. Dịch phúc mạc tự do. Siêu âm cắt ngang cho thấy một lượng nhỏ dịch phúc mạc tự do (F) sát khối lồng có dấu hiệu nhiều vòng đồng tâm. G = túi mật.
        Dòng chảy của mạch máu trên siêu âm Doppler
        Các báo cáo nghiên cứu thời kỳ đầu gợi ý rằng không có dòng chảy của máu ở đỉnh của một khối lồng khi siêu âm Doppler liên quan với hoại tử ruột và là một dấu hiệu của không hồi phục [15,46,47]. Tiếp theo, một nghiên cứu lớn hơn đã chứng minh rằng khi dòng chảy của máu không thấy trên siêu âm Doppler thì tỷ lệ tháo lồng thấp hơn [48]. Tuy nhiên, trong nghiên cứu đó, hoại tử ruột đã không tương quan về thống kê với không có tín hiệu Doppler. Sự xuất hiện dòng chảy của máu trên siêu âm Doppler gợi ý rằng lồng ruột nên được tháo lồng (Hình 13). Thật không may, siêu âm Doppler không có sẵn 24 giờ trong ngày ở nhiều trung tâm.
        Hình 13 (a). Sử dụng siêu âm Doppler để đánh giá lồng ruột. Siêu âm Doppler ở đỉnh (a), giữa (b), và đáy (c) của khối lồng cho thấy dòng chảy của máu bên trong đoạn ruột bị lồng (a, b) và mạc treo (c). Khối lồng ruột này có thể tháo được.
        Hình 13 (b). Sử dụng siêu âm Doppler để đánh giá lồng ruột. Siêu âm Doppler ở đỉnh (a), giữa (b), và đáy (c) của khối lồng cho thấy dòng chảy của máu bên trong đoạn ruột bị lồng (a, b) và mạc treo (c). Khối lồng ruột này có thể tháo được.
        Hình 13 ( c). Sử dụng siêu âm Doppler để đánh giá lồng ruột. Siêu âm Doppler ở đỉnh (a), giữa (b), và đáy (c) của khối lồng cho thấy dòng chảy của máu bên trong đoạn ruột bị lồng (a, b) và mạc treo (c). Khối lồng ruột này có thể tháo được.
        Lồng ruột có các điểm dẫn
        Hầu hết các trường hợp lồng ruột trẻ em là tự phát; trong đó người ta không tìm thấy một bất thường giải phẫu đóng vai trò như một điểm dẫn (lead point) ngoại trừ hạch bạch huyết bị phì đại. Các điểm dẫn gây lồng ruột như túi thừa Meckel, nang ruột đôi, polyp, u (như lymphoma) thì hiếm ở trẻ ẵm ngửa (< 5% các trường hợp). Các điểm dẫn gây lồng ruột phổ niến hơn ở trẻ sơ sinh (< 30 ngày tuổi), hoặc trẻ lớn (> 5 tuổi), và các trường hợp chỉ xảy ra ở ruột non [49]. Thí dụ, lồng ruột non hay gặp trong hội chứng Peutz-Jeghers, Schonlein-Henoch purpura và sau phẫu thuật.
        Mặc dù các điểm dẫn có thể được phát hiện với nghiên cứu thụt thuốc cản quang [50], chúng dễ bị bỏ qua thậm chí giảm đi với kỹ thuật này [2,51]. Siêu âm cho phép phát hiện và mô tả tính chất của các điểm dẫn tốt hơn thụt thuốc cản quang [2,10,52,53].