HIV
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
HIV (
tiếng Anh:
human immunodeficiency virus, có nghĩa
virus suy giảm miễn dịch ở người) là một
lentivirus (thuộc họ
retrovirus) có khả năng gây
hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (
AIDS),
[1][2] một tình trạng làm
hệ miễn dịch của
con người bị suy giảm cấp tiến, tạo điều kiện cho những
nhiễm trùng cơ hội làm đe dọa mạng sống và
ung thư phát triển mạnh. HIV lây nhiễm thông qua truyền dẫn
máu, truyền dẫn
tinh dịch,
dịch âm đạo,
tiền phóng tinh (rò rỉ
tinh dịch trên đầu
dương vật) hoặc
sữa mẹ. Trong các chất dịch này của cơ thể, HIV hiện diện dưới cả 2 dạng: hạt virus (virion) tự do và virus trong
tế bào miễn dịch đã nhiễm bệnh. HIV truyền qua bốn đường chính là
tình dục không an toàn, sử dụng kim tiêm bị nhiễm, sữa mẹ, và truyền từ người mẹ bị nhiễm sang con trong quá trình sinh (
lây truyền chu sinh). Đối với các
nước phát triển, thì việc lây nhiễm HIV qua đường máu đã được loại trừ ở mức độ lớn.
Nhiễm HIV ở người được
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) xem như là đại dịch. Việc chủ quan đối với HIV càng làm tăng nguy cơ bị lây bệnh.
[3][4] Từ khi phát hiện ra HIV vào năm 1981 cho đến năm 2006, AIDS đã giết chết hơn 25 triệu người.
[5] Khoảng 0,6% dân số thế giới bị nhiễm HIV.
[5] Năm 2009, toàn thế giới có 1,8 triệu người mắc bệnh AIDS, giảm so với mức đỉnh là 2,1 triệu người trong năm 2004.
[6] Khoảng 260.000 trẻ em chết vì AIDS trong năm 2009.
[6] Một con số không cân xứng của số người tử vong do AIDS ở vùng
tiểu Sahara Châu Phi đã làm chậm tăng trưởng kinh tế và làm trầm trọng thêm gánh nặng của nghèo đói.
[7]
Trong năm 2005, ước tính ở châu Phi có khoảng 90 triệu người bị nhiễm
HIV, kết quả là một ước lượng tối thiểu sẽ có 18 triệu trẻ mồ côi.
[8] Điều trị bằng thuốc kháng retrovirus có thể làm giảm cả hai tỉ lệ tử vong và bệnh tật ở người nhiễm HIV.
[9]
Mặc dù thuốc kháng retrovirus vẫn không có sẵn để dùng rộng rãi, nhưng
việc mở rộng các chương trình điều trị bằng thuốc kháng retrovirus từ
năm 2004 đã làm giảm số lượng các ca tử vong ở người mắc bệnh AIDS và
số ca nhiễm mới ở nhiều nơi trên thế giới.
[6]
Tăng cường việc nhận thức và các biện pháp phòng ngừa đối với người
dân, cũng như quá trình diễn tiến tự nhiên của dịch bệnh, cũng đóng một
vai trò quan trọng. Thế mà, ước tính vẫn có khoảng 2,6 triệu người mới
bị nhiễm HIV trong năm 2009.
[6]
HIV tấn công vào các tế bào quan trọng trong hệ thống miễn dịch của con người như
lympho bào T có tính bổ trợ (cụ thể là những tế bào T - CD4
+),
đại thực bào và
tế bào tua.
[10] Nhiễm HIV làm giảm mạnh số lượng tế bào CD4
+ thông qua 3 cơ chế chính: đầu tiên, virus trực tiếp giết chết các tế bào mà chúng nhiễm vào, sau đó làm tăng tỷ lệ
chết rụng tế bào ở những tế bào bị nhiễm bệnh, bước 3 là các lympho bào T độc (CD8) giết chết những lympho bào T - CD4
+ bị nhiễm bệnh. Khi số lượng các tế bào CD4
+ giảm xuống dưới một mức giới hạn nào đó, sự
miễn dịch qua trung gian tế bào bị vô hiệu và cơ thể dần dần yếu đi tạo điều kiện cho các
nhiễm trùng cơ hội.
Hầu hết những người nhiễm HIV-1 nếu không được chữa trị sẽ tiến triển sang giai đoạn AIDS.
[11] Người bệnh thường chết do nhiễm trùng cơ hội hoặc do các
bệnh ác tính liên quan đến sự giảm sút của hệ thống miễn dịch.
[12]
HIV tiến triển sang AIDS theo một tỷ lệ biến thiên phụ thuộc vào sự tác
động của các virus, cơ thể vật chủ, và yếu tố môi trường; hầu hết sẽ
chuyển sang giai đoạn AIDS trong vòng 10 năm sau khi nhiễm HIV: một số
trường hợp chuyển rất sớm, một số lại lâu hơn.
[13][14] Điều trị bằng kháng
retrovirus
(ARV) có thể kéo dài tuổi thọ của người bị nhiễm HIV. Ngay cả khi HIV
chuyển sang giai đoạn AIDS với những triệu chứng đặc trưng, thì việc
điều trị bằng kháng retrovirus cũng có thể kéo dài tuổi thọ của bệnh
nhân ước tính trung bình là hơn 5 năm (thống kê năm 2005).
[15] Trong khi đó, nếu không điều trị bằng kháng retrovirus thì bệnh nhân AIDS thường sẽ chết trong vòng 1 năm.
[16]
[sửa] Phân loại
So sánh giữa các loài HIV
Loài |
Độc lực |
Khả năng lây truyền |
Mức độ lây lan |
Nguồn gốc (suy đoán) |
HIV-1 |
Cao |
Cao |
Toàn cầu |
Tinh tinh thông thường |
HIV-2 |
Thấp hơn |
Thấp |
Tây Phi |
khỉ Sooty Mangabey |
HIV là virus thuộc
chi Lentivirus,
[17] họ Ritrovirus.
[18] Các Lentivirus có nhiều đặc tính hình thái và đặc tính sinh học giống nhau. Lentivirus có thể truyền bệnh cho nhiều
loài, với đặc trưng là thời gian nhiễm và ủ bệnh rất dài.
[19]
Dòng di truyền của nó là dòng di truyền ngược chiều từ
RNA sang
DNA chứ không phải thuận chiều DNA sang RNA. Lentivirus truyền đi dưới dạng virus mang
RNA chuỗi đơn dương (single-stranded, positive-sense) có màng bao bên ngoài. Khi xâm nhập vào
tế bào đích,
bộ gen trong RNA của virus được chuyển đổi (phiên mã ngược) thành
DNA mạch kép bởi
enzym phiên mã ngược đã được vận chuyển cùng với bộ gen của virus trong các hạt virus. DNA của virus được tạo ra sau đó được đưa vào
nhân tế bào và tích hợp vào DNA của tế bào nhờ enzym
integrase của virus và các
cofactor của tế bào chủ.
[20]
Sau khi tích hợp, virus trở thành tiềm ẩn, cho phép virus và tế bào chủ
của nó có thể tránh bị hệ thống miễn dịch phát hiện. Ngoài ra, virus
này có thể được sao chép, sản sinh bộ gen RNA và
protein của virus, sau đó đóng gói và phát tán từ tế bào dưới dạng các hạt virus mới và bắt đầu vòng tái tạo tiếp tục.
Hai loại HIV đã được định rõ đặc điểm: HIV-1 và HIV-2. HIV-1 là loại
virus ban đầu được phát hiện và đặt tên là LAV và HTLV-III. HIV-1 độc
hơn HIV-2,
[21]
và là nguyên nhân của phần lớn các ca nhiễm HIV trên toàn cầu. HIV-2 có
khả năng lây nhiễm thấp hơn HIV-1 cho nên nó chỉ hạn chế ở
Tây Phi.
[22]
[sửa] Dấu hiệu và triệu chứng
Đồ thị tổng quát về mối quan hệ giữa số lượng các bản sao chép của HIV (tải lượng virus) và số lượng tế bào T-CD4
+ trung bình các ca nhiễm HIV không được điều trị, tất nhiên đối với từng cá nhân cụ thể có thể khác nhau đáng kể.
số lượng tế bào T-CD4+ (tế bào/µL)
Bản sao RNA của HIV mỗi mL huyết tương
Nhiễm HIV-1 dẫn đến sự suy giảm cấp tiến số lượng tế bào T-CD4
+ và tăng
tải lượng virus cũng như nồng độ HIV trong máu. Có thể xác định giai đoạn nhiễm bệnh bằng cách đo số lượng tế bào T-CD4
+ và tải lượng virus của bệnh nhân.
Nhiễm HIV có 3 giai đoạn: giai đoạn nhiễm trùng cấp tính (còn gọi là
nhiễm trùng tiên phát),
giai đoạn tiềm ẩn và giai đoạn AIDS. Nhiễm trùng cấp tính kéo dài trong
vài tuần và có thể bao gồm các triệu chứng như nổi hạch (sưng
hạch bạch huyết),
sốt,
viêm họng,
phát ban, đau cơ, khó chịu, lở loét
miệng và
thực quản.
Giai đoạn tiềm ẩn không có triệu chứng và có thể kéo dài từ hai tuần
đến hai mươi năm hoặc hơn, tùy thuộc vào từng cá nhân. Giai đoạn AIDS
là giai đoạn cuối của nhiễm HIV, được xác định bởi số lượng tế bào T-CD4
+ thấp (ít hơn 200 trong một
mircolit), những bệnh nhiễm trùng cơ hội,
ung thư và các tình trạng khác.
Một tỷ lệ nhỏ các cá thể bị nhiễm HIV-1 vẫn giữ số lượng tế bào T-CD4
+
ở mức cao mà không cần liệu pháp kháng ritrovirus. Tuy nhiên, hầu hết
vẫn có thể phát hiện thông qua tải lượng virus và cuối cùng cũng sẽ
tiến triển thành AIDS, mặc dù chậm hơn so với những người khác. Những
người này được phân loại là những
HIV controller hoặc
long-term nonprogressor (LTNP). Những bệnh nhân có thể duy trì số lượng tế bào T-CD4
+
đồng thời có tải lượng virus thấp hoặc không thể phát hiện được trên
lâm sàng mà không cần điều trị kháng retrovirus được gọi là những
elite controller hoặc
elite suppressor (ES).
[23][24]
[sửa] Giai đoạn cấp tính
Những triệu chứng chính của giai đoạn nhiễm HIV cấp tính.
Nhiễm HIV thường xảy ra bằng cách đưa các chất dịch cơ thể từ người
bị nhiễm bệnh vào cơ thể của một người không bị nhiễm bệnh. Giai đoạn
virus nhân lên một cách nhanh chóng xảy ra ngay sau đó, dẫn đến có
nhiều virus trong máu ngoại biên. Ở giai đoạn này, mức HIV có thể lên
đến vài triệu hạt virus trong mỗi ml máu.
[25]
Phản ứng này đi kèm với việc lưu lượng tế bào T-CD4
+ bị giảm đáng kể. Trong tất cả các bệnh nhân, mức virus này thực tế là do sự hoạt hóa của các tế bào T-CD8
+ đã giết chết những tế bào bị nhiễm HIV, sau đó sản sinh các kháng thể hoặc biến đổi huyết thanh. Phản ứng của tế bào T-CD8
+ được cho là quan trọng trong việc kiểm soát mức virus từ mức cao trở thành suy giảm dần, và phục hồi số lượng tế bào T-CD4
+. Phản ứng của tế bào T-CD8
+ tốt sẽ làm tiến triển bệnh chậm hơn và việc dự đoán bệnh tốt hơn, mặc dù nó không thể loại trừ được virus.
[26]
Trong thời gian này (thường là 2-4 tuần sau khi phơi nhiễm), hầu hết các bệnh nhân (80-90%) sẽ mắc bệnh
cúm hoặc bệnh gần giống như
bệnh bạch cầu đơn nhân, gọi chung là nhiễm HIV cấp tính, có thể với các triệu chứng phổ biến bao gồm
sốt, nổi hạch,
viêm họng, phát ban, đau cơ, khó chịu, lở miệng và thực quản, và ít phổ biến hơn còn có các triệu chứng như
nhức đầu,
buồn nôn và
nôn, sưng
gan/
lá lách, giảm cân,
bệnh tưa miệng,
và các triệu chứng thần kinh. Từng cá thể bị nhiễm bệnh có thể có 1
hoặc vài triệu chứng này, cũng có trường hợp không xuất hiện bất cứ
triệu chứng nào. Thời gian của các triệu chứng là khác nhau, trung bình
kéo dài 28 ngày và ngắn nhất thường là một tuần.
[27]
Do tính chất không rõ ràng của những triệu chứng này, cho nên bệnh
nhân thường không nhận ra các dấu hiệu của nhiễm HIV. Ngay cả khi bệnh
nhân đến bác sĩ hay bệnh viện, họ thường sẽ được chẩn đoán nhầm là bị
một trong các bệnh nhiễm khuẩn thông thường với các triệu chứng tương
tự. Hệ quả là, những triệu chứng tiên phát này không được sử dụng để
chẩn đoán nhiễm HIV, vì không phải tất cả các trường hợp nhiễm HIV đều
xuất hiện những triệu chứng này và phần lớn lại giống triệu chứng của
các bệnh thông thường khác. Tuy nhiên, nhận biết hội chứng có thể quan
trọng, bởi vì bệnh nhân có thể dễ lây bệnh cho nhiều người trong giai
đoạn này.
[28]
[sửa] Giai đoạn mạn tính
Sự bảo vệ mạnh mẽ của hệ miễn dịch sẽ làm giảm số lượng của các hạt
virus trong máu, chuyển sang giai đoạn nhiễm HIV mạn tính. Giai đoạn
này có thể kéo dài từ 2 tuần cho đến 20 năm tùy theo từng trường hợp.
Trong suốt giai đoạn mạn tính, HIV hoạt động trong các hạch bạch huyết,
làm cho các hạch này thường bị sưng do phản ứng với một số lượng lớn
virus bị kẹt trong mạng lưới các
tế bào tua hình nang (FDC).
[29] Các mô giàu tế bào CD4
+
xung quanh cũng có thể bị nhiễm bệnh, các hạt virus tích tụ cả trong
các tế bào bị nhiễm và ở dạng virus tự do. Trong giai đoạn này bệnh
nhân vẫn có khả năng lây bệnh, tế bào T CD4
+ CD45RO
+ mang theo tải lượng virus nhiều nhất
[30], và việc bắt đầu sớm điều trị kháng retrovirus sẽ cải thiện đáng kể thời gian sống.
[31]
[sửa] Giai đoạn AIDS
-
Khi số lượng các tế bào CD4
+ giảm xuống dưới một mức 200 tế bào trên 1µL máu, sự
miễn dịch qua trung gian tế bào bị vô hiệu và xuất hiện nhiễm trùng do một loạt các
vi sinh vật
cơ hội gây ra. Các triệu chứng đầu tiên thường bao gồm giảm cân vừa
phải và không giải thích được, nhiễm trùng đường hô hấp tái phát (như
viêm xoang,
viêm phế quản,
viêm tai giữa,
viêm họng),
viêm tuyến tiền liệt, phát ban da, và loét miệng.
Nhiễm trùng cơ hội và các khối u phổ biến ở người bình thường sẽ bị tế bào miễn dịch trung gian CD4
+ khống chế sau đó chúng mới ảnh hưởng đến người bệnh. Đặc trưng của mất sức đề kháng là sẽ nhanh chóng bị nhiễm vi nấm
Cadila species gây nên bệnh nấm miệng (còn gọi là đẹn trắng hay tưa miệng) hoặc nhiễm vi khuẩn hiếu khí
Mycobacterium tuberculosis (MTB) gây
bệnh lao. Sau đó, các
virus herpes tiềm ẩn sẽ được kích hoạt gây tái phát ngày càng nặng hơn các tổn thương đau đớn phun trào do
herpes simplex,
bệnh zona,
ung thư hạch bạch huyết do
virus Epstein-Barr và ung thư
Kaposi's sarcoma.
Viêm phổi do nấm
Pneumocystis jirovecii cũng phổ biến và thường gây tử vong. Trong giai đoạn cuối của AIDS, đáng chú ý là những bệnh nhiễm
cytomegalovirus (một loại
virus herpes) hoặc nhiễm
Mycobacterium avium complex.
Không phải tất cả các bệnh nhân AIDS đều bị tất cả các bệnh nhiễm trùng
hoặc các khối u trên, nhưng có các loại khối u và các bệnh nhiễm trùng
khác ít nổi bật hơn nhưng vẫn đáng kể.
[sửa] Lây truyền
Ước tính cho mỗi hành động có nguy cơ bị lây virus HIV[32][33]
Đường tiếp xúc |
Dự kiến bị lây nhiễm tính trên
10.000 tiếp xúc
với một nguồn bệnh. |
Truyền máu |
9,000[34] |
Sinh sản |
2,500[35] |
Dùng chung kim chích ma túy |
67[36] |
Kim châm qua da |
30[37] |
Người nhận trong giao hợp qua đường hậu môn. (nghiên cứu năm 2009 và 2010) |
170‡ [30–890][38] / 143 [48-285][33] |
Người nhận trong giao hợp qua đường hậu môn. (dựa trên cở sở dữ liệu của nghiên cứu năm 1992) |
50[39][40] |
Người cho trong giao hợp qua đường hậu môn chưa cắt bao quy đầu (số liệu 2010) |
62a [7-168][33] |
Người cho trong giao hợp qua đường hậu môn đã cắt bao quy đầu (số liệu 2010) |
11a [2–24][33] |
Người cho trong giao hợp qua đường hậu môn (số liệu năm 1992) |
6.5[39][40] |
Nữ truyền cho nam trong quốc gia có thu nhập thấp. |
38‡ [13–110][38] |
Nam truyền cho nữ trong quốc gia có thu nhập thấp. |
30‡ [14–63][38] |
Người nhận (nữ ) trong giao hợp âm đạo - dương vật |
10[39][40][41] |
Người cho (nam) trong giao hợp âm đạo - dương vật |
5[39][40] |
Dùng miệng để quan hệ tình dục với một người đàn ông |
1†b[40] |
Đàn ông để người khác quan hệ tình dục bằng miệng với mình |
0.5†b[40] |
Các dữ liệu được hiển thị đại diện cho tỷ lệ lây truyền khi bao cao su không được sử dụng. Lưu ý rằng tỷ lệ rủi ro có thể thay đổi do các yếu tố khác như tiếp xúc với gái mại dâm, giai đoạn nhiễm HIV, bị nhiễm trùng hoặc có tiền sử loét bộ phận sinh dục, và mức thu nhập quốc gia.[38]
|
Giá trị trong ngoặc vuông [] đại diện cho độ tin cậy khoảng 95%
† "ước đoán tốt nhất"
‡ Ước tính xác suất lây truyền đã được gộp lại. |
a Các nghiên
cứu khác tìm thấy đủ bằng chứng chứng minh rằng nam giới cắt bao quy
đầu bảo vệ chống lại sự lây nhiễm HIV đối với những người đàn ông có
quan hệ tình dục với nam giới [42][43] |
b Có vết thương, lở loét, viêm ở răng miệng, nhiễm các bệnh lây truyền qua đường tình dục, xuất tinh trong miệng, hoặc bị ức chế hệ thống miễn dịch có thể làm tăng tỷ lệ lây truyền HIV.[44] |
Ba đường lây truyền chính của HIV đã được xác định. HIV-2 có xác
suất truyền qua đường mẹ sang con và quan hệ tình dục ít hơn HIV-1.
[sửa] Tình dục
Tình trạng nhiễm HIV trong năm 2007.
Phần lớn HIV lây qua đường
quan hệ tình dục
không được bảo vệ (quan hệ tình dục không an toàn). Việc chủ quan đối
với HIV đóng một vai trò quan trọng trong nguy cơ bị lây bệnh.
[3][4]
Lây truyền qua đường tình dục có thể xảy ra khi chất tiết sinh dục của
một bạn tình có chứa virus, tiếp xúc với niêm mạc sinh dục, miệng, hoặc
trực tràng
của người còn lại. Ở các quốc gia có thu nhập cao, nguy cơ nữ lây
truyền cho nam là 0.04% cho mỗi lần quan hệ và nam truyền cho nữ là
0.08%. Vì những lý do khác nhau, nguy cơ này cao hơn từ 4 đến 10 lần ở
các nước có thu nhập thấp.
[38] Người nhận trong
giao hợp qua đường hậu môn có nguy cơ bị lây nhiễm cao hơn nhiều, 1.7% cho mỗi lần quan hệ.
[38]
Các phân tích của các nghiên cứu năm 1999 về việc sử dụng bao cao su
cho thấy rằng nếu sử dụng bao cao su đúng cách sẽ làm giảm nguy cơ lây
truyền qua đường tình dục của HIV khoảng 85%.
[45] Tuy nhiên, chất diệt tinh trùng thực sự có thể làm tăng tỷ lệ lây truyền.
[46][47][48]
Những thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên, trong đó, nam giới chưa
cắt bao quy đầu được phân ngẫu nhiên để được giải phẫu cắt bao quy đầu trong điều kiện vô trùng và được tư vấn đã được thực hiện tại
Nam Phi,
[49] Kenya,
[50] và
Uganda,
[51]
kết quả cho thấy mức độ lây nhiễm HIV trong đường tình dục nữ truyền
cho nam giảm xuống 60%, 53%, và 51%, tương ứng với từng quốc gia. Từ
kết quả này,
WHO và Ban Thư ký
UNAIDS
đã triệu tập một nhóm chuyên gia để "khuyến cáo rằng nam giới cắt bao
quy đầu được công nhận như là một sự can thiệp bổ sung quan trọng để
giảm nguy cơ lây nhiễm HIV trong quan hệ tình dục
dị tính luyến ái đối với nam giới".
[52] Đối với trường hợp
nam có quan hệ tình dục với nam, không có đủ bằng chứng để chứng minh nam giới cắt bao quy đầu sẽ bảo vệ chống lại nhiễm HIV hoặc nhiễm những
bệnh lây truyền qua đường tình dục khác.
[42]
Các nghiên cứu về lây truyền HIV ở phụ nữ đã cắt bộ phận sinh dục
(FGC) đã báo cáo các kết quả khác nhau, nhưng với một số bằng chứng cho
rằng việc này làm tăng nguy cơ lây truyền.
[53][54][55][56]
Theo báo cáo về các nghiên cứu trong năm 2007 của
Cochrane Collaboration,
thì các chương trình nhằm mục đích khuyến khích việc tiết chế tình dục
trong giới trẻ ở những nước phát triển, đồng thời cũng thực hiện các
chiến lược cổ động và giáo dục về
tình dục an toàn cho những đối tượng đã có
quan hệ tình dục, có thể làm giảm trong ngắn hạn và dài hạn những hành vi có rủi ro lây nhiễm HIV.
[57]
[sửa] Các sản phẩm máu
Nói chung, nếu
vết thương hở tiếp xúc với máu bị nhiễm HIV thì sẽ bị lây truyền. Các đối tượng dễ bị lây nhiễm qua đường máu là những người
tiêm chích ma túy, những bệnh nhân mắc
bệnh rối loạn đông máu di truyền
(bệnh ưa chảy máu), người nhận trong quá trình truyền máu (mặc dù hầu
hết ở các nước thì máu khi dùng để truyền đều được xét nghiệm HIV) và
các sản phẩm máu. Lây truyền HIV qua đường máu cũng là vấn đề lo ngại
đối với những người được chăm sóc y tế tại các khu vực có vệ sinh không
đạt tiêu chuẩn thông thường trong việc sử dụng các dụng cụ tiêm chích,
chẳng hạn như việc tái sử dụng kim tiêm ở các nước
thế giới thứ ba.
Nhân viên y tế như y tá, nhân viên phòng thí nghiệm, và các bác sĩ cũng
là đối tượng rủi ro cao, mặc dù hiếm xảy ra hơn. Kể từ khi việc lây
nhiễm HIV qua đường máu được phát hiện thì các nhân viên y tế cần thiết
phải bảo vệ mình không tiếp xúc với máu bằng cách sử dụng các biện pháp
dự phòng phổ quát. Trong quá trình
xăm,
xâu khuyên, và
rạch da thì cả người thực hiện lẫn người được làm cũng đều dễ bị lây nhiễm HIV qua đường máu.
HIV được tìm thấy với nồng độ thấp trong
nước bọt,
nước mắt, và
nước tiểu
của các cá nhân bị nhiễm bệnh, nhưng không có trường hợp nào bị lây
nhiễm bởi những chất tiết này được ghi nhận và nguy cơ tiềm năng lây
truyền là không đáng kể.
[58] Muỗi không thể truyền HIV.
[59]
[sửa] Mẹ truyền sang con
Việc lây truyền virus từ mẹ sang con có thể xảy ra trong
tử cung (trong thời kỳ mang thai), trong quá trình chuyển dạ (
sinh con), hoặc thông qua việc cho con bú. Trong trường hợp không điều trị, tỷ lệ lây truyền giữa mẹ và con lên đến khoảng 25%.
[35] Tuy nhiên, với sự kết hợp điều trị bằng
thuốc kháng virus và
mổ lấy thai thì nguy cơ này có thể được giảm xuống thấp khoảng 1%.
[35]
Sau khi sinh thì có thể ngăn ngừa lây truyền bằng cách tránh hoàn toàn
nuôi con bằng sữa mẹ, tuy nhiên, điều này liên quan đáng kể đến các
bệnh khác. Cho con bú hoàn toàn bằng sữa mẹ và cung cấp điều trị dự
phòng kháng virus mở rộng cho
trẻ sơ sinh cũng có hiệu quả trong việc tránh lây truyền.
[60]
UNAIDS ước tính có 430.000 trẻ em bị nhiễm HIV trên toàn thế giới trong
năm 2008 (19% là các ca nhiễm mới), chủ yếu là từ đường mẹ sang con, và
thêm 65.000 ca lây nhiễm đã được ngăn chặn thông qua việc cung cấp điều
trị dự phòng kháng virus cho phụ nữ nhiễm HIV dương tính.
[61]