Phòng Khám Mai dịch Sô 9 Ngách 1, Ngõ 58, Trần vỹ, Cầu Giấy, Hà Nội Đt 0766200777 Phòng khám( Làm việc Từ 8h đến 21h các ngày thứ 2 đến thứ 6 , Thứ 7, Chủ Nhật Làm cả ngày)
Đến với phòng khám bạn sẽ được các Bác sỹ đầu nghành chăm sóc, khám bệnh và điều trị với các máy móc hiện đại như , Siêu âm màu 4D, Máy xét nghiệm , Máy điện tim, Nội soi cổ tử cung. Khám các bệnh sản phụ khoa, điều trị vô sinh, Quản lý thai nghén. điều tri các bệnh viêm âm đạo, Viêm lộ tuyến Cổ tử cung.
Việt Nam: Một trong mười nước có tỉ lệ phá thai cao nhất
Tại
hội nghị Sản phụ khoa Việt-Pháp-Châu Á Thái Bình Dương, các bác sĩ bệnh
viện Từ Dũ cho biết: “Việt Nam là 1 trong 10 nước có tỷ lệ phá thai cao
nhất (20%), đặc biệt là ở trẻ vị thành niên”.
Nguy cơ từ phá thai,đặc biệt ở tuổi vị thành niên, là rất lớn
Quan hệ tình dục từ tuổi vị thành niên
BS Phạm Thanh Hải,
Bệnh viện Từ Dũ khẳng định: “Số trẻ vị thành niên dưới 19 tuổi phá thai
đang tăng đều mỗi năm”. Tại bệnh viện Từ Dũ, nếu năm 2005 có 388 trẻ vị
thành niên phá thai thì đến năm 2008 đã là 512 trẻ. Còn theo tổng kết
năm 2009 của Trung tâm Chăm sóc sức khỏe sinh sản TPHCM thì có 2,4% trẻ
vị thành niên trong tổng số 100.283 phụ nữ đến trung tâm phá thai.
Theo các BS, trẻ vị
thành niên có tỷ lệ phá thai cao là do các em đã quan hệ tình dục quá
sớm nhưng lại mù mờ về kiến thức sức khỏe sinh sản (hơn 90% trẻ vị
thành niên không biết độ tuổi có thai phù hợp, 61% thì không biết về
thời điểm dễ mang thai nhất, cũng như 50% không biết về các biện pháp
tránh thai) trong khi các thông tin về tình dục hiện ngày càng dễ tìm
thấy (phim ảnh, báo chí nhất là các loại hình báo mạng)…, gia đình và
học đường vẫn còn nhiều lúng túng trong việc giáo dục về tình dục cho
trẻ vị thành niên.
Phá thai và những hệ lụy
Phá thai ở tuổi vị
thành niên có thể dẫn tới nhiều nguy cơ như ảnh hưởng về tâm sinh lý
sau này (bị rối loạn tâm thần, trầm cảm…), rối loạn kinh nguyệt (chiếm
khoảng 14%), sót nhau (3,7%), các sang chấn ở tử cung dễ dẫn đến sẩy
thai, tiền sản giật ở lần mang thai sau, ung thư vú
Đáng chú ý với những thai đã lớn (trên 21 tuần tuổi), việc phá thai có thể dẫn đến tỷ lệ tử vong (khoảng 18%).
Hà Nội thừa nam thiếu nữ nghiêm trọng
Tỷ số giới tính khi sinh tại Hà Nội trong 6 tháng đầu năm vẫn ở mức báo
động là 118 trẻ trai trên 100 trẻ gái, tăng 1 điểm % so với năm ngoái
(117 nam trên 100 nữ).
Ảnh minh họa: Tiến Dũng.
Thông tin được đưa ra tại lễ mitting hưởng ứng Ngày Dân số thế giới diễn ra tại Hà Nội sáng 9/7.
Năm 2004, tỷ số giới tính khi sinh của thủ đô vẫn ở
ngưỡng cho phép (107 bé trai trên 100 bé gái). Tuy nhiên, trong hai năm
2009-2010, tỷ số này vọt lên mức 117 trẻ trai sinh ra trên 100 trẻ gái,
thuộc nhóm các tỉnh, thành có sự mất cân bằng giới cao nhất cả nước. Tỷ
số này vẫn tiếp tục đà tăng trong 6 tháng đầu năm 2011.
Trong khi đó, theo tổng điều tra dân số Việt Nam năm
2009, tỷ số giới tính khi sinh trung bình ở cả nước hiện là 110,5 bé
trai trên 100 bé gái.
Nguyên nhân của tình trạng trên là do quan niệm cũ
thích con trai hơn con gái, trong gia đình phải "có nếp có tẻ", "sinh
con trai để nối dõi tông đường"... Đặc biệt là vùng nông thôn nghèo,
suy nghĩ này vẫn còn vô cùng nặng nề. Không những thế người dân thủ đô
lại có điều kiện thực hiện lựa chọn với sự nở rộ các dịch vụ siêu âm,
chẩn đoán hình ảnh, nạo phá thai...
Bà Nguyễn Thị Bích Ngọc, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân
dân thành phố cho biết, Hà Nội sẽ tiếp tục triển khai tổng thể nhiều
biện pháp như đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp
luật, chính sách về dân số, mở rộng các mô hình nâng cao chất lượng dân
số về chăm sóc sức khỏe sinh sản nhằm giảm thiểu mất cân bằng giới
tính...
Tại Việt Nam, mỗi năm, hơn 5.100 trường hợp ung thư cổ tử cung mắc mới
và khoảng 2.400 phụ nữ chết vì căn bệnh này. Đây là những con số được
báo cáo trong hội thảo về vắc-xin tiêm phòng các bệnh do virus HPV gây
ra.
Tháng 7 vừa qua,
tại TP HCM, hơn 300 y - bác sĩ khu vực phía Nam đã dự hội thảo
“Gardasil - văcxin tứ giá ngừa HPV (human papiloma virus) - Tiên phong
và dẫn đầu phòng ngừa các bệnh do HPV gây ra - Món quà cho cuộc sống”
do bác sĩ Phạm Việt Thanh (Giám đốc Sở Y tế TP HCM) chủ trì. Chương
trình còn có sự tham dự và báo cáo tham luận của Tiến sĩ Trần Ngọc Hữu
- Viện trưởng Viện Pastuer TP HCM, Giáo sư Marc Steben (Viện Y tế cộng
đồng Québec - Canada) cùng một số bác sĩ đầu ngành về lĩnh vực phòng
chống HPV.
Hội thảo đã công bố con số khiến nhiều
người quan ngại. Tại Việt Nam, mỗi năm có đến hơn 5.100 trường hợp ung
thư cổ tử cung mắc mới và đã có khoảng 2.400 phụ nữ chết vì căn bệnh
này. Hiện nay, ung thư cổ tử cung là bệnh gây chết người thứ 2 trong
các loại ung thư mà phụ nữ mắc phải. Trên thế giới, 630 triệu người bị
nhiễm virus HPV. Mỗi ngày, 750 phụ nữ (trong đó tại châu Á, hơn 400 phụ
nữ) chết vì nó.
Các chuyên gia giải đáp thắc mắc tại hội thảo.
Giáo sư Marc Steben-một trong 10 giáo
sư đầu ngành trên thế giới, người có thâm niên trong việc nghiên cứu về
HPV, chia sẻ tại hội thảo: “Trong các bệnh nhiễm gây ung thư, 21% tất
cả các ung thư do nhiễm trùng gây ra (7,7% ở các nước phát triển, 26,3%
ở các nước đang phát triển); 5.2% của tất cả các ung thư là do HPV gây
ra (2,2% các nước phát triển, 7,7% các nước đang phát triển)". Mối liên
hệ giữa HPV và ung thư cổ tử cung mạnh gấp 7 lần mối liên hệ giữa hút
thuốc lá và ung thư phổi. Đặc biệt, ung thư cổ tử cung thường xuất hiện
ở phụ nữ từ 35 đến 60 tuổi. Việt Nam là một nước đang phát triển, nên
nguy cơ bị nhiễm HPV cao hơn.
Với suy nghĩ thông thường, nhiều người
lầm tưởng virus HPV gây nên ung thư cổ tử cung là chính, nên nam giới
không quan tâm. Thực tế, các quý ông cũng có nguy cơ vướng HPV, biểu
hiện cụ thể là mụn cóc sinh dục, đa bướu gai hô hấp tái diễn và ung thư
dương vật. Trong đó, ung thư hậu môn, ung thư hầu họng (lưỡi, amiđan,
họng và khẩu cái mềm) là vấn đề cấp thiết mà nam giới đang cần quan tâm.
Giáo sư Marc Steben mang đến hội thảo
những câu chuyện sống động, hình ảnh đáng sợ do HPV gây ra. Ông chia
sẻ: “Tôi từng tiếp xúc nhiều những trường hợp bị nhiễm HPV, đặc biệt là
các chị em nhiễm HPV chuyển thành ung thư cổ tử cung. Khó kể hết nỗi
đau đớn, tuyệt vọng của họ". Giáo sư cũng chia sẻ phụ nữ nên đi tiêm
ngừa HPV từ trước.
Giáo sư Marc Steben, Viện Y tế cộng đồng Québec-Canada thuyết trình về bệnh học liên qua đến HPV.
Hội thảo cũng đặt ra thực tế, nhiều
người dân vẫn chủ quan phòng HPV. Thực tế không phải vậy, các nhà khoa
học đã chứng minh, tất cả mọi phụ nữ trong độ tuổi sinh hoạt tình dục
sẽ nhiễm HPV ít nhất một lần trong đời. Đa số bệnh sẽ thoái triển nhưng
một số tiếp tục tiến triển và trở thành ung thư cổ tử cung, ung thư âm
hộ hoặc ung thư âm đạo. Một vấn đề quan trọng là không ai có thể biết
mình sẽ sạch nhiễm hay tiếp tục âm thầm tiến triển thành ung thư. Điều
đó cho thấy, tiêm ngừa là việc mỗi người cần làm và nên làm sớm.
Báo cáo tại hội thảo, tiến sĩ Cao Hữu
Nghĩa (Trưởng Khoa phòng khám Viện Pasteur TP HCM) nhấn mạnh hiện nhiều
người chưa tiếp cận được với vắcxin ngừa HPV do một số rào cản. Đó là
vị trí địa lý (người dân ở vùng sâu vùng xa khó lên thành phố để tiêm
ngừa còn vắcxin lại chưa về được những vùng đó), điều kiện kinh tế (với
một số bộ phận dân chúng, thu nhập chỉ đủ ăn, không trích ra được phần
tài chính để chủ động lo cho sức khỏe), tâm lý “nước đến chân mới
nhảy”… Tất cả tạo nên thói quen chưa chủ động đi tiêm ngừa. Đây là vấn
đề nên được thay đổi sớm.
Mới đây, Thạc sĩ, bác sĩ Lê Thị Kiều
Dung (Giảng viên Bộ môn Phụ sản - ĐH Y Dược TP HCM) cùng đồng nghiệp tổ
chức khảo sát, nghiên cứu về virus HPV tại 20 phường xã tại Việt Nam.
Qua khảo sát, bác sĩ cho biết người dân vẫn chủ quan, chưa ý thức phải
tiêm phòng.
Cơ quan Quản lý Dược và Thực phẩm Mỹ (FDA) đã chấp thuận vắcxin tứ giá
ngừa ung thư hậu môn và các thương tổn tiền ung thư đi kèm do virus HPV
type 6, 11, 16 và 18 gây ra ở người từ độ tuổi 9 đến 26.
Đồng thời văcxin cũng được chứng nhận ngừa ung thư âm đạo, âm hộ và cổ
tử cung và những tổn thương tiền ung thư đi kèm gây ra bởi 4 type virus
trên ở nữ giới, ngừa mào gà sinh dục gây ra bởi virus HPV type 6 và 11
ở cả nam và nữ.
Theo Giáo sư Marc Steben, tính đến tháng 8/2009, vắcxin tứ giá ngừa HPV
đã được cấp phép trên 124 quốc gia trên toàn thế giới với trên 50 triệu
liều. Đến tháng 2/2010, khoảng 70 triệu liều đã được phân phối.
Qua các cuộc thử nghiệm lâm sàng trên thế giới của nhóm nghiên cứu Future II & III(Nhóm
nghiên cứu thử nghiệm vắc xin HPV với sự tham gia của các chuyên gia
trong lĩnh vực đến từ nhiều nước khác nhau), vắcxin tứ giá ngừa được
99% loạn sản cổ tử cung, tổn thương âm hộ, âm đạo và sùi sinh dục, 100%
loạn sản âm hộ, âm đạo.
Hiện
nay, tình trạng nghiện tình dục đang gia tăng do ngành công nghiệp giải
trí ngày càng phát triển. Người mắc chứng nghiện tình dục luôn bị thôi
thúc, bức xúc phải tìm cách giải tỏa ẩn ức thông qua việc tìm kiếm các
trải nghiệm tình dục. Họ luôn cảm thấy thèm khát tình dục đến mức không
cưỡng lại được, về bản chất cũng giống như tình trạng nghiện cờ bạc,
rượu, ma túy…
Tình trạng suốt ngày bị ám ảnh về tình dục và việc phải dành quá nhiều
thời gian, sức khỏe và tiền bạc cho các hoạt động tình dục gây khó khăn
trầm trọng cho công việc, học hành, các mối quan hệ gia đình và xã hội.
Mặc dù ý thức được chứng nghiện tình dục đang hủy hoại nghiêm trọng bản
thân và gia đình và đã cố gắng tự “cai” nhiều lần nhưng thường không
chừa được.
Vì khi ngưng các hoạt động tình dục, họ hồi hộp, choáng váng, mệt mỏi,
khó chịu trong người, không thể tập trung làm việc hay học tập được và
tình trạng này chỉ chấm dứt khi họ quay lại thói quen cũ. Người nghiện
tình dục cảm thấy thất vọng và bất lực về những hành vi của mình. Họ chỉ
quan tâm đến hoạt động tình dục mà không quan tâm đến các hoạt động xã
hội, nghề nghiệp hay giải trí.
Đôi khi họ phải thực hiện hành vi tình dục để giải quyết cảm giác căng
thẳng ngay cả trong hoàn cảnh không thích hợp. Biết rằng làm thế sẽ gây
ảnh hưởng xấu đến bản thân, gia đình nhưng họ vẫn không từ bỏ được. Khi
gặp bế tắc hay khó khăn, họ nghĩ ngay đến tình dục như là giải pháp
chính, nhu cầu về hoạt động tình dục ngày càng gia tăng và liên quan đến
những thay đổi cảm xúc quan trọng (như trầm cảm, hưng cảm).
Một số bệnh lý tâm thần có thể xuất hiện ở người nghiện tình dục: lệch
lạc tình dục, tâm thần phân liệt, rối loạn nhân cách chống đối xã hội,
rối loạn nhân cách ranh giới, kèm theo nghiện ma túy hay rượu. Có trường
hợp bị đưa ra toà do phạm tội ******** hoặc lạm dụng tình dục, đặc biệt
có phạm nhân nam thường xuyên tiếp xúc tình dục với người già và trẻ
em. Họ thực hiện hành vi tình dục bừa bãi mà không thể kiểm soát. Theo
thống kê, khoảng 55% người phạm tội tấn công tình dục bị chứng bệnh này.
1. Định nghĩa:
Thuật ngữ “nghiện tình dục” được dùng để mô tả các hành vi của người có
cường độ tình dục cao bất thường hoặc có ham muốn tình dục thái quá
không thể kiểm soát nổi, đến mức trở thành một dạng bệnh lý
(Hyper***uality).
Ám ảnh tình dục có xu hướng thống trị suy nghĩ của những người nghiện
tình dục, khiến họ khó tập trung làm việc hoặc tham gia vào các mối quan
hệ cá nhân lành mạnh. Đây là lối sống chiều theo bản năng, không chịu
rèn luyện nhân cách, không nuôi dưỡng những ước mơ cao đẹp mà chỉ chạy
theo những ham muốn nhằm thoả mãn nhu cầu xác thịt. Được phân chia thành
chứng cuồng dâm (ở nam) và chứng hứng tình(ở nữ).Khái niệm này được đưa
ra bởi Patrick Carner, người sáng lập ra một trường đào tạo về tâm lý
học của Hoa kỳ và phụ trách một phòng thí nghiệm tại trung tâm sức khoẻ ở
Minneapolis. Ông viết nhiều cuốn sách về Nghiện (ma tuý, cờ bạc, rượu,
tình dục,…).
Người nghiện *** tham gia vào các tư duy méo, thường hợp lý hoá và biện
minh cho lối sống của mình và đổ lỗi cho người khác về những rắc rối.
Họ phủ nhận mình có vấn đề và đưa ra những lý do bào chữa cho hành động
của bản thân, dù biết việc mình làm là xấu và có hại nhưng vẫn không từ
bỏ, thường thiếu kiểm soát hành vi, bất chấp những hậu quả tiêu cực (về
tình cảm, tài chính, sức khoẻ, xã hội). 2. Cách nhận biết:
Những biểu hiện thường gặp của nghiện tình dục bao gồm: muốn thủ dâm
nhiều lần, luôn bị ám ảnh và thích tranh ảnh “mát mẻ”, phim gợi dục,
thường quan hệ với gái mại dâm, thích đi massage, gội đầu trá hình, ****
nhăng, ngoại tình với nhiều người cùng lúc. Biểu hiện nặng hơn là tật
thích nhìn trộm, phô bày cơ quan sinh dục, quấy rối tình dục theo nhiều
kiểu, lạm dụng tình dục, bạo hành tình dục, ********…
Người nghiện *** có tính cách tò mò và các biểu lộ gần giống như những
đứa trẻ. Tất cả những gì họ thực sự muốn là yêu thương và thoải mái, chứ
chưa chắc đã chỉ vì ***. Nhưng trên thực tế, họ thường bị mọi người
đánh giá như những kẻ chơi bời, phóng đãng, đồi bại. Những người đàn ông
nghiện *** thường không nhận ra vấn đề khi còn trẻ, vì cứ ngỡ mình có
sức khoẻ tốt, lấy làm hãnh diện về “năng lực dồi dào„ của một con đực
mạnh. Những người này có thể quan hệ với nhiều người và có xu hướng ngày
càng tăng “đô”, mặc dù ở nhà họ cũng đã thoả mãn với bạn tình.
Nghiện *** trên internet và sách báo khiêu dâm: hiện nay ở Việt Nam có
khoảng 23,3 triệu người sử dụng internet, trong đó 30% người đọc báo và
tìm kiếm thông tin, 53% chát và chơi games, ai dùng quá 38 giờ/tuần được
coi là nghiện nét. Thường người mắc chứng này có thể ngồi hàng giờ,
hàng ngày trên mạng chỉ để xem những hình ảnh ***y. Đây là triệu chứng
khá nguy hiểm, vì khi bị nghiện *** ảo, họ sẽ giảm bớt ham muốn với ***
thực. Khi “gần gũi” bạn tình, họ cảm thấy không thoả mãn và thờ ơ. Vì
vậy, bạn tình của họ bị thất vọng, hụt hẫng.
Họ là ai? Là những thanh thiếu niên suốt ngày đầu óc bị nhàu nát trong
những ám ảnh về ***, là những cô cậu mải sưu tầm và lưu trữ những hình
ảnh khiêu dâm đầy ắp điện thoại di động, là người bị phá sản sau khi đã
nướng hết vào những cuộc truy tìm thú vui liên tục, là người đã mất việc
vì bê trễ trong giờ làm để tìm kiếm các cuộc phiêu lưu tình ái, là kẻ
đã bỏ bê gia đình để vùi đầu vào đọc sách báo khiêu dâm, là kẻ thủ dâm
đến độ tựgây thương tích cho mình đến mức phải thường xuyên đến các bệnh
viện để chạy chữa, là thủ phạm cưỡng dâm trẻ em, là người ép buộc người
bạn đời đáp ứng “chuyện ấy” liên tục bất chấp tâm trạng và sức khoẻ, …
Những người đàn ông và phụ nữ tự huỷ hoại mình ấy bị đau đớn về thể xác
và dằn vặt về tinh thần như dân cai nghiện đang vã thuốc. Họ đầu hàng
trước dục vọng, dốc hết tiền bạc, gia đình, công việc, phẩm giá, kéo lê
cuộc đời vào những canh bạc đuổi theo thú vui xác thịt, rốt cuộc mất hết
cả vật chật lẫn tinh thần và trở thành nô lệ của tình dục. Triệu chứng lâm sàng: Chỉ cần có 3/6 triệu chứng lệ thuộc là đã thành bệnh: 1. Thèm nhớ dai dẳng. 2. Dung nạp theo sự luỹ tiến, lần sau cao hơn lần trước. 3. Không tự chủ, không nhịn được, không bỏ được. 4. Bỏ là khó chịu, gây nên hội chứng cai. 5. Sao nhãng các hoạt động quan trọng khác.
6. Tiếp tục lặp lại mặc dù biết rằng điều đó không tốt, bất chấp tai
nạn nghề nghiệp, bất chấp các hậu quả về sức khoẻ, tình cảm và pháp
luật. 3. Tác hại của nghiện *** lên bản thân người nghiện (thể chất, tâm lý, tâm thần):
Một số bệnh nhân tuổi từ 16 đến 30 cả nam lẫn nữ đã đến khám chuyên
khoa tâm thần về chứng nghiện tình dục. Ban đầu, họ chỉ có những biểu
hiện thích xem truyện, tranh ảnh, phim, web khiêu dâm với số lần và thời
gian ngày càng tăng. Sau đó, suốt ngày họ chỉ nghĩ đến những hình ảnh
về tình dục nên khó tập trung làm việc, học tập. Thủ dâm dưới nhiều hình
thức để xoa dịu tác động kích thích nên sức khỏe giảm sút.
Thường xuyên thức khuya xem tranh ảnh và phim khiêu dâm nên bị mất ngủ
mãn tính. Dần dần, tình trạng bệnh trở nên nặng hơn, họ tham gia “chat”
và bắt đầu hẹn hò qua mạng. Dù biết đó có thể là những mối quan hệ nguy
hiểm vì không biết rõ ràng về một người chỉ qua vài lần “chat” nhưng họ
vẫn cứ lao vào. Đôi khi sau những lần quan hệ tình dục như thế, họ hối
hận, xấu hổ và quyết định từ bỏ nhưng chỉ sau vài ngày lại cảm thấy bứt
rứt, khó chịu, chán nản và mọi việc trở lại như cũ.
Nỗi ám ảnh tình dục khiến họ sa vào những hệ luỵ: thủ dâm thái quá,
ngoại tình, loạn dâm đồng giới, bạo hành tình dục, nghiện xem phim đồi
truỵ và các ấn phẩm khiêu dâm, có những biểu hiện tình dục lệch độ (tật
thị dâm, phô bày sinh dục, nhiều kiểu quấy rối tình dục, ấu dâm,
********,…), có thể có hành vi tình dục không an toàn dẫn đến mắc các
bệnh lây truyền qua đường tình dục, nhiễm HIV/AIDS.
Hậu quả: Quan hệ tình dục trước hôn nhân, quan hệ tình dục ngoài hôn
nhân làm tan vỡ hạnh phúc gia đình, gây nhiều tai tiếng làm mất uy tín
cá nhân, chán ghét bản thân mình, tâm trạng đầy mâu thuẫn và bế tắc,
đánh mất sự tôn trọng của mọi người, mất danh dự và tiền của, có nguy cơ
bị khiển trách và mất việc làm, dính dáng đến pháp luật .4. Ảnh hưởng đến gia đình, cộng đồng:
Nghiện tình dục gặp 8% ở nam giới và 3% ở nữ giới. Vao những năm 90, ở
Mỹ người mắc chứng nghiện tình dục (***-addict) chiếm khoảng 6,5 -10%
dân số, ước tính có khoảng 15 triệu người bị tình trạng này. Họ là những
người có nhu cầu giao hợp 8 lần/tuần suốt các tháng trong năm và trở
thành nô lệ của tình dục.“Nghiện tình dục là tham gia vào các hoạt động
tình dục với mức độ liên tục gia tăng bất chấp hậu quả tiêu cực gây ra
cho chính mình và cho người khác.
Nói cách khác, người nghiện tình dục liên tục tham gia vào một số hành
vi tình dục dù phải đối mặt với nguy cơ tiềm ẩn về sức khoẻ thể chất và
sức khoẻ sinh sản, các vấn đề tài chính, làm tổn thương những người liên
quan, tan vỡ các mối quan hệ, thậm chí dẫn đến kiện tụng và bị bắt (do
phạm tội: truyền bá và lưu trữ ấn phẩm khiêu dâm, tham gia vào cyber***,
computer ***, phone ***, lạm dụng tình dục, biến thái tình dục, cưỡng
dâm, ********,…).Nêu gương xấu cho việc giáo dục nhân bản từ trong gia
đình, gây ra những hành vi tình dục thiếu đạo đức ảnh hưởng đến cộng
đồng, dễ phát tán mầm bệnh do quan hệ tình dục không an toàn, làm ảnh
hưởng thuần phong mỹ tục, có thể dẫn đến vi phạm pháp luật. 5. Nguyên nhân: * Điều kiện sống. * Môi trường giáo dục. * Di truyền.
Khác với những loại gene di truyền một tính trạng khác (như gene mắt
đen, gene tóc xoăn, gene màu da…), gene di truyền của bệnh nghiện tình
dục là một tổ hợp gene. Nghiện tình dục là một tính trạng nhưng có nhiều
gene, cơ chế di truyền rất phức tạp, không đơn giản theo quy luật
Menden như các loại gen di truyền khác.
Những người nghiện tình dục thường có căn nguyên từ nhỏ và giai đoạn
dậy thì. Hay gặp ở những thanh thiếu niên lớn lên trong môi trường gia
đình đầy bất hoà hoặc thiếu quan tâm giáo dục. Vì vậy, thủ dâm là cách
để tự thoả mãn và cảm thấy được giải thoát khỏi tình trạng đó. Thủ dâm
dần trở thành một loại “thuốc giảm đau an thần”. Và rồi thủ dâm cũng
không “đủ liều”, họ ngày càng cần quan hệ tình dục thật sự và thật
nhiều.
Một dạng khác là những người bị lạm dụng tình dục hoặc có trải nghiệm
tình dục lần đầu không do tình cảm lứa đôi (bị quan hệ tình dục với một
người quen, người giữ trẻ, bà chủ, người giúp việc…). Trong hoàn cảnh
ấy, ngoài sự tò mò tự nhiên và cảm giác mới mẻ, họ còn có mặc cảm sợ hãi
và tội lỗi. Khi lớn lên, mức độ đòi hỏi được đáp ứng tình dục ngày một
cao hơn và nhiều hơn.
Những nghiên cứu gần đây cho thấy gần 60% những người nghiện tình dục
bị lạm dụng tình dục lúc nhỏ.Cuộc sống quá đầy đủ về vật chất nhưng bản
thân lại thiếu nghị lực, không có lý tưởng đã đẩy nhiều thanh niên sa
vào con đường đam mê nhục dục. Nhiều người trẻ cảm thấy bơ vơ, mất hút,
không tìm thấy mục đích sống nên loay hoay tìm đến *** như một giải pháp
để quên, để tìm cảm giác mạnh, săn đuổi những cảm xúc mới lạ, đến khi
muốn thoát ra thì tất cả đã quá muộn. 6. Cơ chế gây nghiện:
Não là nơi tiếp nhận và đáp ứng lại với đau và stress. Trong những đáp
ứng đó có sự phóng thích endorphin và encephalin. Đây là những chất làm
giảm đau và làm con người cảm thấy thoải mái. Những chất gây nghiện như
thuốc lá, rượu, ma túy… cũng kích thích não phóng thích ra những chất
ấy. Tình dục là một trong những hành động khởi phát sự phóng thích
endorphin và encephalin mạnh nhất. Nếu biết áp dụng hợp lý tình yêu 3Đ(được, đúng và đẹp), tình dục khiến con người vui sướng, hạnh phúc.
Nhưng những người nghiện tình dục lạm dụng nó giống như những người
nghiện lạm dụng các chất gây nghiện. Họ dùng tình dục để giảm căng thẳng
lo âu, giải sì-trét hơn là tận hưởng những khoái cảm chính đáng giúp
thăng hoa hạnh phúc lứa đôi.Người nghiện tình dục thường có cảm giác bất
lực, không đủ sức chống lại cám dỗ. Dần dần thói quen dùng tình dục để
giải toả lo âu và stress trở thành phản xạ bắt buộc trong đời sống.
Vì không thể kiểm soát được hành vi tình dục nên họ thường cảm thấy khổ
tâm và xấu hổ, rất nhiều lần muốn ngừng lại nhưng vẫn thất bại.
Hậu quả là họ mất dần những mối quan hệ tốt, gặp khó khăn với công
việc, gặp rắc rối về tài chính, mất hứng thú đối với những thú vui khác
ngoài tình dục. Cuối cùng là mất tự tin, thất vọng với cuộc sống và còn
có thể bị bắt vì vi phạm pháp luật. 7. Cách đề phòng và thoát ra khỏi tình trạng nghiện ***:
Điều quan trọng nhất là người bệnh cần ý thức được tầm quan trọng của
vấn đề, phải kiên trì, tự giác điều trị và yêu cầu được giúp đỡ về
chuyên môn. Khi đã nhận ra vấn đề và xin hỗ trợ thì người ấy đã thành công 50%.
Mặc dù khó khăn nhưng nghiện tình dục hoàn toàn có thể chữa khỏi. Cần
có sự hướng dẫn, hỗ trợ chuyên môn từ bác sĩ chuyên khoa tâm thần, tình
dục học và con nghiện cũng phải trải qua các bước tương tự như điều trị
nghiện rượu.
Điều thuận lợi ở người nghiện tình dục là khi “cai nghiện”, họ không bị
những biểu hiện thực thể của hội chứng cai (tiêu chảy, co giật, nôn
ói,…).
Nếu biết vi tính và ngoại ngữ, người bệnh có thể tìm thấy sự giúp đỡ và
chia sẻ kinh nghiệm điều trị theo 12 bước trên Internet với các nhóm
*** Addicts Anonymous (SAA), ***aholics Anonymous (SA), *** and Love
Addicts Anonymous (SLAA),…
Tâm lý trị liệu giúp đương sự hiểu được các động lực và hoàn cảnh gây
ra nghiện. Nhất là giúp nhận thức được hằng ngày các yếu tố nào khiến họ
bị kích thích và phải thực hiện các xung động. Đồng thời giúp đương sự
lấy lại sự tự tin, cải thiện kỹ năng giao tiếp xã hội và tìm ra những
cách khác nhằm thỏa mãn nhu cầu tình dục.
Liệu pháp hành vi áp dụng trong 6 tuần giúp đương sự cắt đứt các hành
vi tình dục lệch lạc (thực hiện những bài luyện tập kiểu nhà binh hay
học những bài tập thiền, Yoga để cân bằng âm-dương và giảm sự hưng phấn
quá mức liên quan đến “chuyện ấy”).
Thuốc chống loạn thần và chống trầm cảm có thể được sử dụng để chữa trị
các bệnh lý tâm thần kết hợp (tâm thần phân liệt, rối loạn trầm cảm…). Điều kiện để chữa khỏi bệnh: Khoa học hiện nay dựa vào 3 yếu tố: nhận thức của bệnh nhân, liệu pháp tâm lý và sự đồng thuận giúp đỡ từ gia đình, bạn bè.
Việc hội tụ đủ 3 yếu tố, trở thành “kiềng ba chân” để kết nối với nhau
trong chữa bệnh là rất khó. Để làm được điều này, bệnh nhân và gia đình
chấp nhận phải chờ đợi khá công phu và tốn kém. Phương pháp của Patrick Carner và bác sĩ Mark Lasser: Kế hoạch “ép dục” được tiến hành theo các bước: * Tập thể liệu pháp (chữa bệnh bằng tập thể).
* Lần lượt kiểm điểm, thú nhận những tội lỗi xấu xa, bỉ ổi đã mắc phải,
thành tâm ăn năn sám hối, cấm ra ngoài bệnh viện và hoàn toàn “trai
giới” trong 3 tháng .* Củng cố niềm tin lâu dài. * Lao động, dạo chơi, thư giãn. * Viết nhật ký để tự xem xét, đánh giá sự thay đổi của bản thân.
Điều nan giải là: sự nhớ nhung, những liên tưởng và hồi ức về những
khoái lạc tình dục dễ làm người ta tái nghiện. Một vài cách ứng phó với
nghiện:
* Nếu thấy mình có “triệu chứng” coi “quan hệ” chỉ như một cách giải
sì-tret hoặc để thư giãn, hãy bình tĩnh và cương quyết nói “không” trước
những cám dỗ. * Đọc sách nói về các hoạt động giải trí lành mạnh. * Lúc nào vui vẻ, thử dành thời gian ngẫm lại những phút giây quá đà trước đây. * Đừng bao giờ uống quá say, sẽ mất tỉnh táo, khó kiểm soát bản thân.
* Cô đơn và buồn chán là dịp dễ bị sa ngã, lúc đó, đừng tự giam mình mà
hãy lập kế hoạch làm gì có ích, sẽ cảm thấy nhẹ nhõm hơn. * Tích cực trò chuyện với người thân và bạn bè để tìm phương thức thích hợp giải cứu cho mình. * Làm mình trở nên bận rộn (Con ong chăm chỉ không có thì giờ để buồn). Với chứng nghiện *** internet và sách báo khiêu dâm: – Không đến các cửa hàng bán đồ ***, không mua sách báo hoặc băng đĩa có hình ảnh khiêu dâm. – Có thể download những chương trình phần mềm cài đặt tiện ích khoá và ngăn chặn các hình ảnh khiêu dâm.
– Nếu vợ/chồng hoặc người thân bị nghiện ***, không xét đoán và kỳ thị,
nên khéo léo chia sẻ vấn đề này và tìm kiếm sự giúp đỡ chuyên môn. Đối với các bậc phụ huynh có con trong độ tuổi vị thành niên:
– Cha mẹ cần gần gũi, quản lý con em mình, tránh để giao du với kẻ xấu.
Vì những hành vi này chịu ảnh hưởng từ bạn bè rất nhiều. Đặc biệt, phải
quản lý việc sử dụng máy tính và vào mạng internet của các em. Nên để
máy tính ở nơi dễ thấy, không cho dùng trong phòng riêng. Nếu quá bận
không thể giám sát con cái thì không nên nối mạng internet hoặc nối mạng
nhưng có cài các phần mềm chống web đen.
– Khuyến khích, động viên con em học hành hướng tới những mục tiêu cụ
thể để các em phấn đấu trở thành trò giỏi con ngoan, hình thành và xây
dựng xu hướng tình dục lành mạnh. Hướng con em tham gia vào những hoạt
động xã hội (rèn luyện kỹ năng sống, khám phá giá trị bản thân, hoạt
động thể dục thể thao, tham gia các chương trình giao lưu học hỏi, hoạt
động bác ái,…) KẾT LUẬN:
Tình dục là để truyền sinh, tồn tại và phát triển. Tình dục đúng là một
khát vọng sống mãnh liệt, nhưng là Con người, ngoài đời sống bản năng,
còn có đời sống ý thức. Con người có thể định hướng và làm chủ được tình
dục nhờ sự giáo dục và huấn luyện thành thói quen, sự trưởng thành tâm
lý, những quy phạm đạo đức, dư luận xã hội, thậm chí nhờ sự kiểm soát
của luật pháp.
Trên hết tất cả, lương tâm và luân lý luôn soi sáng cảm nghĩ và hành
động của mỗi người, mang lại ý nghĩa thánh thiêng cho tình dục.Trong đời
sống có những tình trạng biểu lộ hành vi tình dục bất thường, gây hậu
quả xấu cho cá nhân và cộng đồng.
Phải chăng vì những cấm kỵ trong văn hoá của người Việt nam, vì những
Tabu tính dục, mà những anh chị em nghiện *** này bị bế tắc, khổ sở, bị
loại trừ do thiếu sự thông cảm và giúp đỡ từ người thân, gia đình, cộng
đồng?
Việc tìm hiểu chứng bệnh này giúp nâng cao nhận thức của mọi người, góp
phần xoá bỏ kỳ thị cũng như giúp xây dựng chuẩn mực đạo đức.
Oral Sex ( OS ) (hay tình dục bằng miệng) có phải là một hành vi phổ biến không?
Hiển
nhiên đó là một hành vi rất phổ biến, nó được thực hiện trong rất nhiều
thế hệ bao gồm cả cộng đồng những người bình thường và những người đồng
giới. Và ở Việt Nam cũng vậy. Những bênh lây qua đường tình dục (STD) nào có thể lan truyền qua OS?
· Loại bệnh STD hay truyền qua hành vi tình dục bằng miệng nhất (OS) là
herpes. Có 2 loại virus herpes chính (HSV): HSV type 1 và HSV type 2.
HSV type 1 thường gây ra các vết loét quanh miệng, trong khi HSV type 2
thường gây ra các vết loét mụn ở bộ phận sinh dục.
· Bệnh lậu đã được chứng minh có thể lây nhiễm cổ họng của một số người
đã thực hiện hành vi OS cho người đã bị nhiễm Kiểu nhiễm trùng này có
thể được truyền từ cổ họng đến bộ phận sinh dục của bất kỳ đối tác tình
dục nào khác trong tương lai.
· Bệnh giang mai cũng có thể truyền qua OS nếu miệng của người thực
hiện tiếp xúc với các vết hở hoặc phát ban ở da do nhiễm trùng · Viêm Gan A cũng có trong phân và có thể truyền khi thực hiện hậu môn-miệng · Viêm Gan B có trong dịch sinh dục và máu và có thể được truyền qua OS. · Viêm Gan C nói chung chỉ có trong máu và sẽ được truyền nếu có máu trong khi OS
Các bệnh trên là những bênh có thể lây qua hành vi OS. Nhưng hầu như
các câu hỏi về chủ đề OS vẫn sẽ chỉ tập trung vào 1 câu hỏi quan trọng
nhất đó là liệu HIV có truyền qua hành vi OS hay không?
NGUY CƠ THỰC SỰ CỦA VIỆC LÂY NHIỄM HIV qua hành vi OS?
Việc đo chính xác nguy cơ của việc lây nhiễm HIV thông qua hành vi OS
là rất khó. Thêm vào đó phần lớn các hoạt động tình dục đều sẽ có các
hành vi Anal Sex và Vaginal Sex sau khi đã tiến hành OS. Như vậy sẽ càng
khó hơn khi xác định liệu HIV lây nhiễm qua OS hay chỉ lây nhiễm qua
các hành vi tình dục khác. Thêm vào đó, một vài nhân tố khác như vết
thương lở loét trong miệng, chảy máu nướu răng, vết loét ở bộ phận sinh
dục hay sự hiện diện của các bệnh STD khác sẽ tăng nguy cơ lây nhiễm.
Khi các nhà khoa học mô tả nguy cơ của hành vi OS, khái niệm “nguy cơ
trên lý thuyết” hay “theoretical risk” thường được sử dụng. Hiểu một
cách đơn giản, “theoretical risk” có nghĩa là sự lây nhiễm các bệnh tật
từ người này sang người khác có thể xảy ra, mặc dù chưa có một trường
hợp nào được ghi nhận trong thực tế hay “documented cases”. Với HIV cũng
vậy, khi ta nói rằng sự lây nhiễm HIV là “có thể xảy ra trên lý thuyết”
không có nghĩa là nó chắc chắn sẽ xảy ra. Khái niệm “nguy cơ đã được
ghi nhận”, hay “documented risk” là một khái niệm được sử dụng để mô tả
những gì đã thực sụ xảy ra, đã được điều tra, và được ghi lại trong các
tài liệu khoa học.
Đã có rất nhiều các nghiên cứu đã được thực hiện trên khắp thế giới cố
gắng ghi nhân “documented case” và xác định nguy cơ chính xác của hành
vi OS. Xin điểm qua một số nghiên cứu sau:
Một chương trình nghiên cứu được thực hiện tại San Francisco vào năm
1998 đã nghiên cứu trên 198 người (tất cả đều là những người đồng tính
nam và những người có các hoạt động tình dục rất mạnh mẽ). Chủ đề của
cuộc nghiên cứu này là : Những người tham gia nghiên cứu chỉ có duy nhất
một hành vi là OS trong 1 năm. Kết quả cho thấy có 20% những người tham
gia (39 người) báo cáo rằng họ đã thực hiện hành vi OS với bạn tình họ
biết chắc có HIV+. 35 trong 39 người không dùng BCS và 16 người đã nuốt
tinh dịch. Không ai trong số họ bị nhiễm HIV trong suốt khoảng thời gian
nghiên cứu (1 năm). Nhưng do số lượng những người tham gia nghiên cứu
nhỏ lên các nhà nghiên cứu cũng không thể khẳng định OS hoàn toàn là NO
RISK.
Vào năm 2000, một nghiên cứu khác lại được tiến hành ở San Francisco,
cuộc nghiên cứu được tiến hành trên những người đồng tính nam những
người những hay bị lây nhiễm HIV và KQ nghiên cứu cho thấy 7.8% những
người bị nhiễm HIV là do hành vi OS. Tuy nhiên Kết quả nghiên cứu này đã
bị đặt nhiều dấu hỏi vì nó dựa vào những thông tin cung cấp từ những
người tham gia. Và độ tin cây của những thông tin này thường rất thấp
bởi vì họ có thể nói dối, không chịu chấp nhận những nguy cơ thực sự của
mình hoặc cũng có thể đơn giản là họ không nhớ. (Theo Smile tìm hiểu
lại thì có tài liệu họ khẳng định là đã có vài chú trong số này thú nhận
là đã có Unprotected Anal Sex sau khi OS)
Trong tháng sáu năm 2002, một nghiên cứu tiến hành giữa 135 người HIV-
tại Tây Ban Nha, những người có các mối quan hệ tình dục với một người
đã nhiễm HIV, báo cáo cho thấy đã có hơn 19.000 trường hợp Unprotected
OS diễn ra nhưng không dẫn tới bất kỳ trường hợp lây nhiễm HIV nào.
Nghiên cứu này cũng xem xét các yếu tố có thể ảnh hưởng đến khả năng
truyền HIV qua OS. Họ theo nồng độ virus và đặt ra các câu hỏi như bạn
có để xuất tinh trong miệng không và tình trạng răng miệng của bạn có
tốt không? Trong số nam giới HIV+, 34 % xuất tinh vào miệng bạn tình của
họ. Nồng độ virus cũng được xem xét trong 60 người trong nghiên cứu
này, 10 % trong số đó có nồng độ virus hơn 10.000. Gần 16% những người
nhiễm HIV có chỉ số CD4 dưới 200. Nghiên cứu, được thực hiện trong
khoảng thời gian 10 năm giữa 1990 và 2000, đã thêm vào số lượng ngày
càng tăng của các nghiên cứu trong đó đề xuất các mức độ khác nhau của
nguy cơ lây nhiễm HIV từ hành vi OS khi so sánh với giao hợp qua đường
hậu môn (anal sex ) hoặc âm đạo (Vaginal sex).
Một nghiên cứu nữa: Theo kết quả của một cuộc khảo sát các bệnh nhân ở
Anh, Wales, và Bắc Ireland, hành vi tình dục bằng miệng hay OS có thể
chiếm khoảng 3% số lượng các ca nhiễm HIV ở nam giới có quan hệ tình dục
đồng tính. Các bạn có thể xem thêm thông tin ở link bên dưới: http://www.thebody.com/content/art32275.html http://www.thewellproject.org/en_US/…_Real_Risk.jsp
Mặc dù hành vi OS là một hành vi có nguy cơ thấp nhưng đã có người báo
cáo là bị nhiễm HIV theo cách này. Một số các nghiên cứu đã cố gắng xác
định nguy cư thực sự của hành vì OS nhưng thật khó để nhận được các
thông tin chính xác từ những người tham gia. Và OS không phải là hành vi
tình dục duy nhất của phần lớn mọi người, điều này cũng dẫn đến khó
khẳng định OS là hành vi duy nhất làm lây lan HIV. Do những điều trên,
các nghiên cứu khác nhau đã chỉ ra các mức độ nguy cơ khác nhau của hành
vi OS nằm trong khoảng 1% tới 8% Như vậy thông điệp của các nghiên cứu này là OS là một nguy cơ nhỏ nhưng là 1 nguy cơ thực sự Hoặc xem thêm về một bài viết chi tiết đánh giá về các nguy cơ của OS ở đây http://www.aidsmap.com/page/1432786
Như vậy có thể thấy có những nghiên cứu chỉ ra không có nguy cơ từ OS
nhưng cũng có nghiên cứu chỉ ra rằng có nguy cơ. Nhưng nhìn chung các
nhà khoa học đều đồng ý là OS chỉ có XS cực nhỏ gần xấp xỉ bằng 0. Ý kiến của các chuyên gia về vấn đề OS By Dr Edward W Hook from medhelp.org If
one has oral sex with an infected partner is less than 1 in 10,000 and,
in my estimation that is too high. Some experts state there is no risk
at all from oral sex. Neither of us on this site have ever seen or
reading the medical literature of a convincing instance in which HIV was
passed by oral sex. This includes by all of the people who had sores,
blood in the mouth, gum disease, etc.
Nếu ai đó có hành vi tình dục bằng miệng với người đã bị nhiễm HIV nguy
cơ sẽ là nhỏ hơn 1/10000. Theo ước lượng của tôi thì đó là quá cao. Vài
chuyên gia khẳng định rằng không hề có nguy cơ từ OS .Không ai trong
chúng tôi ở đây đã từng nhìn thấy hay đọc một tài liệu y học hay những
trường hợp HIV được truyền qua hành vi tình dục bằng miệng: Điều này bao
gồm tất cả những người có vết xước, máu trong miệng, hay chảy máu nướu
răng. Your risk for HIV from OS is lower than your risk for being hit by lightening. Nguy cơ bạn bị nhiễm HIV từ OS còn nhỏ hơn nguy cơ bạn bị sét đánh trúng Your risk of infection from OS is virtually zero. Nguy lây nhiễm HIV từ OS gần như bằng 0 The risk is so small as to be difficult to even estimate and simply is not a reason for concern to the person. Nguy cơ quá nhỏ để có thể ước lượng và đơn giản không phải lý do để lo lắng
Before I do however, let me comment that searching the internet is
exactly what I would urge you not to do. While the internet is an
excellent source of information, it is also a common source of
mis-information and, unfortunately, you can find both good and bad
information all too easily on the internet, leading to confusion. I will
provide my opinion based on nearly 30 years of taking care of patients
since the beginning of the HIV epidemic, my reading of the medical
literature, my attendance at medical conferences on the subject and my
own research. There is no appreciable risk of getting HIV from oral sex,
if you partner had HIV and you do not know that this is the case. The
quoted figure cited often, including here is that the risk of HIV, IF
your partner has HIV is one in 10,000 but that risk is a conservative
estimate and I can tell you that neither Dr. Handsfield nor I have ever
seen a convincing case of HIV transmitted through oral sex- not ever. I
think the 1 in 10,000 risk is too high and has been made by people who
want to be “sure” they are right. This risk is higher than your risk of
getting hit by lightening and I said, I have doubts about its accuracy.
I hope my comments help you. You really have nothing to worry. You can
get tested if you need if for your peace of mind. At this time the test
would detect well over 90% of infections acquired 4 weeks earlier. I am
confident it would be negative, as would any future tests taken in
relationship to the exposure you describe. By Dr Robert J. Frascino, M.D from Thebody.com
As you probably know from reading this forum, I consistently advise
readers that oral sex without extenuating circumstances carries a low
HIV-transmission/acquisition risk Tôi luôn luôn nói với những người hỏi rằng OS mà không có các tình tiết giảm nhẹ cũng chỉ có nguy cơ rất thấp. Oral sex transmission (DOCUMENTED ORAL SEX TRANSMISSION, 2010) May 28, 2010 Dr Bob? Đã có bao nhiêu trường hợp nhiễm HIV từ OS mà ngài đã gặp trong suốt nhiều năm làm việc trong lĩnh vực của ngài? Mike http://www.thebody.com/images/forums…ascino-top.gif Response from Dr. Frascino Hi Mike,
Rất khó khăn cho bất kỳ người trong chúng ta trong việc cung cấp cho
một số chính xác bởi vì chúng tôi không có cách nào để biết những người
bị nhiễm HIV có thực sự chỉ có OS (tình dục bằng miệng) là hành vi nguy
cơ duy nhất hay không. Tôi chắc chắn đã có một số bệnh nhân tuyên bố
rằng họ đã bị nhiễm HIV từ OS. Do không thể có 1 cảnh sát đứng cạnh
giường ngủ để kiểm tra để ghi vào tài liệu tất cả mọi thứ những điều tốt
nhất chúng ta có thể là chấp nhận lời nói đó từ họ.
Chúng ta có bằng chứng tốt cho việc: HIV rất ít lây nhiễm qua đường
miệng. Điều này xuất phát từ các nghiên cứu rất lâu theo sau các cặp vợ
chồng,những người có rất nhiều tình dục bằng miệng không được bảo vệ
nhưng hầu hết (nhấn mạnh từ “hầu hết”) những người HIV ÂM TÍNH luôn luôn
ÂM TÍNH. Hiển nhiên là nếu trong các cặp vợ chồng này những người HIV
DƯƠNG TÍN có sử dụng kết hợp thuôc kháng virus làm giảm nồng độ virus
tới mức không phát hiện được, điều này sẽ có ảnh hưởng đáng kể làm giảm
nguy cơ lây nhiễm HIV.
Tôi nhớ đã có vài trường hợp rất cụ thể mà tôi đã bị thuyết phuc rằng
HIV có thể được truyền qua đường miệng, tuy nhiên, đó là tại thời điểm
đầu tiên trước khi virus lây lan rộng và chưa có các thuốc kháng virus.
Tôi luôn luôn nói với những người hỏi rằng OS mà không có các tình tiết
giảm nhẹ cũng chỉ có nguy cơ rất thấp. Tuy nhiên có điều đáng chú ý là
khoảng 1/5 số người Mỹ bị nhiễm HIV đã không xác định được lý do họ bị
nhiễm. Dr. Bob By Dr H. Hunter Handsfield from medhelp.org Clearly, this type of transmission can occur but too rarely to mesasure realibility. Nói chung kiểu lây nhiễm này có thể xảy ra nhưng quá hiếm để có thể đo được độ tin cậy Oral sex rarely can transmit some STDs (but almost never HIV) OS có rất hiếm khi làm lây lan các bênh STD nhưng hầu như không bao giờ với HIV.
A few HIV infected people who claim to have caught it receiving oral
sex, and some feel strongly about it. But by and large the transmission
route was unconfirmed and many had other potential (higher risk)
exposures. Very few infected persons have had only a single exposure;
the large majority have had unsafe lifetyoes for many years and can only
make guesses and assumptions about when and from whom they were
infected. Others simply forgot other exposures (e.g., drunk or high) or
lied, i.e. gave face-saving explanations — consider the married man who
claims only a single episode of oral sex in a public toilet, but who in
fact has been having sex in bath houses. Such personal histories often
are inaccurate. In fact, the data on CDC’s estimate of 1 in 20,000 risk
for oral sex is based primarily on such personal histories, so that’s a
maximum risk level for such exposures. This is why some experts (e.g.,
Teak on the community forum) believe that HIV is never transmitted from
mouth to penis. Dr. Hook and I don’t go quite that far; we believe there
probably have been a few legitimate transmissions. But if so, they are
in the probability range of getting hit by lightning. By Ann RapidRod Andy Velez matty.the.damned from Aidsmeds.com
Getting a blowjob, with or without a condom, is not a risk for hiv
infection. Giving a blowjob is only a theoretical risk. Unless you have
absolutely terrible oral health, you weren’t at risk in the least. Oral
sex is considered no risk.
Hành vi tiếp nhận Blow Job có hay không có BCS không phải là nguy cơ
trong việc lây nhiễm HIV. Thực hiện Blow Job chỉ có nguy cơ trên lý
thuyết. Trừ khi tình trạng miệng bạn cực kì tồi tệ. OS được xem như là
không có nguy cơ. By CDC factsheet 2009 http://www.cdc.gov/hiv/resources/factsheets/oralsex.htm
The risk of HIV transmission from an infected partner through oral sex
is much less than the risk of HIV transmission from anal or vaginal
sex.Measuring the exact risk of HIV transmission as a result of oral sex
is very difficult.What is known is that HIV has been transmitted
through fellatio, cunnilingus, and anilingus.
Nguy cơ việc lây lan HIV từ OS ít hơn rất nhiều so với Anal sex và
Vaginal Sex. Việc đo được chính xác nguy cơ là rất khó. Những gì chúng
ta biết là HIV có thể lây lan qua OS. Kết luận
Như các bạn có thể đọc được ở trên. Các nghiên cứu khác nhau, các
chuyên gia có các ý kiến khác nhau. Nhưng nhìn chung các ý kiến và
nghiên cứu đều chỉ ra rằng OS chỉ có XS cực nhỏ hoặc không có.
Về câu hỏi đã có ai bị nhiễm HIV từ OS chưa thì các ý kiến cũng vậy. Có
người nói có, có người nói không Nhưng đó là bản chất của Y HỌC không
bao giờ đúng 100%. Đó là lý do tại sao đôi khi các bạn có thể đọc được bài tư vấn của Dr Edward Hook nói là không cần đi Xét Nghiệm….
Theo tôi các bạn có thể nghĩ về OS như sau: Ở VN chúng ta có giải xổ số
quốc gia. Mỗi khi tôi hay các bạn mua một vé số thì sẽ có KHẢ NĂNG
trúng giải đặc biệt. Nhưng đã 27 năm sống trên đời này tôi chưa bao giờ
trúng nổi giải 7 chứ nói gì đến giải đặc biệt. Và có lẽ sẽ chẳng bao giờ
trúng. Nhưng đâu đó ở VN này vẫn có người trúng giải đặc biêt. Và hiển
nhiên nếu bạn MUA CÀNG NHIỀU VÉ SỐ, MUA LIÊN TỤC thì khả năng trúng giải
của bạn sẽ cao lên Lời khuyên của Smile cho tất cả những bạn nào có nguy cơ từ OS sẽ là:
Hãy đi XN tại thời điểm 13 tuần sau ngày có nguy cơ với PP XN tìm kháng
thể HIV Antibody test kết quả ÂM TÍNH (gần như chắc chắn tại thời điểm
này) sẽ xác nhận bạn không bị nhiễm HIV
Thực
tế, trên cơ thể của người phụ nữ có một vùng nhạy cảm mà ngay cả chính
họ cũng có thể không biết. Đó vùng G hay điểm G. Bác sĩ sản phụ khoa
người Đức tên là Ernest Grafenberg tình cờ phát hiện ra “bí mật” này
trong lần khám phụ khoa cho một phụ nữ. Khi ông vô tình chạm vào vùng
này, người phụ nữ không kiềm chế được đã khe khẽ rên lên.
Vùng
G là phần mô xốp nằm phía sau xương mu, bao quanh niệu đạo, rộng 3-5
cm2. Vùng này có thể gây hưng phấn tình dục khi được kích thích, do thể
mô xốp dồn tích máu lại, cương lên (gần giống như dương vật của đàn
ông). Khi đạt được đỉnh điểm, nhiều bà vợ có cảm giác xuất tinh như các
ông chồng, đó chính là chất nhầy do thể mô xốp của vùng G tiết ra.
Thế
nhưng không phải người phụ nữ nào cũng hưng phấn khi được kích thích
vào vùng G. Vì thế, các ông chồng đừng thất vọng vì khi tìm ra được bí
mật thì vợ lại có cảm giác buồn, khó chịu do bị kích thích vào đó. Lúc
này, nên thận trọng, từ từ khám phá những vùng nhạy cảm khác trên cơ thể
của vợ mình vì không phải chỉ có vùng G mới làm tăng khoái cảm khi ở
bên nhau. Và chỉ có vợ chồng bạn mới đánh thức được những vùng khoái cảm
đó.
Hơn nửa số phụ nữ cho rằng cực sướng ở điểm G thích hơn những cực sướng khác, vì nó có cường độ mãnh liệt và dai dẳng.
Điểm này là một cái “gò” nhỏ, khoảng bằng đồng tiền cắt, hoặc to hơn nếu như được kích thích.
Đơn
giản hơn về “địa bàn” của điểm G – bạn hãy tưởng tượng nàng đang nằm
ngửa, chân dang rộng. Chàng ngồi giữa hai chân nàng, đưa bàn tay lật
ngửa lên, và đặt một ngón tay (tốt nhất là ngón giữa) vào âm đạo. Khi
ngón tay đã vào trong, chàng hãy co ngón tay lại, nhẹ nhàng, như là đang
khều một vật gì đó. Làm thế, bạn sẽ chạm vào một vùng “nhô nhô”, đó là
điểm G. Nếu bạn lần theo ống niệu đạo, dọc theo đường âm đạo, bạn có thể
cảm nhận một mô nhỏ vun cao như một cái bờ ngăn nước ở những cánh đồng.
Điều
quan trọng bạn phải nhớ, trước khi kích thích điểm G, là nàng phải được
kích thích những nơi khác như vùng ngực hoặc nơi khác . Vì đôi khi âm
đạo nàng chưa có chất nhờn sẽ tạo cảm giác đau, rát. Nói chung, bạn
không nên kích thích điểm G để tạo sự hưng phấn cho nàng, mà nên tạo sự
hưng phấn trước rồi mới kích thích điểm G.
Lúc
ấy, thì điểm G là mới là nơi tốt nhất để đem nàng tới cực khoái. Nên
làm chậm và nhẹ nhàng trước. Dùng hai ngón tay sẽ dễ dàng tìm ra điểm G
hơn, nhưng đôi khi hai ngón sẽ không tạo cảm giác thoải mái lắm cho
nàng. Khi chọn đúng điểm G rồi, thử ấn nhẹ, liên tiếp, không quá nhanh.
Phải theo một động tác nhịp điệu. Tốt hơn nữa nếu bạn dùng khẩu dâm cùng
một lúc.
Khi
bạn tìm đúng vị trí của điểm G, nàng sẽ phản ứng ngay. Phần lớn các mô
trong âm đạo thực sự không nhạy cảm lắm so với điểm G. Việc đặt ngón tay
trong âm đạo có tác động về tâm lý hơn là cảm giác thực sự. Đụng được
điểm G rồi, bạn sẽ biết được ngay.
Có
một vài kỹ thuật phức tạp khác thích hợp với phụ nữ, tùy theo mỗi
người, nhưng thỉnh thoảng, cách tốt nhất là thực hiện kỹ thuật đơn giãn,
để tìm ra điểm G, bằng cách làm chậm, ấn nhịp nhàng lên nó kết hợp khẩu
dâm. Phối hợp những điều này sẽ giúp nàng chóng đạt tới cực khoái.
Cực
khoái do kích thích ở điểm G, đối với một số người, khác với những cực
khoái khác như cực khoái do giao hợp và ngay cả đầu vú, nhưng lại giống
(cực khoái) tất cả với nhau với một số người khác. Cực khoái do kích
thích điểm G không những tạo cảm giác khác lạ, mà còn tạo cho cơ thể
phản ứng một cách đặc biệt như co giựt mạnh hơn, dịch tiết ra nhiều hơn.
Khi
dịch ra nhiều, rất có thể con gái sẽ đi đến cái gọi là “cực khoái tống
ra”, tức là khi cực khoái chợt đến, vùng chung quanh, hoặc ở trên (sâu
hơn vào trong của đầu ngón tay) thường phồng to hoặc co bóp về phía cửa
âm đạo như là sự “tống ra”.
Nếu
bạn phối hợp đúng lúc bằng cách ấn ngược trở lại khi sự “tống ra” xảy
đến, và ngừng hoặc để yên cho nó “tống ra” trở lại, bạn cứ tiếp tục ấn
và ngưng như vậy sẽ tạo đạt khoái cảm liên hoàn và kéo dài. Ở một vài
con gái, bạn có thể làm động tác này để giữ sự hưng phấn gia tăng, để
rồi khi đến cực khoái, sự “tống ra” càng dữ dội.
Điều
đó dẫn tới một điểm khác, cực khoái do kích thích điểm G thỉnh thoảng
tạo thật nhiều chất dâm thủy, hơn tất cả các cách khác. Đó là điều tốt
nữa, bởi vì cực khoái ở điểm G có thể kéo dài mà không làm âm đạo đau
rát.
Khám
sức khỏe định kỳ trọn gói (KSKDK)là một ưu việt của chính sách lao động
và ưu đãi của cơ quan và đã được cân nhắc kỹ để chọn ra một loại trọn
gói phù hợp nhằm phát hiện những bệnh phổ biến thường gặp nhất. Do vậy,
các cá nhân toàn quyền quyết định tham gia hoặc không tham gia khám sức
khỏe định kỳ toàn bộ hoặc một phần của trọn gói trên cơ sở tự nguyện.
Việc
theo dõi SK định kỳ sẽ giúp phát hiện sớm các nguy cơ và bệnh, dễ điều
trị và giảm thiểu chi phí rất nhiều so với việc phát hiện bệnh muộn.
Ngày
càng có nhiều người làm tư tự bỏ tiền túi KSKDK cho bản thân và gia
đình nên CBNV được cơ quan tổ chức KSK cần nhận thức rõ đãi ngộ của cơ
quan nên đi khám đầy đủ và chỉ nên bỏ các mục khám khi biết chắc chắn nó
không phù hợp với cá nhân mình.
Hiện nay bệnh
viện đang có 10 bộ trọn gói khám sức khỏe định kỳ dành cho các bệnh phổ
biến theo độ tuổi, quý vị có thể gửi email yêu cầu tham khảo 10 bộ trọn
gói này tại địa chỉ: vietphapclinic@yahoo.com hoặc vietphaplinic@gmail.com,
ai đã có tiền sử bệnh rõ ràng, bệnh mãn tính cần theo dõi tiếp theo các
năm cần hẹn khám bác sĩ theo đúng chuyên khoa bệnh của mình.
Các
cá nhân đăng ký khám vào sáng thứ 7 và Chủ Nhật vui lòng xếp hàng khám
và dành quyền ưu tiên cho người ốm, người già và trẻ em khám trước trong
ngày này. Bệnh viện không nhận cơ quan đăng ký khám sáng thứ 7 và sáng
Chủ nhật.
Nhịn ăn khoảng 6 tiếng đến 8 tiếng trước khi lấy máu xét nghiệm.
Nhịn tiểu và uống nhiều nước (nước lọc không màu) trước khi siêu âm 1 tiếng.
Lưu ý dành cho các bạn nữ:
Không
nên khám SKDK vào ngày có chu kỳ hàng tháng của nữ. Nếu bạn nữ đi khám
vào chu kỳ KN làm cho kết quả siêu âm bụng và xn nước tiểu không chính
xác, do vậy bạn có thể đến khám trước hoặc sau chu kỳ 01 tuần.
Chụp
X quang có hại cho phụ nữ mang thai. Nghiêm cấm tất cả nữ có thai hoặc
đang nghi ngờ có thai đi chụp X quang. Bác sĩ khuyên các bạn nữ nên siêu
âm hoặc dùng que thử thai trước khi chụp X quang. Tuy nhiên nếu chưa đủ
thời gian trong thời gian đầu thai kỳ, có thể cả que thử thai và kết
quả siêu âm cũng chưa xuất hiện kết quả chính xác.
Các
bạn nữ cần tự căn cứ theo chu kỳ KN, QHTD và dự định có thai hay không
của bản thân để tự quyết định. Bệnh viện không chịu trách nhiệm khi các
bạn nữ vi phạm nghiêm cấm này vì bất cứ lý do gì dù sơ ý hay cố ý.
Trong khi đi khám
Đến
khám đúng ngày hẹn và mang theo CMTND. Mỗi người tự quản bộ hồ sơ này
trong quá trình khám sức khoẻ định kỳ (thực hiện đúng chỉ dẫn dán ở mặt
sau của bộ hồ sơ và chỉ dẫn của nhân viên y tế). Khám xong có thể nhận
hồ sơ kết quả, gặp bác sĩ kết luận hồ sơ và mang về luôn.
CBNV
đến khám vui lòng xếp hàng để được khám theo chỉ dẫn của bệnh viện.
CBNV có thể tự ước lượng thời gian uống nước trước khi siêu âm 1 tiếng
và nhịn tiểu.
Sau khi khám xong
Các
quý vị CBNV đến khám lẻ tự chờ lấy kết quả tự mang về hoặc cử đại diện
cơ quan đến bệnh viện lấy hồ sơ kết quả mang về (gọi điện hẹn trước, chỉ
trả hồ sơ vào buổi chiều trong giờ hành chính) .
Các
cơ quan có CBNV đi khám lẻ không theo ngày khám cố định và dưới 30
người thì sau 7-10 ngày liên hệ lại với bệnh viện để cử đại diện đến
mang hồ sơ kết quả về cho CBNV.
Do thời gian
làm một số xét nghiệm chuyên sâu (nếu có) sẽ lâu hơn, nên kết quả có thể
được trả cùng bộ hồ sơ khám SKTQ hoặc sẽ được trả riêng sau đó. (ví dụ:
các xét nghiệm phiến đồ tế bào nữ hoặc sinh thiết tế bào ...v...v..).
Cá nhân khám lẻ có thể hẹn lễ tân để đến một lần có thể lấy được tất cả
các kết quả luôn một thể, đỡ phải đi lại 2 -3 lần.
Kết
luận chung tổng thể của mỗi người được các bác sĩ ghi tóm tắt vào tờ
kết quả khám sức khỏe định kỳ theo form của bệnh viện, ngoài ra còn có
các kết quả riêng của từng phòng khám quý vị đã tham gia. Tùy từng tình
trạng bệnh mà bác sĩ sẽ kê đơn thuốc hoặc chế độ luyện tập trong phần
kết luận của form khám sức khỏe.
Đơn thuốc chỉ
được sử dụng khi thật cần thiết sau khi có sự trao đổi kỹ với bệnh nhân
dựa trên kết quả phát hiện bệnh chính xác. Do vậy các quí vị chẳng may
có bệnh và nhận được yêu cầu của bác sĩ cần đến khám lại và tư vấn miễn
phí trong vòng 10 ngày vào các buổi chiều TRONG GIỜ HÀNH CHÍNH kể từ
ngày trả hồ sơ (trừ thứ 7 và CN).
Các quý vị
đã được kết luận bệnh và có đơn thuốc nhưng vẫn có thắc mắc cũng có thể
cầm hồ sơ của mình đến tư vấn lại bác sĩ trong thời gian nêu trên được
hoàn toàn miễn phí trong vòng 10 ngày kể từ ngày khám.
Trân trọng cảm ơn sự hợp tác và mong nhận được nhiều ý kiến xây dựng từ các quý vị.
Chương trình khám sức khỏe định kỳ dành cho các cá nhân
Khám
sức khỏe định kỳ là chất lượng của cuộc sống. Mọi nguy cơ đe dọa sức
khỏe của bạn đều được ngăn chặn kịp thời nếu được phát hiện sớm.
Khám sức khỏe định kỳ hàng năm giá trọn gói: 1.050.000 VNĐ