Kỹ thuật siêu âm buồng trứng, phần phụ và một số bệnh lý
Giới thiệu
Đối
với phần lớn các bệnh nhân có các dấu hiệu lâm sàng gợi ý bệnh lý khung
chậu thì siêu âm là phương pháp chẩn đoán hình ảnh hàng đầu được yêu
cầu để đánh giá thêm. Phương pháp này không xâm lấn và có độ chính xác
cao trong phát phát hiện cũng như định rõ đặc điểm hình ảnh các khối
phần phụ [1-5]. Thật may mắn, do nhiều bệnh lý phần phụ hoặc là lành
tính hoặc lá ít ý nghĩa lâm sàng nên khi chúng không có triệu chứng thì
thường được theo dõi bằng siêu âm. Trong một số ít các trường hợp mới
cần thiết phải chỉ định thêm chụp cộng hưởng từ hoặc đôi khi là chụp cắt
lớp vi tính.
Bài
này mô tả cách tiếp cận siêu âm thực hành để đánh giá khung chậu nữ, nó
sẽ giúp các bác sỹ X quang (1) tối ưu hoá kỹ thuật để nhìn thấy buồng
trứng rõ ràng, tin cậy và xác định các giả tổn thương buồng trứng; (2)
nhận ra các đặc điểm siêu âm của 6 thực thể quan trọng của buồng trứng;
(3) nhận ra các đặc điểm siêu âm thường của 3 thực thể khác dưới dạng
các tổn thương dạng nang ngoài buồng trứng hay gặp trong siêu âm; (4)
nhận ra các đặc điểm siêu âm của các nang trung gian (giữa lành và ác
tính) nhưng hầu hết là lành tính, cũng như các dấu hiệu siêu âm gây lo
ngại u ác tính; (5) và lập một báo cáo kết quả cung cấp thông tin có ý
nghĩa lâm sàng.
1. Tối ưu hoá kỹ thuật siêu âm khung chậu
Những xem xét khởi đầu
Trước
khi bắt đầu siêu âm cần thu thập thông tin lâm sàng thích hợp, bao gồm
chỉ định siêu âm, các phát hiện sẵn có từ các phương pháp ảnh đã làm
trước đây, các kết quả xét nghiệm. Rất có lợi để xác định ngày của chu
kỳ kinh cuối cùng và hỏi bệnh nhân có điều trị thay thế hocmon không
(hoặc là kiểm soát sinh hoặc bệnh nhân sau mãn kinh).
Trừ khi là siêu âm theo dõi, còn thì thường có lợi để bắt đầu đánh giá tổng quát khung chậu bằng siêu âm qua thành trước ổ bụng.
Siêu
âm qua đường âm đạo nên thực hiện khi bàng quang bệnh nhân trống; nên
sử dụng đầu dò tần số thấp nhất là 5 MHz và chế độ tạo ảnh harmonic. Mặc
dù có nhiều cách để định vị buồng trứng, chúng tôi thích quan sát hình
ảnh khởi đầu từ mặt phẳng đứng ngang (coronal) ở đáy tử cung. Ép nhẹ và
vừa đầu dò rồi hướng về một bên buồng trứng. Thường có thể nhìn thấy sự
dày nên của mô mềm liên tiếp với đáy tử cung, nó có thể là phần kết hợp
của vòi trứng, mạc treo vòi trứng, và dây chằng buồng trứng. Phần mô này
được dùng làm một mốc giải phẫu quan trọng để lần theo nó dẫn tới buồng
trứng. Đối với phần lớn phụ nữ trước mãn kinh và sau mãn kinh, các
buồng trứng nằm ngay gần các mạch chậu trong. Ở phụ nữ sinh đẻ nhiều
lần, cũng như ở những phụ nữ có khối tử cung hoặc buồng trứng thì vị trí
các buồng trứng có thể thay đổi hơn. Nếu ruột xen vào và che khuất
buồng trứng, người làm siêu âm hoặc bệnh nhân có thể ép tay vào vùng
buồng trứng và người làm siêu âm đẩy nhẹ hoặc vừa đầu dò. Khi đã xác
định được buồng trứng, các ảnh làm tài liệu nên chụp và ghi ở cả hai mặt
phẳng đứng dọc và đứng ngang. Nếu buồng trứng không nhìn thấy qua đường
âm đạo thì nên có gắng xác định vị trí của nó qua đường thành bụng.
Việc này đặc biệt quan trọng nếu có u xơ tử cung lớn hoặc các khối khung
chậu khác. Trong những trường hợp đó, buồng trứng thường bị di lệch vào
vị trí nông ở hai bên. Chúng tôi thích thử định vị bằng đầu dò cong
(curved-array) tần số thấp nhất 6 MHz tạo ảnh harmonic (Hình 1). Nếu bệnh nhân béo phì, có thể bảo bệnh nhân ép nhẹ tay vào vùng hạ vị.
Hình 1. Buồng trứng bị di lệch. (a) Ảnh siêu âm đứng dọc thành bụng cho thấy tử cung (*) to và không đồng nhất do u xơ.
Hình 1. Buồng trứng bị di lệch. (b) Trong
ảnh siêu âm (mặt) cắt ngang thành bụng bằng đầu dò cong tần số 6 MHz và
tạo ảnh harmonic, buồng trứng phải bị đẩy lệch lên trên và ra ngoài và
nằm nông. Buồng trứng trái (không trình bày) cũng bị đẩy lệch tương tự.
Các trường hợp gây nhầm lẫn
Đôi khi, một nang đơn thuần của khung chậu có thể có hình ảnh không điển hình và thậm chí còn giả bàng quang giãn căng (Hình 2).
Trong những trường hợp này, tiền sử lâm sàng của một khối sờ thấy và
bảo bệnh nhân đi tiểu là cần thiết để tránh điều tra thêm. Cách dễ nhất
để giải quyết vấn đề này là xác định vị trí của bàng quang bằng cách đẩy
nhẹ đầu dò vượt qua âm hộ tiến vào âm đạo rồi quan sát niệu đạo và
điểm đổ vào bàng quang của nó (Hình 2c).
Có thể đặt dẫn lưu Foley để xác định vị trí bàng quang, nhưng cách này
không được khuyến cáo bởi vì nó tương đối không thuận tiện và xâm lấn.
Trong
các ảnh tĩnh, một số cấu trúc giải phẫu có thể giả buồng trứng bình
thường, gồm có ruột, các mạch máu, và u xơ nhỏ dưới thanh mạc (Hình 3).
Để tránh diễn giải nhầm cần quan sát kỹ chi tiết khi siêu âm thời gian
thực qua đường âm đạo. Khi ép vào hình nghi là buồng trứng, nếu là quai
ruột nó sẽ xẹp và thường có nhu động. Các mạch máu (điển hình là các
tĩnh mạch ứ máu) cũng sẽ bị ép xẹp và có các âm chuyển động bên trong,
hoặc có dòng chảy màu nếu điều chỉnh Doppler tốc độ thấp. Các u xơ dưới
thanh mạc có thể gây chú ý khi “kéo-đẩy” đầu dò thì chúng vẫn cố định ở
bề mặt tử cung. Đôi khi để chứng minh một cách thuyết phục u xơ tử cung
dưới thanh mạc hoặc giả buồng trứng không thể tách biệt với tử cung
chúng ta cần sử dụng hai tay: một tay đặt trên ổ bụng ép xuống vùng
buồng trứng, một tay cầm đầu dò và làm nghiệm pháp “kéo-đẩy” hướng về
vùng cần siêu âm.
Các
tổn thương dạng nang ngoài buồng trứng, gồm nang cạnh vòi trứng, ứ dịch
vòi trứng, hoặc u nang vùi phúc mạc (PIC) đôi khi cũng gây khó khăn
chẩn đoán. Nhận ra sự cách biệt của chúng với buồng trứng là cách đơn
giản và hiệu quả nhất để giải quyết tình trạng này. Hình dáng giải phẫu,
tiến sử bệnh nhân cũng có thể giúp ích. Trong trường hợp khối lớn hoặc
không thấy buồng trứng thì cần thiết thêm các phương phấp chẩn đoán hình
ảnh cắt lớp khác (đặc biệt là cộng hưởng từ).
Hình 2. nang ở khung chậu giả bàng quang. (a) Ảnh
siêu âm khung chậu theo đường thành bụng cho thấy một cấu trúc dạng
nang (*) phía trước tử cung lúc đầu xác định nhầm là bàng quang.
Hình 2. nang ở khung chậu giả bàng quang. (b) Ảnh
siêu âm mặt cắt đứng dọc đường thành bụng cho thấy cấu trúc dạng nang
cũng giống thế (*) nằm ở vị trí của bàng quang. Một phần của bàng quang
(mũi tên) được nhìn thấy ở phía dưới (phía chân) so với nang.
Hình 2. nang ở khung chậu giả bàng quang. (c) Ảnh
siêu âm đường âm đạo, mặt cắt dọc với đầu dò đặt ở ngay sau lỗ âm đạo
cho thấy niệu đạo (các mũi tên) và điểm đổ vào bàng quang của niệu đạo
(*), các dấu hiệu này cho phép nhận ra bàng quang một cách tin cậy.
Hình 3. Giả buồng trứng. (a) Ảnh
siêu âm đường âm đạo, mặt cắt đứng ngang phần phụ trái cho thấy một cấu
trúc giảm âm (mũi tên) được xác định rõ có hình thái tương tự buồng
trứng trái nhưng có nhu động khi siêu âm thời gian thực, một dấu hiệu
của ruột.
Hình 3. Giả buồng trứng. (b) Ảnh
siêu âm đường thành bụng, mặt cắt ngang phần phụ phải ở một bệnh nhân
khác bộc lộ một cấu trúc dạng nang (mũi tên) có hình ảnh tương tự buồng
trứng phải. Siêu âm Doppler phát hiện dòng chảy mạch máu bên trong,
không phải nang noãn.
Hình 3. Giả buồng trứng. (c) Ảnh
siêu âm đường âm đạo, mặt cắt đứng ngang cho thấy một cấu trúc được xác
định rõ (các dấu) phía sau tử cung, nó có hình thái tương tự buồng
trứng trái. Ép nhẹ đầu dò thấy nó gắn chắc với tử cung, do đó khẳng định
chẩn đoán là u xơ dưới thanh mạc.
Các tổn thương của buồng trứng:
2. Sáu thực thể quan trọng của buồng trứng
Có
nhiều phương cách tiếp cận siêu âm đã được sử dụng để đánh giá và mô tả
đặc điểm các khối của buồng trứng. Những phương pháp này từ những phân
tích phức tạp sử dụng các hệ thống cho điểm có nguồn gốc thống kê, phân
tích hồi quy logistic dựa trên xác suất, và mạng nơron (neural network)
nguồn gốc toán học [7] tới các phương pháp chủ quan đơn giản sử dụng
phương pháp nhận dạng mẫu (pattern recognition) [1,3-5]. Nhiều nghiên
cứu xác định rằng siêu âm đánh giá chủ quan buồng trứng khi được tiến
hành bởi những người có kinh nghiệm thì ít nhất cũng tốt bằng các phương
pháp khác về phân tích chính xác các khối buồng trứng và phần phụ, với
độ nhạy 88%-100% và độ đặc hiệu 62%-96% trong sự báo ác tính [5,8,9].
Thật may mắn, trong thực hành lâm sàng thì hầu hết các khối buồng trứng
là lành tính, có thể nhận ra dễ dàng, và có thể xếp vào một trong sáu
thực thể. Sáu thực thể quan trọng gồm các nang noãn chức năng và sinh
lý, hoàng thể, nang xuất huyết, nang nội mạc tử cung, buồng trứng đa
nang, u quái dạng nang lành tính (u nang bì).
Các nang noãn sinh lý và chức năng
Ở
các phụ nữ khoẻ mạnh trước mãn kinh, các buồng trứng không bị hãm nội
tiết tố sẽ thay đổi chức năng hàng tháng khởi đầu xảy ra do sự phát
triển trước khi rụng trứng của nang noãn ưu thế. Trong giai đoạn này của
chu kỳ (có nhiều tên gọi khác nhau như giai đoạn nang noãn, giai đoạn
tăng sinh, hoặc giai đoạn trước rụng trứng), siêu âm đường âm đạo sẽ
phát hiện một nang noãn phát triển dưới dạng nang đơn thuần, vô mạch, có
hình trứng hoặc hình tròn. Tại thời điểm rụng trứng, đường kính của
nang từ 1.7 đến 2.8 cm [10,11], nhưng đường kính có thể lên đến 3 cm vẫn
được coi là bình thường [12]. Ngay trước khi rụng trứng, trong một nang
noãn chín có thể nhìn thấy một đường cong nhỏ li ti ở ngoại vi, đó là
trứng có gò trứng bao quanh [Hình 4]. Nang chức năng sẽ phát triển khi rụng trứng không xảy ra, nang này to lên nhưng vẫn giữ hình thái nang đơn thuần khi siêu âm.
Hình 4. Nang
noãn chín. Ảnh siêu âm đường âm đạo, mặt cắt đứng ngang buồng trứng
trái cho thấy một nang đơn thuần có một cấu trúc đường cong nhỏ ở ngoại
vi (mũi tên) là gò trứng. Dấu hiệu này không nên nhầm với vách của một
nang phức hợp.
Hoàng thể
Hoàng
thể sau rụng trứng kích thước có thể tới 3 cm, nhưng hình ảnh siêu âm
của nó biến đổi hơn và có thể từ một nang thành dày với bờ có khía răng
cưa không đều, tới một nang bị xẹp nhiều hơn tạo ra hình tương đối đặc.
Tuy nhiên, trong mọi trường hợp siêu âm Soppler đều bộc lộ dòng chảy của
mạch máu ở ngoại vi có sóng sức cản thấp [Hình 5]. Điển hình, các nang sinh lý sẽ tiêu trong vòng vài tuần.
Một
nang hoàng thể chức năng phát triển khi hoàng thể không được hấp thu
sau rụng trứng. Nó cũng thường to lên và có thành chứa mạch máu, và tiến
triển thành một nang xuất huyết.
Về
lâm sàng, các nang noãn chức năng và hoàng thể thường không có triệu
chứng, điển hình sẽ tiêu đi trong vòng 8-12 tuần. Tuy nhiên, nếu to thì
chúng có thể gây hiệu ứng chèn ép hoặc đau; và nếu chảy máu nhiều, nang
bị rò ri hoặc vỡ, hoặc xoắn thì sẽ gây các triệu chứng cấp tính.
Hình 5. Các nang hoàng thể. (a) Ảnh
siêu âm đường âm đạo, mặt cắt đứng ngang buồng trứng trái cho thấy một
nang hoàng thể sau rụng trứng có thành dày không đều.
Hình 5. Các nang hoàng thể. (b) Ảnh
siêu âm đường âm đạo, mặt cắt đứng dọc buồng trứng ở một bệnh nhân khác
phát hiện một nang hoàng thể bị xẹp, hình thái đặc hơn.
Hình 5. Các nang hoàng thể. (c) Ảnh
siêu âm duplex (Doppler màu và phổ) đường âm đạo, mặt cắt đứng ngang
buồng trứng trái ở bệnh nhân thứ ba cho thấy dòng chảy mạch máu ngoại vi
có sóng sức cản thấp.
Nang xuất huyết
Các
nang xuất huyết điển hình phát triển ở phụ nữ trước mãn kinh và do chảy
máu bên trong một hoàng thể. Hình thái siêu âm của chúng đã được miêu
tả kỹ trong y văn [13] và biến đổi tuỳ thuộc liệu đó là cấp tính hay
tiến triển tiêu đi. Bởi vì xuất huyết (trong nang) là phổ biến, rồi tiêu
đi và không liên quan đến u ác tính [4,14,15], nhận ra các đặc điểm
siêu âm của nang xuất huyết là bắt buộc để tránh đánh giá thêm hoặc can
thiệp không cần thiết. Trong giai đoạn cấp tính, nang buồng trứng xuất
huyết chứa cục máu, nó biểu hiện trên siêu âm là tăng âm mạnh, vô mạch,
không có bóng cản, đồng nhất hoặc không đồng nhất (Hình 6a).
Chạm đầu dò vào thấy buồng trứng mang nang cháy máu thường mềm, và có
dịch tự do tăng âm ở lân cận nếu máu rò vào khung chậu. Trong tình trạng
bán cấp, cục máu co lại, vẫn vô mạch, và bị kéo xa khỏi thành nang; bề
mặt của nó thường lượn sóng (Hình 6b),
và nó có bờ lõm rất đặc trưng. Quan trọng hơn, bởi vì cục máu tương đối
mềm và sền sệt, nó sẽ đung đưa khi bập bênh nhẹ đầu dò. Trái lại, nốt
bám thành của u thì có mạch máu và bờ bề mặt lồi, do nó cứng nên nó sẽ
không đung đưa khi bập bệnh đầu dò. Một đặc điểm rất phổ biến khác trên
siêu âm báo trước nang chảy máu đang tiêu là các sợi tơ huyết (Hình 6c).
Một loạt các tính từ mô tả đã được sử dụng để báo cáo hình ảnh của
thành phần này. Các thuật ngữ được chấp nhận gồm có “cobweb”(mảnh như tơ
nhện), “reticular”(hình lưới), “lacy”(giống như ren), “fishnet”(lưới
cá), và “spongy,”(lỗ rỗ, xốp như bọt biển) mỗi từ này đều diễn tả các
đường mảnh, không đều, chúng điển hình không giăng ngang hết nang. Trái
lại, nên tránh dùng từ “chia thành ngăn”(septation), bởi vì từ này chỉ
vách dày hơn, thường có mạch, các đường tăng âm thẳng hơn giăng ngang
hết cả nang và thường liên quan tới u. Các nang buồng trứng có các đặc
điểm cổ điển như dải tơ huyết, không chia thành ngăn, và thành nhẵn đã
được nghiên cứu chứng minh là nang xuất huyết với tỉ số khả dĩ
(likelihood ratio) là 200, độ nhạy 90% và độ đặc hiệu 100% [13].
Hình 6. Các nang chảy máu. (a) Ảnh
siêu âm Doppler màu đường âm đạo, mặt cắt đứng ngang buồng trứng cho
thấy thành phần tăng âm, vô mạch, không đồng nhất, không bóng cản thích
hợp với chẩn đoán cục máu.
Hình 6. Các nang chảy máu. (b) Ảnh
siêu âm Doppler màu đường âm đạo, mặt cắt đứng ngang buồng trứng phải ở
một bệnh nhân khác cho thấy một nang có nốt bám thành có vẻ đặc. Nốt
này vô mạch, các bờ lõm, đầy là dấu hiệu đặc trưng của cục máu đang co.
Trong siêu âm thời gian thực, một cục máu tương đối mềm có thể “lúc lắc”
bằng cách bập bềnh đầu dò.
Hình 6. Các nang chảy máu. (c) Ảnh
siêu âm Doppler màu đường âm đạo, mặt cắt đứng dọc buồng trứng trái ở
bệnh nhân thứ ba cho thấy một cấu trúc dạng nang có các đường tăng âm
mảnh vô mạch là biểu hiện của các sợi tơ huyết trong nang xuất huyết
đang tiêu.
U nội mạc tử cung (endometrioma)
Buồng
trứng là vị trí tập trung mô nội mạc ngoài tử cung phổ biến nhất, và
phần lớn u nội mạc tử cung có dấu hiệu siêu âm đặc trưng. Dấu hiệu này
gồm có nang có một hoặc nhiều ngăn, thành nhẵn, tăng âm mức thấp đồng
nhất, nó tạo nên hình ảnh “kính mờ” đặc trưng (Hình 7a)
[16]. Tuy nhiên, có khoảng 15% các u nội mạc tử cung có dấu hiệu không
điển hình [1,16-18], gồm có thành không đều, thành này thường không có
mạch máu và có thể do sợi tơ huyết hoặc máu cục bám thành. Hiếm hơn, u
nội mạc tử cung có thể có mạch máu do có mô nội mạc [3]; do đó không
ngạc nhiên đôi khi hình ảnh u nội mạc tử cung có sự chồng chéo với các
bệnh khác như nang xuất huyết (Hình 7b),
u nang bì (dermoid), thậm chí ung thư biểu mô buồng trứng [4]. Hơn nữa,
chuyển dạng ác tính thành ung thư biểu mô tế bào sáng hoặc dạng nội mạc
đã được báo cáo ở khoảng 1% các u nội mạc tử cung [19]; hiện tượng này
điển hình xảy ra ở các u nội mạc tử cung lớn hơn 9 cm và ở các phụ nữ
trên 45 tuổi [20].
Hình 7. U nội mạc tử cung. (a) Ảnh
siêu âm đường âm đạo, mặt cắt đứng ngang buồng trứng phải cho thấy một
cấu trúc đầu nhất (các dấu điện tử) có âm lắng ở mức thấp, một đúa hiệu
đặc trưng của u nội mạc tử cung.
Hình 7. U nội mạc tử cung. (b) Ảnh
siêu âm đường âm đạo, mặt cắt đứng ngang buồng trứng trái ở một bệnh
nhân khác cho thấy một cấu trúc dạng nang chứa các âm dải tăng âm ảnh
tương tự với những dải nhình thấy trong một nang xuất huyết. Cấu trúc
dạng nang này đã được chứng minh là u nội mạc tử cung.
Buồng trứng đa nang
Hình
thái buồng trứng đa nang (polycystic ovarian morphology, COMP) là một
trong các đặc điểm được dùng để đánh giá những phụ nữ có biểu hiện lâm
sàng và rối loạn chức năng nội tiết gắn với hội chứng buồng trứng đa
nang (polycystic ovarian syndrome, PCOS). Các biểu hiện ngoài buồng
trứng của hội chứng này rất biến đổi, nhưng cổ điển gồm có rối loạn kinh
nguyệt (ít kinh nguyệt và vô kinh), béo phì, tăng tiết androgen. Do
biểu hiện lâm sàng biến đổi nên xác định những cái gì thực sự tạo nên
hình thái buồng trứng đa nang đã được tranh luận, nhưng phần lớn các
chuyên gia thống nhất rằng rối loạn chức năng buồng trứng là tâm điểm để
chẩn đoán [21]. Vì vậy, trong năm 2003 người ta đã xuất bản một bản báo
cáo đồng thuận gồm có mô tả các thay đổi hình thái buồng trứng đa nang
như sau: buồng trứng đó có 12 hoặc nhiều hơn các nang noãn, đường kính
2-9mm (Hình 8), thể tích buồng trứng tăng (> 10 cm3),
hoặc cả hai. Trong định nghĩa này không đề cập về sự phân bố của các
nang noãn, cũng như hình ảnh của mô nền [21]. Gần đây người ta đề nghị
số lượng nang noãn gợi ý [hình thái] buồng trứng đa nang tăng từ 12 lên
19 bởi vì các nang noãn nhỏ bây giờ cũng có thể nhìn thấy rõ do công
nghệ siêu âm đã cải thiện [24].
Hình 8. Buồng
trứng đa nang ở một bệnh nhân nữ 35 tuổi bị vô kinh và tăng tiết
androogen. Ảnh siêu âm đường âm đạo, mặt cắt đứng dọc cho thấy buồng
trứng phải đa nang (khoảng 20), các nang có đường kính dưới 9mm.
U quái dạng nang trưởng thành
U
quái dạng nang trưởng thành (dermoid, u nang bì) là các khối u buồng
trứng, vô mạch, lành tính và phổ biến nhất. U có nhiều đặc điểm siêu âm
có thể dùng để chẩn đoán chính xác và tin cậy trong phần lớn các trường
hợp [25]. Phần lớn u nang bì chứa một cụm tóc, nó vừa hấp thu vừa phản
âm khi siêu âm. Hiệu ứng chung là một vùng tăng âm khu trú là suy giảm
âm dần dần gây ra bóng cản âm giảm dần đặc trưng (Hình 9).
Một thành phần mô học chiếm ưu thế khác là chất bã nhờn, ở nhiệt độ cơ
thể nó ở trạng thái dịch và biểu hiện trong siêu âm là dịch có âm bên
trong [26]. Nếu “cuộn tóc’ nổi trong dịch bã thì các dấu hiệu siêu âm có
thể khó thấy, và hình ảnh này được gọi là dấu hiệu “đỉnh của núi băng”
[27]. Dấu hiệu này tạo ra bóng cản âm mạnh giả cản âm nhìn thấy ở các
quai ruột (Hình 10a).
Trong những trường hợp nghi ngờ, đặc biệt nếu có khối có thể sờ thấy
trên lâm sàng thì dùng đầu dò bập bềnh vùng nghi ngờ để xem liệu nó có
chuyển động như một khối khu trú kết dính không (nếu là ruột sẽ bị ép và
có nhu động)(Hình 10b).
Đôi
khi, tóc ở trong nang bì phân tán trong dịch nang. Lúc này siêu âm thấy
các đường mảnh và các chấm tăng âm, lượn sóng và được gọi là “mạng lưới
u nang bì”-“dermoid mesh” (Hình 11)
[28]. Mặc dù dấu hiệu này có thể giả các sợi tơ huyết trong nang xuất
huyết, đánh giá tỉ mỉ u nang bì thường bộc lộ thêm các dấu hiệu như bóng
cản âm giảm dần giúp chẩn đoán chính xác. Để xác định khả năng siêu âm
giúp phát hiện các đặc điểm khác nhau trong chẩn đoán u nang bì, một
nghiên cứu thực hiện phân tích hơn 250 khối phần phụ (bao gồm 74 u nang
nang bì). Trong 74% các khối u nang bì, ít nhất hai đặc điểm được phát
hiện cho phép người siêu âm có kinh nghiệm chẩn đoán chính xác với giá
trị dự báo dương tính 100% [25].
Hình 9. U
quái dạng nang trưởng thành (u nang bì, dermoid) ở một nữ 28 tuổi có
khối bên phải khung chậu, không có triệu chứng, có thể sờ thấy khi khám
lâm sàng thông thường. (a) Ảnh
siêu âm đường thành bụng, mặt cắt ngang buồng trứng phải nhìn thấy một
cấu trúc dạng nang (các dấu điện tử) có thành phần tăng âm khu trú với
bóng cản âm giảm dần (mũi tên).
Hình 9. U
quái dạng nang trưởng thành (u nang bì, dermoid) ở một nữ 28 tuổi có
khối bên phải khung chậu, không có triệu chứng, có thể sờ thấy khi khám
lâm sàng thông thường. (b) Chụp
CT khung chậu cho thấy một cấu trúc nang phần phụ chứa mỡ ở ngoại vi và
một nốt trung tâm (*) tương ứng với nốt tăng âm nhìn thấy ở hình a.
Hình 10. U
nang bì có dấu hiệu “đỉnh núi băng” ở một nữ 35 tuổi có khối phần phụ
phải có thể sờ thấy và buồng trứng phải không nhìn thấy. (a) Ảnh
siêu âm đường âm đạo, mặt đứng ngang phần phụ phải cho thấy thành phần
tăng âm không rõ bóng cản, không thấy rõ khối, các dấu hiệu này là biểu
hiện của ruột.
Hình 10. U
nang bì có dấu hiệu “đỉnh núi băng” ở một nữ 35 tuổi có khối phần phụ
phải có thể sờ thấy và buồng trứng phải không nhìn thấy. (b) Ảnh
siêu âm đường âm đạo, mặt đứng ngang có ép vùng khảo sát bằng đầu dò
cho thấy một khối dính kết (mũi tên) có bóng cản âm dần dần. Các dấu
hiệu này đặc trưng cho u nang bì.
Hình 11. Dấu
hiệu mạng lưới u nang bì ở một phụ nữ 42 tuổi có khối phần phụ trái có
thể sờ thấy và hơi mềm. Ảnh siêu âm đường âm đạo, mặt đứng dọc buồng
trứng trái cho thấy một cấu trúc dạng nang chứ các chấm và các dải tăng
âm biểu hiện của tóc ở u nang bì phân tán trong dịch. Các ảnh khác bộc
lộ những dấu hiệu đặc trưng cho u nang bì, gồm có khối tăng âm có bóng
cản âm dần dần.
3. Các tổn thương ngoài buồng trứng: ba thực thể phổ biến
Mặc
dù phần lớn các khối phần phụ có nguồn gốc từ buồng trứng, cũng nên
quan sát kỹ các mô bao quanh để phát hiện các tổn thương ngoài buồng
trứng. Các tổn thương ngoài buồng trứng phổ biến và có thể phát hiện
được gồm có ứ dịch vòi trứng, nang cạnh buồng trứng, và u nang vùi phúc
mạc (PIC). Những tổn thương đó là những thực thể lành tính, và thường có
thể chẩn đoán chính xác dựa trên các dấu hiệu siêu âm. Trong một số
trường hợp, tiền sử của bệnh nhân cũng cung cấp các dấu hiệu để chẩn
đoán nguyên nhân.
Ứ dịch vòi trứng (Hydrosalpinges)
Các
dấu hiệu giúp phân biệt ứ nước vòi trứng với các khối phần phụ khác bao
gồm khối hình ống kéo dài có các khía đối nhau ở thành (dấu hiệu “eo”,
chỗ thắt lại-“waist” sign) (Hình 12a)[29].
Một dấu hiệu phổ biến khác là vách ngăn không hoàn toàn do ống gấp lại
(Hình 12b)[30]. Các thay đổi của thành ống cũng có thể được dùng để phân
biệt bệnh cấp tính với mạn tính: thành dày có hình dạng “bánh
răng”-“cogwwheel” là phổ biến trong viêm cấp tính, trong khi các nốt nhỏ
ở thành giống các hạt trên chuỗi hạt gợi ý tình trạng giãn mạn tính (Hình 12c)
[30]. Các thực thể có thể giả ứ dịch vòi trứng gồm có các tĩnh mạch
giãn căng, ngoằn ngoèo và quai ruột; chỉnh tăng gain để tìm dòng chảy
chậm và dùng đầu dò ép thường có hiệu quả để phân biệt những thực thể
này với ứ dịch vòi trứng.
Hình 12. Ứ nước vòi trứng. (a) Ảnh
siêu âm đường âm đạo, mặt phẳng đứng dọc qua buồng trứng trái (*) cho
thấy một nang thuôn dài ở sát cạnh (buồng trứng) có các khía đối nhau ở
thành (mũi tên), các dấu hiệu này là dấu hiệu “eo” đặc trưng của ứ nước
vòi trứng.
Hình 12. Ứ nước vòi trứng. (b) Ảnh
siêu âm đường âm đạo, mặt cắt đứng dọc qua phần phụ trái ở một bệnh
nhân khác cho thấy một cấu trúc xoắn hình ống ngay sát nhưng vẫn cách
biệt với buồng trứng trái (*). Bên trong cấu trúc này có các vách không
hoàn toàn do ống gấp lại, đây là biểu hiện của vòi trứng.
Hình 12. Ứ nước vòi trứng. (c) Ảnh
siêu âm đường âm đạo, mặt cắt đứng ngang qua phần phụ trái của bệnh
nhân thứ ba cho thấy vòi trứng trái bị giãn (các dấu điện tử) ống bị gấp
khúc và có các chấm nhỏ li ti ở thành (mũi tên) là các nếp bên trong
của vòi trứng trong tình trạng ống bị giãn mạn tính. Khi ống bị giãn và
dày lên ít, các nếp gấp kém rõ, tạo thành hình bánh răng.
Nang cạnh buồng trứng
Các
nang cạnh buồng trứng là các thành phần tồn lưu bẩm sinh mọc từ ống
Wolf ở mạc treo buồng trứng. Chúng có kích thước rất biến đổi và được
báo cáo chiếm từ 10% – 20% các khối phần phụ [31]. Các nang cạnh buồng
trứng điển hình là tròn cho đến bầu dục, nang đơn thuần, và tựa vào
nhưng không làm biến dạng buồng trứng (Hình 13).
Tuy nhiên, đôi khi chúng có thể ấn lõm vào buồng trứng và giả một nang
buồng trứng lồi ra ngoài; trong những trường hợp này, có thể dùng đâu dò
đường âm đạo ép và đẩy tách hai cấu trúc tiếp giáp nhau (Hình 14).
Mấu chốt để chẩn đoán là nhận ra buồng trứng cùng bên là một cấu tước
tách biệt với nang. Trong một nghiên cứu 42 bệnh nhân có nang cạnh buồng
trứng (đã được chứng minh bằng phẫu thuật) được siêu âm đường thành
bụng thì phát hiện buồng trứng cùng bên trong 76% và nang cạnh buồng
trứng có kích thước trung bình 8 cm [31]. Bởi vì hiện nay siêu âm đường
âm đạo được dùng nhiều hơn nên có thể xác định nang nhỏ hơn và nhìn thấy
buồng trứng tách biệt được nhiều hơn.
Hình 13. Nang
cạnh buồng trứng phát hiện tình cờ ở một phụ nữ 23 tuổi có kinh nguyệt
không đều. Ảnh siêu âm đường âm đạo, mặt cắt đứng dọc qua phần phụ trái
cho thấy một nang đơn thuần (*) liên tiếp nhưng tách biệt rõ ràng với
buồng trứng. Các tăng âm phần trên của nang là nhiễu ảnh do dội lại
(reverberative artifact).
Hình 14. Nang cạnh buồng trứng ở một phụ nữ 28 tuổi cảm thấy khó chịu mơ hồ ở bên phải khung chậu. (a) Ảnh siêu âm đường âm đạo, mặt phẳng cắt đứng dọc buồng trứng phải phát hiện một nang có vẻ lồi ra từ buồng trứng.
Hình 14. Nang cạnh buồng trứng ở một phụ nữ 28 tuổi cảm thấy khó chịu mơ hồ ở bên phải khung chậu. (b) Trên
ảnh siêu âm đường âm đạo cắt dọc, ép đầu dò vào buồng trứng phải và chỗ
nang dính vào buồng trứng thấy hai cấu trúc này tách biệt ra rõ ràng,
do đó có thể chẩn đoán nang cạnh buồng trứng.
U nang vùi phúc mạc (Peritoneal Inclusion Cyst, PIC)
U
nang vùi phúc là một loại u nang giả, có dịch tụ bên trong do dính phúc
mạc. Dịch này do buồng trứng tạo ra sau một tổn thương xảy ra ở phúc
mạc; dó đó u nang vùi phúc mạc thường được phát hiện liên quan với lạc
nội mạc tử cung (endometriosis), bệnh viêm ở khung chậu, hoặc sau phẫu
thuật. U nang vùi phúc mạc có thể được nhận ra dựa trên hai đặc điểm chủ
chốt.
1.
Không có thành. U nang vùi phúc mạc điển hình có hình dạng không đều
dựa theo và được xác định bởi bờ của các cấu trúc bao quanh (Hình 15a).
2. Bao bọc buồng trứng. Buồng trứng nằm ở bên trong hoặc ở ngoại vi ổ tụ dịch (Hình 15b) [32,33].
Nếu
các dải phúc mạc bám dính mà dày lên và có mạch máu thì u ang vùi phúc
mạc có thể bị diễn giải sai thành u buồng trứng. Tuy nhiên, sai sót này
không nên xảy ra khi bệnh nhân có tiền sử thích hợp và khi có hai đặc
điểm chủ chốt đã đề cập ở trên.
Hình 15. U
nang vùi phúc mạc ở một phụ nữ 42 tuổi có tiền sử lạc nội mạc tử cung.
Bệnh nhân được siêu âm tiểu khung vì đau và căng phồng tiểu khung. (a) Ảnh
siêu âm đường thành bụng, mặt cắt chếch-ngang phần phụ trái thấy một
cấu trúc dạng nang có hình dạng dựa theo các cấu trúc bao quanh. Một dải
dính phuc mạc (mũi tên) chạy ngang trong nang.
Hình 15. U
nang vùi phúc mạc ở một phụ nữ 42 tuổi có tiền sử lạc nội mạc tử cung.
Bệnh nhân được siêu âm tiểu khung vì đau và căng phồng tiểu khung. (b) Ảnh
siêu âm đường âm đạo, mặt cứt đứng dọc phần phụ trái cho thấy bản chất
thụ động của cấu trúc dạng nang này, nó bao quanh và bọc buồng trứng
trái.
Ghi chú
Tỉ
số khả dĩ (likelihood ratio) bằng 200 cho phép chẩn đoán nang buồng
trứng xuất huyết với độ tin cậy rất cao (có thể xem thêm tại phần Ghi
chú bài “siêu âm hẹp động mạch thận” trong blog này). Tỉ số khả dĩ
thường được sử dụng trong trình bày kết quả nghiên cứu chẩn đoán hình
ảnh và rất hữu ích trong thực hành nên thời gian tới tôi sẽ giới thiệu
chi tiết hơn.