Thứ Ba, 26 tháng 6, 2012

Điều đáng sợ nhất trong chuyện tình dục

Điều đáng sợ nhất trong chuyện tình dục
26/06/2012 08:34 (GMT +7)
Dù là nam giới hay phụ nữ thì cũng có những khó khăn trong chuyện tế nhị. Và nhiều khi những khó khăn này lại chính là những nỗi sợ hãi của hai giới.
Với nữ giới
Phụ nữ vốn "kín tiếng" nên không nhiều người muốn mang chuyện "phòng the" của mình để chia sẻ với người khác. là bí mật và ngần ngại thể hiện vấn đề tình dục, họ đã trải qua. Tuy nhiên, nếu không có nguyên nhân cụ thể, không bao giờ có chuyện người phụ nữ đột nhiên không muốn quan hệ tình dục với "đối tác".
 
Theo báo cáo của Tạp chí của Hiệp hội Y khoa Mỹ (JAMA), thì có 3 vấn đề tình dục phổ biến nhất làm người phụ nữ lo lắng mà từ chối chuyện tình dục.
 
1. Không có ham muốn tình dục
 
Không có hoặc giảm ham muốn tình dục là hiện tượng có thể gặp phải ở cả nam và nữ giới nhưng thường xảy ra ở phụ nữ nhiều hơn. Nguyên nhân của việc thiếu ham muốn tình dục có thể là bởi vì căng thẳng, mệt mỏi do vấn đề công việc, các vấn đề cá nhân, hoặc đang trong thời gian điều trị bệnh.
 
2. Khó khăn để đạt được cực khoái
 
Cực khoái là vấn đề nan giải ở rất nhiều phụ nữ, hầu như mọi người phụ nữ đều gặp vấn đề khi cố mong đạt cực khoái. Theo thống kê của các nhà khoa học,75% phụ nữ chưa bao giờ lên đỉnh và 10-15% không hề biết đến hương vị khoái cảm trong tất cả các lần quan hệ.
 
Một số nguyên nhân được cho rằng là "thủ phạm" khiến chị em khó đạt "cực khoái" là: tự ti về cơ thể, xấu hổ, kiềm chế bản thân, bệnh tật hoặc stress.
 
3. Đau khi "yêu"
 
Cơn đau trong khi quan hệ tình dục mà người phụ nữ phải chịu rất có thể là do thiếu sự bôi trơn âm đạo hoặc lạc nội mạc tử cung. Trong một số trường hợp, đau khi quan hệ tình dục cũng có thể do tình trạng bẩm sinh của cơ thể hoặc yếu tố thể chất của một người.
 
Với nam giới
 
Còn đối với cánh mày râu, điều quan trọng nhất trong "chuyện vợ chồng" lại là chuyện "chào cờ". Bất lực dường như là kẻ thù của phái mạnh. Sự bất lực thể hiện ở chỗ người đàn ông không thể đạt được sự cương cứng cần thiết. Điều này có thể do yếu tố thể chất hoặc tâm lý gây ra, nếu không kịp thời điều trị có thể dẫn đến liệt dương hoàn toàn.
 
Liệt dương hoàn toàn là tình trạng "khủng khiếp" nhất mà người đàn ông phải chịu đựng. Liệt dương hay bất lực có thể do những nguyên nhân dưới đây gây nên.
 
Chấn thương
 
Quá trình cương cứng diễn ra thành hai giai đoạn. Máu được dẫn truyền qua các xung động thần kinh đến các cơ quan cần thiết, từ đó, các cơ quan này phát tín hiệu truyền đến não. Tuy nhiên, khi một trong những cơ quan này không làm việc, sự cương cứng sẽ không xảy ra.
 
Điều này có thể do chấn thương gây ra, chẳng hạn như các rối loạn bàng quang, sau khi phẫu thuật tuyến tiền liệt, hoặc các tổn thương khác ở hông và cột sống.
 
Vấn đề sức khỏe
 
Điều kiện sức khỏe suy giảm cũng trở thành một trong những nguyên nhân của chứng bất lực. Các bệnh như cao huyết áp, tiểu đường, xơ vữa động mạch... sẽ có ảnh hưởng đến các dây thần kinh, động mạch, tim, gan và thận. Ngoài ra, xơ vữa động mạch, và bệnh tiểu đường cũng góp phần làm tăng nguy cơ bất lực này.
 
Các nguyên nhân khác của sự suy giảm khả năng sinh dục có thể là do giảm rối loạn tuyến sinh dục hoặc tinh hoàn không sản xuất đủ tetosteron.
 
Thuốc
 
Đôi khi việc sử dụng các loại thuốc cũng gây ra hiệu ứng bất lực. Do đó, trước khi sử dụng những loại thuốc như an thần, thuốc ngủ, thuốc chống trầm cảm, huyết áp cao, và các thuốc ức chế sự thèm ăn... tốt nhất nên tham khảo tư vấn của bác sĩ trước tiên.
 
Béo phì
 
Đối với nam giới, thừa cân cũng có thể ảnh hưởng đến khả năng sinh sản. Béo phì có thể làm tăng nguy cơ bất lực, đặc biệt là trong khi mắc thêm các bệnh như huyết áp cao, tiểu đường, đột quỵ, và trầm cảm. Các nghiên cứu còn nói rằng những người đàn ông béo phì có nhiều khả năng bị rối loạn chức năng cương dương hơn so với những người đàn ông cân nặng bình thường.
Theo TTVN
 

Việt Nam đạt mục tiêu của Tổ chức Y tế Thế giới về điều trị bệnh lao

Việt Nam đạt mục tiêu của Tổ chức Y tế Thế giới về điều trị bệnh lao

Việt Nam đã trở thành quốc gia đầu tiên ở Á châu đạt chỉ tiêu do Tổ chức Y tế Thế giới đề ra để giúp hơn 85% bệnh nhân lao khỏi bệnh và cung cấp sự chữa trị cho hơn 70% các ca bệnh được phát giác.

Hãng tin Bernama trích thuật tin tức báo chí Việt Nam nói rằng các số liệu vừa kể được loan báo hôm chủ nhật tại một buổi lễ kỷ niệm 55 năm ngày thành lập Bệnh viện Phổi Trung ương.

Ông Đinh Ngọc Sỹ, Giám đốc Bệnh viện Phổi Trung ương, cho biết bệnh nhân lao ở Việt Nam được điều trị theo phương pháp DOTS hay điều trị hóa trị ngắn ngày, với tỉ lệ khỏi bệnh từ 87% đến 90,5%.

Theo báo chí Việt Nam, chương trình chống lao của quốc gia Đông Nam Á này được Tổ chức Y tế Thế giới đánh giá là một hình mẫu của công tác chống lao có ảnh hưởng tích cực đến cộng đồng.

Nguồn; Bernama, Sai Gon Giai Phong

'Thai phụ tử vong ở Bắc Ninh do biến chứng bất khả kháng'

'Thai phụ tử vong ở Bắc Ninh do biến chứng bất khả kháng'

Công an thành phố Bắc Ninh vừa công bố kết luận thai phụ Trần Thị Loan tử vong tại Bệnh viện Đa khoa Kinh Bắc ngày 21/4 là do tắc mạch ối. Vụ việc từng gây xôn xao dư luận khi người nhà đưa quan tài sản phụ đến bắt đền bệnh viện.
> Đưa quan tài vào bệnh viện bắt đền / 3 sản phụ tử vong liên tiếp, Bộ Y tế đề nghị báo cáo gấp

Một cán bộ công an thành phố Bắc Ninh cho biết, căn cứ kết luận giám định pháp y của Viện khoa học hình sự Bộ Công an, đơn vị này vừa mời gia đình sản phụ Trần Thị Loan tới trụ sở để thông báo kết luận và trao quyết định không khởi tố vụ án này.
Thông báo cũng cho biết thai nhi chết là do ngạt ối.
Thân nhân chị Loan đưa cả ảnh, quan tài và bát hương chị đến Bệnh viện Đa khoa Kinh Bắc (Bắc Ninh) để bắt đền. Ảnh: Tiến Hoàng.
Thông báo nêu rõ, căn cứ theo tài liệu khoa học, tắc mạch ối là một biến chứng sản khoa nguy hiểm, tử vong cao, không thể đoán trước và không thể dự phòng. Đối chiếu với luật khám chữa bệnh và những kết luận của các cơ quan chuyên môn, Công an TP Bắc Ninh xác định việc sản phụ Trần Thị Loan và thai nhi bị chết tại Bệnh viện Đa khoa Kinh Bắc ngày 21/4 là một sự cố bất khả kháng, không có dấu hiệu của tội phạm hình sự nên quyết định không khởi tố và chấm dứt các hoạt động điều tra.
Sáng 20/4, chị Trần Thị Loan ở xã Phúc Xuyên - thành phố Bắc Ninh, được người thân đưa vào Bệnh viện đa khoa Kinh Bắc chuẩn bị sinh. Khi đó, sức khỏe của chị Loan hoàn toàn bình thường. Gia đình đề nghị bệnh viện cho mổ đẻ nhưng các bác sĩ cho rằng sản phụ có sức khỏe tốt để đẻ thường. Trong quá trình sinh, cả hai mẹ con chị Loan đã tử vong. Sau đó vài ngày, Bệnh viện đa khoa Kinh Bắc đã tạm đình chỉ công tác kíp trực để phục vụ điều tra.

Ca sinh 4 hiếm gặp tại Việt Nam

Ca sinh 4 hiếm gặp tại Việt Nam

Chị Trần Thị Tình ở Lai Vung, Đồng Tháp, mang tứ thai vừa được các bác sĩ Bệnh viện Từ Dũ (TP HCM) mổ bắt con thành công. Đây là trường hợp thụ thai thường sinh bốn hiếm gặp, tỷ lệ một trong 700.000 ca.

Bác sĩ Trần Ngọc Hải, Trưởng phòng Kế hoạch tổng hợp Bệnh viện Từ Dũ cho biết, chị Tình nhập viện ngày 20/6 khi mang thai 32 tuần tuổi. Do sản phụ có dấu hiệu dọa sinh non, tiền sản giật nên các bác sĩ chỉ định mổ bắt con.
Sức khỏe của bốn bé khá tốt và đang chờ được xuất viện. Ảnh: Thiên Chương.
Bốn bé gái lần lượt được đưa ra khỏi bụng mẹ với cân nặng 1,5 kg, 1,2 kg, 1,6 kg và 1,7 kg. Do sinh non tháng nên các cháu được chăm sóc đặc biệt tại khu hồi sức sơ sinh để chiếu đèn photobed chống vàng da và xông ôxy mũi.
Đến chiều nay, tức 6 ngày sau khi chào đời, bé nhẹ cân nhất đã có thể tự thở và bú được 6 ml mỗi ngày. Ba cháu còn lại sức khỏe tốt nhưng dạ dày chưa ổn định nên còn bú ít sữa.
Các bác sĩ khoa Sơ sinh cho biết, các bé vẫn phải tiếp tục ở lại bệnh viện để được chăm sóc. Ngoài ra, các bác sĩ cũng hướng dẫn thêm cho sản phụ cách cho bú cũng như chăm sóc bốn bé khi xuất viện (dự kiến ngày 27/6).
Dần hồi phục sức khỏe sau ca phẫu thuật, chị Tình cho biết đây là lần mang thai thứ 3 của mình. Lần đầu là một bé trai sinh năm 2000 và con thứ hai là bé gái sinh năm 2006.
Theo các bác sĩ, đây là ca mang tứ thai hiếm gặp, phải 700.000 trường hợp mới có một ca. Tại Bệnh viện Từ Dũ, năm 2006 cũng có một trường hợp sinh bốn và hiện các bé này đều khỏe mạnh.

Phạt tiền phòng khám Trung Quốc như 'nước đổ đầu vịt'

Phạt tiền phòng khám Trung Quốc như 'nước đổ đầu vịt'

15 triệu đồng là số tiền mà một phòng khám có bác sĩ Trung Quốc ở quận 11, TP HCM, đóng phạt khi bị phát hiện mắc nhiều sai phạm. Số tiền này chỉ bằng chi phí mà họ thu từ 1 đến 2 bệnh nhân chữa phụ khoa hoặc cắt trĩ.
> 'Không thể cứ sai phạm là đóng cửa phòng khám TQ'

Cuối năm 2011, phòng khám đa khoa Đầm Sen, quận 11, bị phát hiện hàng loạt sai phạm về hồ sơ, sổ sách, có bác sĩ Trung Quốc hành nghề nhưng chưa chứng minh được bằng cấp. Sở Y tế đã xử phạt phòng khám này hơn 15 triệu đồng. Ngày 20/6, cơ sở này lại bị bắt lỗi tương tự.
Tương tự, phòng khám y học cổ truyền Trung Quốc ở Phú Nhuận từng bị phạt 15 triệu đồng do sai phạm; đến hôm 19/6 lại bị phát hiện hoạt động ngoài chức năng cho phép, có sử dụng bác sĩ Trung Quốc nhưng không trình được bằng cấp.
Một phòng khám ở quận 5 sử dụng “bác sĩ” Trung Quốc để điều trị nhưng không trình bằng cấp hành nghề, bị Thanh tra Sở Y tế TP HCM xử phạt 2 lần với số tiền gần 30 triệu đồng. Thế nhưng khi tái kiểm tra, cơ sở này vẫn có nhiều sai phạm.
Giá điều trị trọn gói cho một bệnh nhân mắc trĩ, bệnh phụ khoa cần can thiệp bằng máy móc tại các phòng khám cổ truyền Trung Quốc không dưới 10 triệu đồng. Ảnh: Thiên Chương.
Theo các trưởng phòng y tế của một số quận huyện, thực trạng trên cho thấy, so với doanh thu phòng khám, số tiền nộp phạt vi phạm không bõ bèn gì.
Theo bác sĩ Vũ Anh Sơn, Trưởng phòng Y tế quận 10, mức xử phạt hành chính từ 15 đến 20 triệu đồng là không cao và đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến phòng khám từng bị xử lý vẫn "ngựa quen đường cũ".
Một bác sĩ trưởng phòng y tế quận giấu tên cho rằng, chỉ cần từ 1 đến 2 bệnh nhân đến mổ trĩ hoặc chữa viêm phụ khoa thì phòng khám đã đủ tiền đóng phạt. Bác sĩ này cũng cho biết, nếu xử phạt đúng theo Nghị định số 96 về “Quy định xử phạt vi phạm hành chính về khám bệnh, chữa bệnh” thì mức phạt có thể cao hơn. Tuy nhiên dù cao thì hình thức này vẫn chưa đủ tính răn đe.
“Cần có các biện pháp xử lý mạnh hơn, nghiêm khắc hơn. Bởi so với số tiền mà các phòng khám thu được từ bệnh nhân thì tiền đóng phạt là quá nhỏ. Các cơ sở này có thể không sợ và tiếp tục sai phạm theo kiểu bất chấp”, bác sĩ này nói.
Luật sư Trịnh Thanh, Văn phòng luật sư Người nghèo tại TP HCM, cho biết, hành vi cung cấp dịch vụ khám chữa bệnh vượt quá chuyên môn trong giấy phép; sử dụng bác sĩ nước ngoài không đăng ký; cho mượn giấy phép hoạt động, quảng cáo không đúng sự thật, không đúng chuyên môn đều có thể bị xử phạt hành chính và bồi thường thiệt hại về dân sự cho bệnh nhân (nếu có thiệt hại).
"Trường hợp gây tổn hại nghiêm trọng về sức khỏe, hoặc tính mạng của bệnh nhân thì chủ cơ sở hoặc bác sĩ, nhân viên trực tiếp gây thiệt hại còn có thể bị xử lý hình sự với mức 1-15 năm tù", ông Thanh nói.
Cũng theo luật sư Thanh, Nghị định 96 đã quy định tương đối đầy đủ những hành vi vi phạm, biện pháp xử phạt hành chính trong lĩnh vực khám chữa bệnh, như: phạt tiền, tước quyền sử dụng giấy phép hoạt động có thời hạn đến vô thời hạn.
"Việc tước giấy phép là một biện pháp khả thi khiến đối tượng bị phạt sợ hơn cả, vì thất thu, mất khách và có thể dẫn đến phá sản”, ông Thanh nêu quan điểm.
Máy ngưng hoạt động là chiêu mà các phòng khám ứng phó với thanh tra. Ảnh: Thiên Chương.
Bác sĩ Phạm Kim Bình, Quyền Chánh Thanh tra Sở Y tế TP HCM thừa nhận chuyện các cơ sở khám chữa bệnh có yếu tố Trung Quốc tái phạm nhiều lần dù đã bị xử phạt.
"Cũng chính vì điều này, kể từ nay, chúng tôi sẽ kiên quyết hơn trong xử lý. Cụ thể đợt này, chúng tôi đề nghị xử phạt phòng khám 141 Phan Đăng Lưu hơn 40 triệu đồng và rút giấy chứng nhận đủ điều kiện hành nghề y tế", ông Bình nói.
Cùng với mức độ và hình thức xử phạt chưa đủ răn đe, việc kiểm tra không thường xuyên của cơ quan chức năng cũng là nguyên nhân khiến các phòng khám có bác sĩ Trung Quốc tự do hoạt động.
Theo bác sĩ Phạm Kim Bình, mỗi năm Sở đều có hai đợt kiểm tra các hoạt động khám chữa bệnh. Tuy nhiên toàn thành phố có đến hơn 14.000 cơ sở nên việc này không thể triệt để. Ngoài ra, do các phòng khám chưa bị kiểm tra đoán được thông tin nên tìm cách đối phó.
Cũng theo ông Bình, do số lượng phòng khám tư quá đông nên Sở đã phân cấp quản lý cho các phòng y tế quận huyện thành lập các đoàn thanh tra, kiểm tra. Song, tổng kết công tác thanh tra hằng năm đều cho thấy, lượng cơ sở khám chữa bệnh bị phát hiện sai phạm là chưa cao. Cụ thể, năm 2011, kiểm tra 581 cơ sở thì chỉ có 93 cơ sở vi phạm.
Lý giải điều này, đại diện các phòng y tế cho rằng họ chưa có quyền đầy đủ. Bác sĩ Vũ Anh Sơn, Trưởng Phòng y tế quận 10 cho biết, ngoài 2 đợt kiểm tra theo chỉ đạo từ Sở, hoặc từ đơn thư khiếu nại từ Sở chuyển xuống, còn lại, phòng y tế quận huyện không có quyền tự kiểm tra các phòng khám. Các thanh tra viên cũng không ai có thẻ thanh tra.
"Đó là chưa kể các phòng khám muốn hoạt động thì đều đã có giấy phép hợp pháp. Chỉ nhìn bằng cảm tính khó lòng biết họ vi phạm như thế nào, mức độ vi phạm ra sao. Chúng tôi nếu muốn kết luận sai phạm thì phải bắt tận tay", ông Sơn nói.
Phân tích nguyên nhân khiến phòng khám rởm vẫn còn tồn tại, ngoài mức phạt quá nhẹ, việc kiểm tra chưa thường xuyên, nhiều bác sĩ giấu tên còn cho rằng có trách nhiệm của phòng Quản lý dịch vụ y tế tư nhân (Sở Y tế TP HCM).
"Là đơn vị trực tiếp cấp phép và quản lý, lẽ ra trong hậu kiểm sau cấp phép, nếu phát hiện các phòng khám sai phạm, phòng Quản lý dịch vụ y tế tư nhân phải sớm báo Thanh tra Sở để xử lý. Đằng này, nhiều phòng khám dù được cấp phép vẫn ngang nhiên vi phạm, mãi đến khi báo chí hoặc người bệnh tố giác thì thanh tra mới biết", một bác sĩ nói.
Trao đổi với VnExpress.net liên quan đến việc quản lý phòng khám tư nhân, Tiến sĩ Nguyễn Tấn Bỉnh, Giám đốc Sở Y tế TP HCM cho biết đã yêu cầu kiểm tra lại các phòng khám để tổng hợp báo cáo theo chỉ đạo của Bộ Y tế và UBND thành phố.

Thứ Hai, 25 tháng 6, 2012

NGUY CƠ THAI GIÀ TUỔI

Thai già tuổi và nguy cơ khó lường
24/06/2012 11:28 (GMT +7)
Một nghiên cứu mới đây cho biết, những trẻ sinh sau tuần thứ 42 của thai kỳ có nguy cơ cao mắc phải các chứng rối loạn hành vi, trong đó tiêu biểu là sự hiếu động thái quá.
Theo một nghiên cứu mới công bố tại Hà Lan được đăng trên Báo Dịch tễ quốc tế (International Journal Of Epidemiology) cho thấy, trong số hơn 5000 trường hợp trẻ em ra đời từ năm 2001 đến năm 2005, những trẻ sinh sau tuần thứ 42 của thai kỳ có nguy cơ cao mắc phải các chứng rối loạn hành vi, trong đó tiêu biểu là sự hiếu động thái quá. 
 
Một cuộc thăm dò ở các bậc cha mẹ có con từ 18 đến 36 tháng, Trung tâm nghiên cứu y tế của thành phố Rotterdam ghi nhận trẻ sinh trong giai đoạn sau 42 tuần có khả năng mắc chứng hiếu động thái quá gấp 2,5 lần so với các trẻ sinh đúng tuần tuổi (từ tuần thứ 37 đến 42 của thai kỳ).
Tuy nhiên, các tác giả của cuộc nghiên cứu này cũng thừa nhận công trình của họ không khẳng định chắc chắn mối liên hệ trực tiếp giữa việc tuần thai quá già với chứng tăng động ở trẻ sau này. Bởi kết quả này chưa tính tới các yếu tố khác như: cân nặng, vóc dáng của người mẹ, chất lượng giáo dục và sự tiêu thụ chất cồn và thuốc lá của người mẹ khi mang bầu.
Theo các bác sỹ sản phụ khoa, thời điểm tốt nhất để trẻ chào đời là ở tuần thứ 41 của thai kỳ. Sau thời kỳ này, nhau thai – bộ phận quan trọng cung cấp nguồn thức ăn nuôi dưỡng trẻ sẽ bắt đầu bị già đi và điều này đe dọa tới sức khỏe cũng như tính mạng của trẻ. Người ta cũng ghi nhận nhịp tim thai có thể có dấu hiệu bất thường và gây nên những tác hại tiêu cực cho trẻ sau khi sinh như: tổn thương thần kinh hoặc thiểu năng hệ thần kinh vận động.
Theo Mask Online

Bỗng nhiên sụt cân, coi chừng mất mạng

Bỗng nhiên sụt cân, coi chừng mất mạng
25/06/2012 15:23 (GMT +7)
Cứ 4 người sụt cân nhiều ngoài ý muốn thì 1 người tử vong trong vòng 18 tháng sau. Vì vậy bạn đừng coi thường điều này.
Một số nghiên cứu cho thấy, sụt cân nhiều ngoài ý muốn thường dẫn đến tử vong, tỷ lệ là 25%, trong vòng 18 tháng sau. Sụt cân đáng kể ở người cao tuổi có tỷ lệ tử vong là 9 - 38%, trong thời gian 2-3 năm sau. Sụt cân ngoài ý muốn, nhất là ở người cao tuổi, làm tăng tỷ lệ bệnh tật và tử vong. Đây là dấu hiệu để phát hiện người cao tuổi bị trầm cảm, mắc bệnh đường tiêu hóa hay ung thư.
80% bệnh nhân trầm cảm sụt cân
Điều trị cho người cao tuổi bị bệnh phổi tại BV Phổi TƯ
Bệnh nhân sụt cân thường có liên quan đến một cơ quan trong cơ thể và thường đi kèm một số biểu hiện điển hình như: Bệnh cường giáp với cảm giác trong người nóng, ra mồ hôi, rụng tóc, đánh trống ngực, thèm ăn, căng thẳng, mất ngủ, nuốt nghẹn, mắt lồi, run tay, bướu cổ hoặc rối loạn kinh nguyệt. Bệnh đái tháo đường: ăn nhiều, uống nhiều, tiểu nhiều, gầy nhiều và khát nước nhiều. Bệnh bướu tuyến thượng thận: xuất hiện với cơn cao huyết áp kèm theo lo lắng, nhức đầu, cảm giác hồi hộp vùng tim, xanh xao, nóng, đổ mồ hôi, và giảm cân. Nếu mắc ung thư thường biểu hiện với triệu chứng: mệt mỏi, giảm cân, ra mồ hôi ban đêm, sốt nhẹ và giảm sự thèm ăn.
Bệnh lý nhiễm trùng như bệnh lao, bệnh nấm, nhiễm ký sinh trùng, HIV có thể gây ra tình trạng giảm cân, mệt mỏi, sốt, đổ mồ hôi ban đêm, đau khớp và giảm sự thèm ăn. Bệnh suy thượng thận: biểu hiện chán ăn, thờ ơ, giảm cân, buồn nôn, nôn mửa, yếu cơ và tiêu chảy. Bệnh suy tim sung huyết thường biểu hiện với mệt mỏi và khó thở lúc nghỉ ngơi hoặc gắng sức, đi kèm phù, tím tái, gan to và cổ trướng. Bệnh phổi thường biểu hiện với khó thở lúc nghỉ ngơi hoặc gắng sức, ho và khạc đàm, cơ thể suy nhược, thở nhanh, thở khò khè, xanh tím, biến dạng lồng ngực, đầu ngón tay. Giảm trọng lượng và giảm  thèm ăn được tìm thấy khoảng 70 - 80% bệnh nhân trầm cảm có mức độ từ trung bình đến nặng.

Ngoài ra còn nhiều nguyên nhân sụt cân ở người cao tuổi như: rối loạn tiêu hóa kém hấp thu, tắc nghẽn ống tiêu hóa do khối u, do xơ teo; khí phế thũng; suy thận; bệnh răng miệng; giảm vị giác và khứu giác; bệnh Parkinson, sa sút tâm thần; cô đơn, nghèo túng, mất mát người thân, sa sút mức sống.
Điều trị theo nguyên nhân
Theo bác sĩ Đỗ Khánh Hỷ, Viện Lão khoa Trung ương, sụt cân là biểu hiện của nhiều bệnh, do đó chủ yếu là phải điều trị nguyên nhân gây sụt cân. Để xác định nguyên nhân gây sụt cân, người bệnh cần được hỏi bệnh kỹ lưỡng, thăm khám toàn diện, đánh giá tình trạng dinh dưỡng, kế đến là làm các xét nghiệm cần thiết. Có đến 25% trường hợp sụt cân không chủ ý ở người lớn tuổi không tìm ra nguyên nhân.

Vì vậy, cần tăng cường ăn uống cho bệnh nhân, tăng khả năng hấp thu, giảm quá trình làm mất calo như giảm hoạt động, giảm quá trình tiêu hao calo. Có thể sử dụng phương pháp nội khoa để điều trị các bệnh nội khoa như: lao, trầm cảm, tiểu đường, các bệnh nhiễm khuẩn; phương pháp phẫu thuật dùng điều trị các bệnh ung thư, các khối u lành tính trong ống tiêu hóa. Việc tăng cường dinh dưỡng cho bệnh nhân là một cách điều trị sụt cân tích cực và có hiệu quả. Một lưu ý quan trọng là xem xét sử dụng thuốc, vì có những loại thuốc có thể gây chán ăn.
Theo Minh Ninh

Chủ Nhật, 24 tháng 6, 2012

Bạn biết hết mọi điều về tình dục?

Hóc môn nào quan trọng đối với ham muốn tình dục, có nên nói cho người ấy biết mình muốn gì không?… Chuyên gia Sản phụ khoa sẽ giúp bạn trả lời những câu hỏi đó, theo Time of India.

Alicia Stanton, bác sĩ Sản phụ khoa, tác giả công trình Cân bằng hóc môn, một trong những chuyên gia hàng đầu tại Mỹ về trị liệu hóc môn và sức khỏe phụ nữ.
Qua quá trình tiếp xúc và điều trị cho cả nam và nữ, bà đã tổng kết những quan điểm chưa chính xác có liên quan mật thiết đến tình dục và ham muốn .
1. Hóc môn duy nhất quan trọng đối với ham muốn tình dục là testosteron
Mặc dù testosteron rất quan trọng đối với ham muốn tình dục và chức năng tình dục của cả nam lẫn nữ, nhưng những hóc môn khác cũng có vai trò nhất định.
2. Nếu bạn khỏe mạnh, bạn sẽ luôn muốn quan hệ tình dục
 Bạn biết hết mọi điều về tình dục? Sự đam mê có thể lây nhiễm - Ảnh minh họa: Shutterstock
Ham muốn tình dục cũng có nhiều mức độ khác nhau. Tần suất quan hệ tình dục phù hợp là khi cả bạn và người bạn đời đều cảm thấy hạnh phúc với tần suất quan hệ ấy. Bạn không nhất thiết phải so sánh với người khác.
3. Nếu bạn đã kết nối với người ấy, bạn không cần phải yêu cầu người ấy làm những gì bạn muốn
Đừng ngại việc trò chuyện với nhau về tình dục. Trao đổi về tình dục đặc biệt có ý nghĩa quan trọng khi bạn bước vào một giai đoạn mới, chẳng hạn như sinh con, mãn kinh ở nữ hay mãn dục ở nam.
Nếu bạn nhận thấy có những thay đổi trên cơ thể hay thay đổi về ham muốn tình dục, hãy nói cho người ấy biết. Đặc biệt, trao đổi với nhau về những gì khiến bạn cảm thấy  khi quan hệ sẽ giúp cả hai có những trải nghiệm thú vị hơn.
4. Mỗi người đều có bộ phận nhạy cảm tình dục nhất
Bạn nên nhớ rằng, bộ phận nhạy cảm tình dục nhất chính là não của bạn. Bạn luôn có khả năng chọn lựa cách mà bạn cảm nhận, cách mà bạn suy nghĩ về tình dục.
Nếu bạn nghĩ rằng bản thân mình rất đáng được người ấy khao khát, đó là liều thuốc kích thích tình dục rất hiệu nghiệm. Nếu bạn có cảm giác mình hấp dẫn đến mức người ấy không thể cưỡng lại được, người ấy sẽ cảm nhận đúng như vậy. Sự đam mê có thể lây nhiễm.
5. Chỉ có phụ nữ mới bị suy giảm ham muốn tình dục
Mặc dù suy giảm ham muốn tình dục phổ biến hơn ở phụ nữ, nhưng nam giới cũng gặp phải rắc rối này.
6. Hứng thú tình dục giảm khi mãn kinh
Nhiều phụ nữ vẫn duy trì được sự cân bằng hóc môn và hứng thú tình dục suốt thời kỳ mãn kinh. Mang thai và hành kinh không còn khiến họ lo lắng nữa.
Cảm giác tự nhiên, không gượng ép sẽ lên ngôi. Vì vậy,  mãn kinh đặc biệt tự tin hơn và biết rõ họ muốn gì. Tình dục sẽ tuyệt vời hơn bao giờ.
7. Vấn đề về hóc môn là nguyên nhân duy nhất làm suy giảm ham muốn tình dục ở phụ nữ
Sự mất cân bằng về hóc môn như nồng độ estrogen hoặc testosteron thấp, hoạt động của tuyến giáp giảm và còn nhiều nguyên nhân nữa làm suy giảm ham muốn tình dục.
Những rắc rối về mặt thể chất như đau và khô âm đạo, âm hộ cũng làm tăng sự xao lãng và giảm ham muốn. Các bệnh như ung thư, tiểu đường, cao huyết áp hay đau khớp cũng là nguyên nhân làm suy giảm  tình dục.

Phụ nữ nam tính thích tự sướng hơn là sex

Phụ nữ nam tính thích tự sướng hơn là sex

Ảnh minh họa: Sciencephoto.com.
Ảnh minh họa: Sciencephoto.com.

Từ lâu, người ta luôn tin là đàn ông thường ham muốn tình dục nhiều hơn phụ nữ vì họ có mức testosterone cao hơn. Thế nhưng, một nghiên cứu mới đây lại phát hiện, những chị em có nhiều hoóc môn nam lại không thích "yêu" bằng "tự sướng".
> Phụ nữ làm 'chuyện ấy' không phải vì thích

Một nhóm nghiên cứu từ Đại học Michigan (Mỹ) đã phát hiện, những phụ nữ có testosterone cao thích thủ dâm hơn là quan hệ với bạn tình.
Phát biểu trên LiveScience, trưởng nhóm nghiên cứu, bà Sara M Van Anders, Đại học Michigan cho biết, nhiều người vẫn cho là các nghiên cứu về tình dục quá tập trung vào điều trị các rối loạn chức năng và việc sử dụng dược phẩm hơn là giải đáp các thắc mắc xem làm thế nào để cuộc sống chăn gối được thăng hoa hay bớt căng thẳng.
"Đây là một trong số ít các nghiên cứu về những người trưởng thành khỏe mạnh. Hầu hết các nghiên cứu khác về ham muốn tình dục đều dựa trên mô hình động vật hay những người đang được điều trị vì các bất thường về nội tiết tố", bà nói.
Các nhà nghiên cứu đã yêu cầu 105 nam giới và 91 phụ nữ hoàn thành bảng câu hỏi về đời sống tình dục của mình, trả lời những vấn đề như "Bạn có cảm nhận được những thay đổi của cơ thể mình trong suốt quá trình ân ái?".
Những người này cũng cung cấp một mẫu nước bọt để xét nghiệm mức testosterone và hoóc môn gây ra stress là cortisol. Testosterone là một hoóc môn được bài tiết từ buồng trứng của phụ nữ và tinh hoàn của đàn ông và một phần từ tuyến thượng thận của cả hai giới.
Nhà nghiên cứu Van Anders phát hiện, mức độ testosterone không liên quan tới mức độ nam giới nghĩ về thủ dâm hoặc quan hệ tình dục. Tuy nhiên, những phụ nữ có hàm lượng hoóc môn nam tính testosterone cao thì ít muốn sex với ai đó.
Lý giải điều này, các nhà nghiên cứu cho biết có thể hoóc môn này đã thúc đẩy họ tìm kiếm bạn đời lâu dài, chứ không phải là bạn tình chớp nhoáng (bởi những phụ nữ đã có bạn đời lâu năm thì thường có hàm lượng testosterone thấp hơn).
Hoặc cũng có thể hàm lượng cao hoóc môn testosterone chỉ phản ánh rằng người phụ nữ đang bị stress nhiều hơn, chứ không phải phản ánh nhu cầu tình dục.
Nghiên cứu này đã được công bố trên tạp chí trực tuyến Archives of Sexual Behaviour

Nhiễm trùng huyết

Nhiễm trùng huyết

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bước tới: menu, tìm kiếm
Nhiễm trùng huyết hay nhiễm trùng máu hoặc sốc nhiễm trùng huyếthội chứng rối loạn chức năng đa cơ quan là những tập hợp bệnh lý rất thường gặp trong lâm sàng và đặc biệt nhất là trong các đơn vị hồi sức. Chỉ riêng ở Hoa kỳ thì mỗi năm có khoảng 750.000 mắc bệnh và 215.000 trường hợp tử vong chiếm 9,3% tổng số tử vong tại đất nước này. Như vậy đứng về số lượng thì tử vong do nhiễm trùng huyết tương đương với tử vong do nhồi máu cơ tim cấp và cao hơn nhiều so với AIDSung thư vú. Thời gian nằm viện trung bình là 19.6 ngày và chi phí điều trị cho mỗi trường hợp là 22 100 USD tức là khoảng 16,7 tỷ USD nếu tính trên toàn Hoa Kỳ. Mặc dù có nhiều tiến bộ vượt bậc trong hiểu biết cơ chế sinh lý bệnh của nhiễm trùng huyết cũng như sự phát triển của các phương tiện và kỹ thuật hồi sức tích cực nhưng tỉ lệ mắc bệnh cũng như tỉ lệ tử vong ngày càng tăng cao đều đặn trong những thập kỷ vừa qua.

Mục lục

Định nghĩa

Nhiễm trùng (Infection): Phản ứng viêm của tổ chức đối với sự hiện diện của vi sinh vật hoặc sự xâm nhập của vi sinh vật vào các tổ chức bình thường vốn vô trùng.
Vãng khuẩn huyết (Bacteremia): Có sự hiện diện của vi khuẩn sống trong máu.
Hội chứng đáp ứng viêm hệ thống (Systemic Inflammatory Response Syndrome -SIRS): Đáp ứng viêm hệ thống của cơ thể đối với các tác nhân cấp tính nặng khác nhau, đặc trưng bởi hai hay nhiều các triệu chứng lâm sàng sau:
  • Nhiệt độ tăng > 38 °C hoặc < 36 °C
  • Tần số tim > 90 lần/phút (Trên + 2SD so với giá trị bình thường theo tuổi ở trẻ em).
  • Tần số thở > 20 lần/phút hoặc PaCO2 < 32 mmHg (tự thở). (Trên + 2SD sơ với giá trị bình thường theo tuổi ở trẻ em).
  • Bạch cầu > 12 000 hoặc < 4000/ mm3, hoặc > 10% bạch cầu non (bạch cầu dạng đũa)
Nhiễm trùng huyết (Sepsis): Phản ứng hệ thống đối với nhiễm trùng biểu hiện bằng hai hay nhiều các triệu chứng sau đây
  • Nhiệt độ tăng > 38 °C hoặc < 36 °C
  • Tần số tim > 90 lần/phút (ở trẻ em trên + 2SD so với lứa tuổi)
  • Tần số thở > 20 lần/phút hoặc PaCO2 < 32 mmHg (tự thở). (ở trẻ em trên + 2SD so với lứa tuổi)
  • Bạch cầu > 12 000 hoặc < 4000/ mm3, hoặc > 10% bạch cầu non (bạch cầu dạng đũa).
Nhiễm trùng huyết nặng (Severe Sepsis): Nhiễm trùng huyết kèm với rối loạn chức năng cơ quan, giảm tưới máu. Giảm tưới máu và bất thường tưới máu có thể bao gồm hạ huyết áp, rối loạn phân bố máu, thiểu niệu hoặc thay đổi đột ngột tình trạng ý thức nhưng không chỉ giới hạn ở các biểu hiện này.
Hội chứng nhiễm trùng huyết (Sepsis Syndrome): Đáp ứng viêm hệ thống đối với nhiễm trùng đặc trưng bởi hai hay nhiều các triệu chứng sau đây:
a. Nhiệt độ cơ thể > 38 °C hoặc < 36 °C
b. Tần số tim > 90 lần/phút (ở trẻ em trên + 2SD so với lứa tuổi)
c. Tần số thở > 20 lần/phút hoặc PaCO2 < 32 mm Hg (tự thở). (ở trẻ em trên + 2SD so với lứa tuổi).
d. Có ít nhất một trong các dấu hiệu sau:
  • Thay đổi chức năng não (rối loạn ý thức).
  • PaO2 < 75 mmHg (thở bằng không khí phòng, bệnh nhân không có bệnh lý phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) trước đó)
  • Tăng cao nồng độ lactate huyết thanh
  • Thiểu niệu: < 30 ml/h hay < 0,5 ml/kg/h kéo dài trên 1 giờ.
Hội chứng rò rỉ mao mạch (Capillary Leak Syndrome): Là tình trạng tăng tính thấm của màng mao mạch đối với những đại phân tử do tổn thương trực tiếp cấu trúc màng mao mạch do các chất trung gian hoặc do tác động của các chất có tác động trên huyết động học (Catecholamine, Serotonin, Histamin).
Hạ huyết áp do nhiễm trùng huyết (Sepsis-Induced Hypotension): Hạ huyết áp do nhiễm trùng huyết được định nghĩa huyết áp tâm thu < 90 mm Hg, Hoặc huyết áp tâm thu giảm ≥ 40 mm Hg so với giá trị bình thường mà không do các tác nhân gây hạ huyết áp khác. Ở trẻ em, giá trị này là thấp hơn – 2SD so với giá trị bình thường theo tuổi.
Sốc nhiễm trùng huyết (Septic Shock): Sốc nhiễm trùng huyết là sốc gây ra do nhiễm trùng huyết biểu hiện bằng hạ huyết áp mặc dù được bù đầy đủ thể tích dịch, đi kèm với nhưng rối loạn về phân bố lưu lượng máu. Bệnh nhân được dùng các thuốc tăng co bóp tim hay vận mạch có thể không có hạ huyết áp lúc đo.
Sốc nhiễm trùng huyết kháng trị (Refractory Septic Shock): sốc nhiễm trùng huyết không có đáp ứng đối với đổ đầy tĩnh mạch (ví dụ 500ml huyết tương trong 30 phút và thuốc hoạt mạch như Dopamine 10μg/kg/phút).
Hội chứng rối loạn chức năng đa cơ quan (Multiple Organ Dysfunction Syndrome-MODS): Hiện diện rối loạn chức năng các cơ quan trong bệnh lý cấp tính mà nếu không có sự can thiệp thì hằng định nội môi của cơ quan đó không thể tái thiết lập.
Lưu ý: Thuật ngữ septicaemia trước đây được dùng để chỉ tình trạng nhiễm trùng có bằng chứng về sự sinh trưởng mạnh của vi khuẩn trong máu, thường hay được hiểu như là sepsis. Hiện nay thuật ngữ này không còn thông dụng và khuynh hướng bị loại bỏ hoàn toàn.

Dịch tễ học

Một khảo sát tiến cứu dựa theo mức độ của SIRS và nhiễm trùng huyết đã cho thấy rằng tỉ lệ tử vong tăng lên khi bệnh nhân có nhiều tiêu chuẩn của SIRS hoặc có nhiều biểu hiện của nhiễm trùng huyết. Tỉ lệ tử vong cao 3% ở nhzững bệnh nhân không có tiêu chuẩn chẩn đoán SIRS, 7% khi có hai tiểu chuẩn SIRS, 10% khi có 3 tiêu chuẩn SIRS, 17% khi có 4 tiêu chuẩn SIRS, 16% khi có biểu hiện nhiễm trùng huyết, 20% trong nhiễm trùng huyết nặng và 46% trong sốc nhiễm trùng huyết.
Mặc dù có sự khác nhau về con số cụ thể của nhiễm trùng huyết theo các nghiên cứu khác nhau, một điều thống nhất là tỉ lệ mắc bệnh ngày càng tăng rõ ràng. Tỉ lệ mắc mới (incidence) khoảng 1.06 lần trên 1000 bệnh nhân ngày đến 16 đến 260 lần trên 1000 bệnh nhân ngày. Có nhiều yếu tố khác nhau chịu trách nhiệm cho việc tăng cao tỉ lệ mới mắc này. Yếu tố quan trọng nhất có lẽ là sự tăng cao tỉ lệ hiện mắc (prevalence) các bệnh lý liên quan đến tình trạng suy giảm miễn dịch mạn tính như AIDS, các thuốc ức chế miễn dịch hay độc tế bào, suy dinh dưỡng, nghiện ruợu, bệnh lý ác tính, suy thận phụ thuộc vào thẩm phân, đái tháo đường, và tăng số lượng các trường hợp bệnh nhân ghép tạng. Các yếu tố khác có thể là gia tăng việc cấy các dụng cụ y khoa dài ngày vào cơ thể (catheter tĩnh mạch, các dụng cụ chỉnh hình…), các vi sinh vật đề kháng xuất hiện ngày càng nhiều và càng ngày càng nhiều bệnh nhân cao tuổi hoặc bệnh nhân mắc bệnh mạn tính.

Sinh lý bệnh

Mặc dù trong những thập niên vừa qua, y học đã đạt được những tiến bộ to lớn trong việc tìm hiểu nhiễm trùng huyết tuy nhiên đáng tiếc là hiện nay các nhà nghiên cứu y học vẫn chưa thể đưa ra một cơ chế sinh lý bệnh hoàn chỉnh có thể giải thích được tất cả những biểu hiện của nhiễm trùng huyết. Có những giả thuyết sinh lý bệnh khác nhau được đề nghị. Mỗi giả thuyết đều có những ưu điểm và những hạn chế của nó.

Thuyết đáp ứng viêm quá mức

Thuyết đáp ứng viêm quá mức (excessive inflammatory response) trở nên phổ biến nhờ các công trình của Lewis Thomas. Thomas cho rằng: "chính đáp ứng của cơ thể đối với sự hiện diện của vi khuẩn đã gây nên bệnh. Kho vũ khí chống vi khuẩn của chúng ta quá ư mạnh mẽ đến nỗi nó trở nên nguy hiểm hơn bản thân kẻ xâm lược".
Theo giả thuyết này, nhiễm trùng huyết là hậu quả của đáp ứng viêm hệ thống của cơ thể đối với nhiễm trùng nặng và xuất hiện khi những đáp ứng ban đầu của cơ thể trở nên mạnh mẽ và khuyếch đại quá mức đến mức không thể kiểm soát được. Trước sự xâm nhập của vi khuẩn, hệ miễn dịch tiên thiên (innate immune system) của cơ thể sẽ hoạt hóa nhiều hệ thống phòng vệ tế bào cũng như dịch thể khác nhau. Hậu quả của quá trình hoạt hóa quá mức này là sự giải phóng các chất trung gian gây viêm (proinflammatory mediator) từ tế bào nội mô, tế bào biểu bì cũng như bạch cầu đa nhân trung tính, đại thực bào và các tế bào lympho. Kết quả cuối cùng của đáp ứng viêm không kiểm soát được này là rối loạn tưới máu các cơ quan cũng như rối loạn vi tuần hoàn (microcirculation), rối loạn đông máu đưa đến hội chứng rối loạn chức năng đa cơ quan (MODS) và đây chính là nguyên nhân gây chết ở bệnh nhân nhiễm trùng huyết.

Thuyết suy giảm miễn dịch

Thuyết đáp ứng viêm quá mức không thể giải thích được tại sao một số bệnh nhân nhiễm trùng huyết lại có những biểu hiện của ức chế miễn dịch như mất hiện tượng quá mẫn muộn (delayed hypersensitivity), mất khả năng làm sạch vi khuẩn và có khuynh hướng dễ mắc nhiễm trùng bệnh viện (nosocomial infection). Hơn nữa các nghiên cứu lâm sàng sử dụng các chất chống viêm đã không mang lại hiệu quả như mong muốn.
Nguyên nhân thứ nhất có thể là do có hiện tượng chuyển từ pha tăng viêm (pro-inflammatory phase) trong giai đoạn sớm của bệnh sang pha chống viêm (anti-inflammatory phase) trong giai đoạn sau khi bệnh đã tiến triển. Người ta cũng phát hiện được rằng các tế bào CD4 được hoạt hóa có thể sản xuất các cytokine gây viêm và ngược lại cũng có thể giải phóng các cytokine kháng viêm. Trong trường hợp thứ nhất, các tế bào CD4 này có chức năng giống tế bào T hỗ trợ type 1 (type 1 helper T cell), nghĩa là chúng sản xuất các chất trung gian điều hòa viêm rất mạnh như yếu tố hoại tử khối u alpha (Tumor Necrosis Factor alpha ), interferon-gammainterleukin-2. Trong trường hợp thứ hai, các tế bào CD4 này có chức năng giống tế bào T hỗ trợ type 2 (type 2 helper T cell), nghĩa là chúng sản xuất các cytokine chống viêm như interleukin-4interleukin-10. Cơ chế nào quy định khi nào tế bào CD4 sẽ có chức năng như tế bào T hỗ trợ type 1 và khi nào chúng sẽ có chức năng như tế bào T hỗ trợ type 2 vãn chưa được biết.
Nguyên nhân thứ hai của tình trạng ức chế miễn dịch rất có thể là do hiện tượng chết tế bào theo chương trình (programmed cell death hay apoptosis). Trong nhiễm trùng huyết, các tế bào lympho, là tế bào chịu trách nhiệm chính trong miễn dịch tập nhiễm, các tế bào niêm mạc đường tiêu hóa, tuyến ức, gan, cơ vân... đều rơi vào hiện tượng chết tế bào theo chương trình này. Hiện tượng này nếu xảy ra càng mạnh mẽ thì hệ miễn dịch của cơ thể càng suy yếu.

Thuyết đông miên tế bào

Khám nghiệm tử thi những bệnh nhân tử vong vì nhiễm trùng huyết phát hiện rằng các tổn thương mô học không phù hợp với mức độ trầm trọng của hội chứng rối loạn chức năng đa cơ quan ở những cá thể này. Hiện tượng chết tế bào ở các cơ quan như tim, gan, thận, phổi tương đối nhẹ nhàng nếu so với biểu hiện lâm sàng suy giảm chức năng các cơ quan này. Rất có thể nhiễm trùng huyết đã làm cho tế bào trong cơ thể trở về trạng thái ít hoạt động nhất mặc dù tổn thương thực thể không quá nặng. Hiện tượng này được gọi là đông miên tế bào (cellular hibernation) .

Vai trò của các yếu tố di truyền

Dựa trên các nghiên cứu so sánh biểu hiện và tiên lượng của nhiễm trùng huyết giữa các cặp sơ sinh và giữa các trẻ khác nhau là con nuôi trong một gia đình, người ta nhận thấy yếu tố di truyền đóng một vai trò rất quan trọng trong nhiễm trùng huyết.
Các đột biến hoặc tính đa hình của các gene mã hóa cho các receptor TNF alpha, Interleukin-1 receptor và Toll-like receptor quyết định mức độ phản ứng viêm và phản ứng kháng viêm trong nhiễm trùng huyết.

Cơ chế gây rối loạn chức năng đa cơ quan

Nguyên nhân gây tử vong ở bệnh nhân nhiễm trùng huyết là rối loạn chức năng đa cơ quan. Một cách điển hình, đầu tiên bệnh nhân sẽ xuất hiện rối loạn chức năng một cơ quan ví dụ như suy hô hấp cần phải thông khí nhân tạo và sau đó nếu bệnh không được kiểm soát thì dần dần các cơ quan khác cũng bị suy chức năng. Có một mối tương quan chặt chẽ giữa độ nặng của suy chức năng cơ quan ở thời điểm nhập viện vào phòng hồi sức với xác suất sống sót và tương quan giữa số lượng các cơ quan bị rối loạn chức năng với nguy cơ tử vong. Nếu có 4 đến 5 cơ quan cùng bị rối loạn chức năng thì tỉ lệ tử vong lên đến 90% mặc dù được điều trị tốt đến mức độ nào đi nữa.

Bệnh sinh của rối loạn chức năng đa cơ quan do nhiều nguyên nhân và cũng chưa được biết tường tận. Giảm tưới máu tổ chức và thiếu ôxy tế bào là những yếu tố then chốt. Các cơ chế này liên quan đến sự lắng đọng fibrin lan tỏa gây nên tắc nghẽn vi tuần hoàn. Tình trạng tăng tính thấm vi mạch (microvascular hyperpermeability) cũng làm tồi tệ hơn nữa sự cung cấp ôxy cho tế bào và các rối loạn hằng định nội môi của vi tuần hoàn đưa đến sự sản xuất các chất vận mạch như yếu tố hoạt hóa tiểu cầu (Platelet Activating Factor: PAF), histamine và các prostanoid. Thâm nhiễm tế bào, đặc biệt là bạch cầu đa nhân trung tính, đưa đến hiện tượng phá hủy tổ chức do phóng thích các enzyme tiêu thể (lysosomic enzyme) và các gốc tự do ôxy hóa (oxydative free radicals) có nguồn gốc từ superoxide (O2-). TNF- và các cytokine khác làm tăng biểu hiện của men tổng hợp Nitric Oxide (NO) cảm ứng (inducible nitric oxide synthase: iNOS) và sự tăng sản xuất NO này làm cho mạch máu càng mất ổn định và cũng có thể góp phần vào ức chế cơ tim trực tiếp trong nhiễm trùng huyết.

Thiếu ôxy tổ chức xuất hiện trong nhiễm trùng huyết được phản ánh bằng khái niệm nợ ôxy- nghĩa là sự chênh lệch giữa lượng ôxy cung cấp và lượng ôxy theo nhu cầu. Mức độ nợ ôxy có liên quan đến tiên lượng của nhiễm trùng huyết và các chiến lược điều trị được thiết kế nhằm tối ưu hóa khả năng cung cấp ôxy cho tổ chức có thể cải thiện khả năng sống sót. Ngoài hiện tượng thiếu ôxy, tế bào còn có thể mắc chứng loạn sử dụng ôxy (dysoxygenation), nghĩa là tế bào không có khả năng sử dụng ôxy vốn đã ít ỏi trong nhiễm trùng huyết. Các dữ liệu gần đây gợi ý rằng đây có thể là hậu quả của tình trạng NO tăng cao quá mức vì các mẫu sinh thiết tế bào cơ vân ở bệnh nhân nhiễm trùng huyết cho thấy bằng chứng của suy giảm hô hấp ở ti thể (mitochondrion). Chuỗi hô hấp này bị ức chế bởi NO.

Chẩn đoán

Chẩn đoán xác định

Chẩn đoán nhiễm trùng huyết phải có bằng chứng nhiễm trùng trên lâm sàng cộng với ít nhất hai trong các dấu hiệu lâm sàng sau đây:
  • Tăng thân nhiệt (nhiệt độ hậu môn > 38,3 °C hoặc hạ thân nhiệt (nhiệt độ hậu môn < 35,6 °C).
  • Tim nhanh > 90 lần/phút.(Ở trẻ em tần số tim trên +2SD so vói giá trị bình thường theo tuổi).
  • Thở nhanh > 20 lần/phút hoặc tình trạng nhược thán PaCO2 < 32 mm Hg. (Ở trẻ em tần số tim trên +2SD so vói giá trị bình thường theo tuổi).
cộng với ít nhất một thông số chứng tỏ có tình trạng giảm tưới máu cơ quan hoặc rối loạn chức năng cơ quan hay thay đổi trạng thái tinh thần.
  • PaO2 ≤ 75 mm Hg (không khí phòng).
  • Tăng Lactate huyết thanh.
  • Thể tích nước tiểu < 30ml/h. Ở trẻ em nước tiểu < 0,5ml/kg/h).

Nhóm "Veterans administration systemic sepsis cooperative study group" đưa ra các tiêu chuẩn để chẩn đoán nhiễm trùng huyết: tình trạng lâm sàng gợi ý nhiễm trùng huyết cộng với ít nhất 4 trong các triệu chứng sau đây:
  • Ớn lạnh hay tăng thân nhiệt (nhiệt độ hậu môn > 38,9 °C) hay hạ thân nhiệt (nhiệt độ hậu môn < 35,5 °C).
  • Thở nhanh (> 28 lần/phút) hoặc nhược thán (PaCO2 < 32 mm Hg).
  • Tần số tim nhanh > 100lần/phút.
  • Hạ huyết áp < 90 mmHg (tâm thu).
  • Số luợng bạch cầu bất thường < 3 500/mm3 hoặc ≥ 15 000/mm3.
  • Tiểu cầu giảm (< 100 000/mm3).
  • Can thiệp phẫu thuật hay thủ thuật trong vòng 48 giờ trước đó hoặc có ổ nhiễm trùng rõ.
Các dấu hiệu chẩn đoán nhiễm trùng huyết không bắt buộc:
  • Cấy máu dương tính.
  • Test Limulus dương tính (tìm nội độc tố).
  • Giảm tiểu cầu (< 100 000/mm3).
  • Luợng tiểu cầu hạ > 30 % giá trị bình thường.
  • Giảm Antithrombin-III (< 70 % giá trị chuẩn).

Chẩn đoán giai đoạn

Các giai đoạn của nhiễm trùng huyết có thể phân chia thành ba giai đoạn dựa trên biểu hiện lâm sàng:
Giai đoạn I: Khởi đầu sốc:
  • Nhiệt độ hậu môn > 38,4 °C.
  • Số lượng tiểu cầu trong giới hạn bình thường.
  • Tăng thông khí tự phát.
  • Tần số tim nhanh nhưng ổn định.
Giai đoạn này cần có những theo dõi sát sao và điều trị tích cực sớm.
Giai đoạn II: Sốc nhiễm trùng huyết:
  • Sốc tăng động hoặc giảm động.
  • Giảm tiểu cầu.
  • Cần thông khí hỗ trợ.
  • Hiện diện tình trạng vãng khuẩn huyết.
  • Biểu hiện tình trạng nhiễm độc nội độc tố.
Giai đaọn IIIa: Sốc lùi:
  • Tình trạng lâm sàng và huyết động cải thiện.
  • Cai máy thở.
  • Không cần theo dõi đặc biệt.
Tuy nhiên bệnh có thể không cải thiện mà tiếp tục xấu hơn sang giai đoạn IIIb mặc dù được điều trị tích cực.
Giai đoạn IIIb: Sốc kháng trị:
  • Tình trạng lâm sàng xấu hơn.
  • Huyết động ngày càng khó kiểm soát.
  • Biểu hiện giảm tưới máu tổ chức và thiếu ôxy tế bào.
  • Rối loạn chức năng đa cơ quan và tử vong.

Điều trị

Kháng sinh

Tùy theo kết quả xét nghiệm vi sinh mà thầy thuốc có thể chọn lựa kháng sinh thích hợp (dịch hầu họng/đàm, dịch tiết khí quản, nước tiểu, cấy máu…). Tuy nhiên trong một số trường hợp không thể chọn lựa kháng sinh hướng nguyên nhân được (ví dụ trong trường hợp xét nghiệm vi khuẩn âm tính, tình trạng bệnh không cho phép đợi chờ kết quả, thậm chí đôi khi không cho phép chờ đợi lấy bệnh phẩm xét nghiệm) thì cần dùng kháng sinh theo kinh nghiệm và ngay sau khi có kết quả thì điều chỉnh thích hợp. Có nhiều liệu trình kháng sinh khác nhau tùy theo dịch tễ của từng vùng, từng bệnh viện.
  • Nhiễm khuẩn không xác định được tác nhân:
Kháng sinh thường dùng đầu tiên là Cephalosporin thế hệ III (Ví dụ Cefotaxime 2 g x 3 lần/ ngày). Theo dõi đáp ứng lâm sàngcận lâm sàng chặt chẽ. Thay kháng sinh nếu trong 48 giờ mà không có sự cải thiện rõ ràng. Lúc này kháng sinh được chọn là Piperacillin liều 4 g x 3 lần/ ngày phối hợp với Aminoglycoside (ví dụ Gentamicine 3 - 5 mg/kg/ngày) phối hợp thêm với Clindamycine liều 600 mg x 3 lần/ ngày.
  • Nhiễm trùng đường tiểu hoặc nhiễm trùng huyết tiêu điểm tiết niệu:
Kháng sinh thường dùng Ampicilline liều 2 g x 3 lần/ngày phối hợp Aminoglycoside (ví dụ Gentamicine 3 - 5 mg/kg thể trọng/ngày).
Các kháng sinh trên điều dùng đường tĩnh mạch.

Protein C hoạt hóa

Protein C hoạt hóa (activated protein C-APC), một chất chống đông (anticoagulant), là tác nhân có tính kháng viêm đầu tiên có hiệu quả trên lâm sàng. Một thử nghiệm lâm sàng quy mô đa trung tâm đã cho thấy protein C hoạt hóa người tái tổ hợp (recombinant human APC) làm giảm đáng kể tỉ lệ tử vong ở các bệnh nhân nhiễm trùng huyết đặc biệt là bệnh nhân nhiễm trùng huyết nặng.
APC bất hoạt các yếu tố đông máu Va và VIIIa (a-activated: hoạt hóa) nên làm giảm sự hình thành thrombin. Ức chế hình thành thrombin do APC làm giảm viêm thông qua ức chế quá trình hoạt hóa tiểu cầu, ức chế huy động bạch cầu đa nhân trung tính và sự phóng hạt của các tế bào mast. APC cũng có tác dụng chống viêm trực tiếp bao gồm ngăn cản các monocyte sản xuất cytokine và ức chế bám dính tế bào.
APC rất hiệu quả trong điều trị nhiễm trùng huyết nhưng đồng thời nó lại cũng có khả năng tăng nguy cơ xuất huyết đặc biệt là xuất huyết não.

Hồi sức bồi phụ dịch

Trong nhiễm trùng huyết, các chất trung gian điều hòa gây nên tình trạng giãn mạch, tăng tính thấm vi mạch và thoát protein từ mao mạch. Các hiện tượng bệnh lý này gây nên giảm thể tích dịch trong lòng mạch, giảm tiền tải (preload), giảm cung lượng tim (cardiac output) giảm tưới máu và cung cấp ôxy cho tổ chức. Chính vì lý do này mà liệu pháp hồi sức bồi phụ dịch đóng vai trò thiết yếu trong hồi phục và duy trì thể tích trong lòng mạch cũng như cung cấp ôxy cho tế bào.
Hiện nay liệu pháp bồi phụ dịch thường được sử dụng sớm trước khi có những dấu hiệu của sốc. Có thể dùng dung dịch dạng tinh thể (crystalloid) như dung dịch Ringer’s Lactate, dung dịch NaCl 0,9% hoặc các dung dịch dạng keo nhân tạo (artificial colloid) chẳng hạn dung dịch gelatin và kể cả dung dịch albumin người. Chưa có một nghiên cứu trên quy mô lớn nào khẳng định được dung dịch nào có nhiều ưu điểm hơn một cách rõ ràng.

Thuốc vận mạch và trợ tim

Nhằm đảm bảo lượng ôxy cung cấp cho tổ chức một cách thỏa đáng, huyết áp động mạch hệ thống phải được duy trì ở một giá trị nào đó để cung lượng tim được phân bố một cách hợp lý. Mục tiêu này có thể đạt được bằng liệu pháp vận mạch/tăng co bóp cơ tim sau khi đã bồi phụ tương đối đủ dịch trong lòng mạch. Các thuốc thường dùng là nhóm kích thích giao cảm (sympathomimetics) gồm norepinephrine, dopamine, phenylephrine, dobutamineepinephrine.
Dobutamine thường được sử dụng cho các bệnh nhân nhiễm trùng huyết có tình trạng ức chế cơ tim biểu hiện trên lâm sàng bằng giảm cung lượng tim mặc dù đã được bồi phụ dịch đầy đủ.
Vasopressin, một chất co mạch mạnh, cũng rất hữu ích trong duy trì huyết áp động mạch hệ thống. Vasopressin, thông qua tác dụng lên các V1a receptor, tạo nên những hiệu ứng có lợi trong sốc gồm giãn mạch ở các cơ quan sinh tử như não, mạch vànhphổi nhưng co mạch ở các cơ quan không quan trọng như cơ vânda.

Liệu pháp Insuline tích cực

Những bệnh nhân bị bệnh cấp tính nặng, trong đó có nhiễm trùng huyết, thường có hiện tượng tăng đường máu (hyperglycemia) và đề kháng insulin. Đây là nguy cơ của các biến chứng khác nữa như bội nhiễm vi khuẩn (bacterial surinfection), bệnh lý dây thần kinh trong bệnh nặng (critical illness polyneuropathy), rối loạn chức năng đa cơ quan và tử vong.
Điều trị insulin tích cực ở bệnh nhân hồi sức nhằm duy trì đường máu trong khoảng 4.4 (80mg/l) to 6.1 mmol/L (110 mg/l) làm hạ tỷ lệ tử vong rất rõ so với nhóm điều trị theo liệu trình thông thường, là nhóm có đường máu trong khoảng 10.0 to 11.1 mmol/L. Đây là một khuynh hướng mới mở ra nhiều triển vọng cho nghiên cứu và thực hành lâm sàng. Tuy nhiên một vấn đề cần quan tâm trong liệu pháp điều trị insulin tích cực là nguy cơ hạ đường máu. Các nghiên cứu gần đây không khuyến cáo sử dụng liệu pháp insulin tích cực với đích điều trị là 80-110mg/L mà thay vào đó là đích 140-180mg/l để làm giảm nguy cơ hạ đường huyết.
Một số nghiên cứu ban đầu sử dụng các máy theo dõi đường huyết liên tục cũng cho kết quả hứa hẹn. Tuy nhiên việc quyết định điều trị ínulin và mức đường huyết đích phụ thuộc vào điều kiện của từng cơ sở điều trị. Điều quan trọng nhất là tránh làm hạ đường huyết nguy hiểm.

Liệu pháp Corticosteroide

Trước đây, do hiểu cơ chế bệnh sinh của nhiễm trùng huyết là đáp ứng viêm quá mức (xem phần sinh lý bệnh) nên corticosteroid đã được sử dụng với liều chống viêm tương đối cao. Các nghiên cứu theo hướng này đã cho thấy tỉ lệ tử vong ở nhóm điều trị tăng cao hơn so với nhóm chứng. Gần đây các nghiên cứu dùng corticosteroid liều thấp ở bệnh nhân có dấu hiệu của suy chức năng tuyến thượng thận trong nhiễm trùng huyết cho thấy có cải thiện tỉ lệ tử vong. Tuy nhiên cần có nhiều thử nghiệm đa trung tâm quy mô lớn nữa mới có thể có kết luận cuối cùng.

Liệu pháp thay thế chức năng thận và lọc máu

Thẩm phân máu (hemodialysis) và lọc máu (''hemodiafiltration), một dạng của thẩm phân, cũng được dùng trong điều trị nhiễm trùng huyết. Ngoài tác dụng điều trị suy thận cấp thì các phương pháp này cũng có tác dụng lọc các chất có hại như nội độc tố, cytokine (tùy theo kích thước màng lọc sử dụng). Kết quả lâm sàng không thống nhất. Một số thử nghiệm đạt kết quả tốt, một số khác không thấy sự khác biệt có ý nghĩa nào so với nhóm đối chứng.

Dinh dưỡng điều trị

Suy dinh dưỡng (malnutrition) rất thường gặp ở bệnh nhân điều trị tại các đơn vị hồi sức, đặc biệt là các bệnh nhân điều trị dài ngày. Các nghiên cứu can thiệp dinh dưỡng cho thấy cải thiện dinh dưỡng làm tăng khả năng sống sót, giảm biến chứng và rút ngắn thời gian nằm viện.
Nuôi dưỡng qua đường tiêu hóa (oral feeding) sớm có kết quả tốt hơn so với nuôi dưỡng hoàn toàn bằng đường tĩnh mạch (Total Parenteral Nutrition-TPN). Nuôi dưỡng qua đường tiêu hóa sớm có tác dụng duy trì cấu trúc giải phẫu và chức năng của tế bào niêm mạc ruột, hạn chế tình trạng phát tán vi khuẩn và nội độc tố từ đường tiêu hóa vào tuần hoàn (bacterial and endotoxin translocation), duy trì chức năng các cơ quan tiêu hóa khác như tụygan. Ngoài ra, việc nuôi dưỡng hoàn toàn bằng đường tĩnh mạch còn làm tăng nguy cơ nhiễm trùng bệnh viện liên quan đến catheter.

Các liệu pháp điều trị trong tương lai

Tài liệu tham khảo

  • Augus DC, Linde-Zwirbe WT, Lidicker J, Clermont G, Carcillo J, Pinsky MR. Epidemiology of severe sepsis in the United States: analysis of incidence, outcome, and associated costs of care. Crit Care Med. 2001; 29: 1303-1310.
  • Bernard GD, Mc Carthy R. The Pathophysiology and Treatment of Sepsis: A Review of Current Information. Medscape 2000.
  • Cohen J. The immunopathogenesis of sepsis. Nature. 2002; 420: 885-891.
  • Goldsrein B, Giroir B, Randolph A and the Members of the International Consensus Conference on Pediatric Sepsis. International pediatric sepsis conference: Definitions for sepsis and organ dysfunction in pediatrics. Pediatr Crit Care Med. 2005; 6: 2-8.
  • Hotchkiss RD, Kurl IE. The Physiopathology and Treatment of Sepsis. N Eng J Med. 2003; 348: 138-150.
  • Levy M, Fink M, Marshall JC et al. 2001 SCCM/ESICM/ACCP/ATS/SIS International Sepsis Definitions Conference. Crit Care Med. 2003; 31: 1250-1256.
  • Opal SM, Esmon CT. Bench-to-bedside review: functional relationships between coagulation and the innate immune response and their respective roles in the pathogenesis of sepsis. Crit Care. 2003; 7: 23-38.
  • Riedemann NC, Ren-Feng Guo, Ward PA. Novel strategies for the treatment of sepsis. Nature Medicine. 2003; 9: 517-524.
  • Sharma S, Kumar A. Septic Shock, Multiple Organ Failure, and Acute Respiratory Distress Syndrome. Curr Opin Pulm Med. 2003; 9: 199-209.

Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 13:52,