NGÔI MẶT
1. Đại cương:
Ngôi mặt là ngôi đầu ngửa hẳn, phần mặt thai nhi trình diện trước
eo trên của tiểu khung. Đây là một ngôi thai bất thường, chiếm tỉ lệ
khoảng 5/1000 các cuộc chuyển dạ. Mốc của ngôi mặt là mỏm cằm.
Ngôi mặt có 2 kiểu cằm-mu (cằm trước) và cằm-cùng (cằm sau) nhưng chỉ
có kiểu cằm trước có thể đẻ được với đường kính lọt của ngôi là hạ
cằm-thóp trước (9,5 cm), còn kiểu cằm sau nếu trong chuyển dạ ngôi
không xoay thành cằm trước thì phải mổ lấy thai vì đường kính sổ là
ức-thóp trước quá lớn (15 cm).
2. Nguyên nhân:
Ngôi mặt có thể nguyên phát hoặc thứ phát, xảy ra trong chuyển dạ do đầu cao, bình chỉnh kém, di động dễ.
Các nguyên nhân thường gặp trong ngôi mặt gồm:
2.1. Về phía mẹ:
- Khung chậu hẹp.
- Bất thường ở tử cung: tử cung dị dạng, tử cung lệch sang bên hay đổ
trước quá mức, tử cung có u xơ ở eo, tử cung nhẽo do đẻ nhiều lần.
2.2. Về phía thai:
- Thai to, đầu thai to, thai vô sọ làm cho đầu thai không áp chặt được tiểu khung dẫn đến đầu ngửa.
- Bất thường ở cổ hoặc cột sống làm cho thai nhi không cúi được như: khối u ở cổ, bướu cổ, cột sống bị gù.
2.3. Về phía phần phụ của thai:
Rau tiền đạo, dây rau ngắn, dây rau quấn cổ, đa ối.
3. Chẩn đoán:
3.1. Trong khi có thai:
- Nhìn: không có gì đặc biệt, tử cung vẫn hình trứng hoặc có thể
thấy tử cung dị dạng hình tim, tử cung đổ trước quá mức hoặc lệch sang
bên.
- Sờ nắn tử cung thấy đầu ở dưới. Các kết quả sờ nắn trong khi có thai rất có giá trị trong chẩn đoán ngôi mặt.
+ Với kiểu cằm sau, nắn thấy dấu hiệu "nhát rìu": có một vùng khuyết
sâu giữa bướu chẩm và lưng thai nhi, khó nắn thấy cằm và chân, tay.
+ Với kiểu cằm trước sẽ nắn thấy cằm thai nhi hình móng ngựa, dễ nắn
thấy chân, tay; không nắn thấy lưng, bướu chẩm và rãnh gáy.
- Nghe tim thai: không có gì đặc biệt, vị trí tim thai ở vùng quanh rốn.
- Thăm âm đạo không có giá trị chẩn đoán vì cổ tử cung chưa mở.
- Chụp X quang thấy hình ảnh cột sống thai nhi ưỡn ngửa, có thể phát
hiện thai dị dạng vô sọ hoặc có khối u ở cổ. Đây là phương pháp có giá
trị chẩn đoán, tuy nhiên không có lợi cho thai nên ít được làm.
3.2. Trong khi chuyển dạ:
- Nhìn, nắn và nghe: giống như khi chưa chuyển dạ nhưng khó phát hiện dấu hiệu nhát rìu hơn vì đã có cơn co tử cung.
- Thăm âm đạo khi cổ tử cung đã mở:
+ Khi ối chưa vỡ: đầu ối phồng, ngôi cao, khó chẩn đoán, khi thăm khám cần nhẹ nhàng, tránh làm vỡ ối, dễ gây sa dây rau.
+ Khi ối đã vỡ, cổ tử cung mở rộng: sờ thấy trán với đường khớp giữa 2
xương trán, sống mũi, 2 hố mắt, 2 lỗ mũi, hàm trên, mồm, hàm dưới hình
móng ngựa và mỏm cằm là mốc của ngôi. Nếu mặt có bướu huyết thanh, phù
nề sẽ gây khó khăn trong chẩn đoán, khi đó dựa vào sờ thấy gốc mũi
(không bao giờ bị phù nề) và miệng thai nhi (khi cho ngón tay vào thấy
có phản xạ mút nếu thai sống).
3.3. Chẩn đoán thế và kiểu thế:
- Chẩn đoán thế: dựa vào mốc của ngôi ở bên trái hay bên phải của
khung chậu. Mốc của ngôi là mỏm cằm, vì đầu thai nhi ngửa hẳn nên mỏm
cằm đối diện với lưng. Do đó, khi sờ nắn thấy lưng bên nào thì thế ở
bên đối diện: lưng bên phải thì thế trái, lưng bên trái thì thế phải.
- Chẩn đoán kiểu thế: dựa vào mốc của ngôi ở nửa trước hay nửa sau của
khung chậu để chẩn đoán kiểu thế, có 4 kiểu thế lọt theo thứ tự thường
gặp là:
+ Cằm - chậu - trái - trước (Ca.C.T.T).
+ Cằm - chậu - phải - sau (Ca.C.P.S).
+ Cằm - chậu - phải trước (Ca.C.P.T).
+ Cằm - chậu - trái - sau (Ca.C.T.S) rất hiếm.
3.4. Chẩn đoán phân biệt:
- Với ngôi ngược không hoàn toàn kiểu mông:
Ngôi mặt khi có bướu huyết thanh to cần chẩn đoán phân biệt với ngôi
ngược không hoàn toàn kiểu mông vì có thể nhầm má với mông thai nhi,
khi đó có thể phân biệt miệng với hậu môn bằng cách cho ngón tay vào
thăm dò: nếu là mồm sẽ có phản xạ mút, nếu là hậu môn sẽ thấy có phân
xu theo tay và không có phản xạ mút.
- Với ngôi trán: trong ngôi trán, thăm âm đạo khi thăm âm đạo cổ tử
cung đã mở ta sờ thấy trán, 2 hốc mắt, gốc mũi, 2 lỗ mũi và có thể sờ
được cả hàm trên nhưng không bao giờ sờ được cằm.
- Với thai vô sọ: vì không có vòm sọ nên sờ thấy mềm, dễ nhầm với ngôi
mặt. Phân biệt bằng cách nắn ngoài không thấy bướu chẩm, chụp X quang
không thấy vòm xương sọ.
4. Cơ chế đẻ ngôi mặt:
Trong ngôi mặt, do ngôi thai bình chỉnh không tốt (vì ngôi không
tròn đều) nên cổ tử cung xoá mở chậm, dễ bị vỡ ối sớm gây chuyển dạ kéo
dài và đẻ khó. Ngôi mặt kiểu cằm sau đẻ khó hơn kiểu cằm trước.
4.1. Cơ chế đẻ kiểu cằm trước:
Thường gặp kiểu cằm - chậu - trái - trước, do đó ở đây sẽ chỉ trình
bày cơ chế đẻ kiểu Ca.C.T.T. Trong 3 cực, đẻ đầu là quan trọng nhất,
còn đẻ vai và mông không có gì đặc biệt.
Đẻ đầu diễn ra qua 4 thì: lọt, xuống, quay, sổ.
- Lọt: đầu ngửa dần, đi đến ngửa hẳn để có đường kính nhỏ nhất là hạ
cằm - thóp trước (9,5 cm) ăn khớp và đi qua đường kính chéo trái của eo
trên.
- Xuống và quay: khi cằm xuống, cổ thai nhi ưỡn dài. Dưới tác dụng của
cơn co tử cung và sức cản của các cơ nâng hậu môn, đầu sẽ quay 45 độ ra
trước để cằm đến khớp mu, đường kính hạ chẩm cằm trùng với đường kính
trước sau của eo dưới (cụt - hạ mu). Khi đó, cổ thai nhi càng ưỡn dài
để cho cằm cố định ở bờ dưới khớp mu và chuẩn bị sổ. Còn nếu đầu không
quay ra trước mà quay 135 độ ra sau thì phải mổ lấy thai.
- Sổ: khi cằm đã cố định ở bờ dưới khớp mu, đầu bắt đầu cúi dần để cho
lần lượt mồm, mũi, thóp trước, trán và cuối cùng là thượng chẩm lướt
qua tầng sinh môn sổ ra ngoài. Như vậy thứ tự các đường kính trước sau
của đầu là: hạ cằm-thóp trước (9,5 cm), hạ cằm-trán (cm) và cuối cùng
là thượng chẩm-cằm là đường kính lớn nhất (13,5 cm) sẽ sổ ra ngoài, cho
nên khi sổ thai dễ gây rách tầng sinh môn, do vậy nên cắt nới rộng tầng
sinh môn trước khi sổ thai.
4.2. Cơ chế đẻ kiểu cằm sau:
- Kiểu Ca.C.P.S gặp nhiều hơn kiểu Ca.C.T.S.
- Các kiểu cằm sau thường lọt khó khăn vì đầu không ngửa hẳn được, dễ
bị vướng vào xương cùng, cổ thai nhi không ưỡn dài được. Do vậy, muốn
lọt và xuống được, bắt buộc ngôi phải quay 135 độ về phía trước biến
thành kiểu cằm trước.
- Nếu ngôi không quay ra trước, tiểu khung sẽ tiếp nhận đường kính ức -
thóp trước của thai nhi (15 cm) quá lớn, ngôi sẽ không lọt và xuống
được, cuộc đẻ sẽ bị ngừng lại vì ngôi bị mắc kẹt trong tiểu khung, sẽ
dẫn đến doạ vỡ và vỡ tử cung.
Vì vậy, với các kiểu cằm sau, cần theo dõi thật sát, nếu thấy ngôi
không quay ra trước phải mổ lấy thai ngay, không để ngôi xuống sâu-mắc
kẹt trong tiểu khung. Xu hướng hiện nay người ta chỉ định mổ rộng rãi
với ngôi mặt kiểu cằm sau.
5. Tiên lượng:
Ngôi mặt là một ngôi đẻ khó, thời gian chuyển dạ lâu vì ngôi cao,
cổ tử cung mở chậm, dễ bị vỡ ối sớm dẫn đến sa dây rau, suy thai, nhiễm
khuẩn ối.
5.1. Tiên lượng đối với mẹ:
- Đối với kiểu cằm trước, có thể đẻ được đường âm đạo nếu ngôi quay
về cằm - mu, song nguy cơ rách rộng, rách phức tạp tầng sinh môn cao vì
đường kính sổ của ngôi lớn (13,5cm).
- Với kiểu cằm sau, nếu ngôi không quay ra trước thì không thể đẻ được
đường âm đạo, vì đường kính của ngôi là ức - thóp trước (15 cm), nếu
không mổ, có thể dẫn đến vỡ tử cung khi ngôi xuống sâu kẹt trong tiểu
khung.
5.2. Tiên lượng đối với thai:
+ Tỉ lệ tử vong sơ sinh đẻ đường âm đạo trong ngôi mặt từ 2% đến 20%.
+ Dễ dẫn đến suy thai, ngạt thai do chuyển dạ lâu, ối vỡ sớm, sa dây rau, nhiễm khuẩn ối.
+ Chấn thương sọ não do lấy thai bằng Forceps.
+ Nếu đẻ được, thai có hiện tượng uốn khuôn, mặt phù nề, tím, thân ưỡn cong.
6. Cách xử trí:
Có thể gặp một trong 3 tình huống sau:
6.1. Ngôi mặt, thai sống:
* Không được dùng thủ thuật xoay thai để biến ngôi mặt thành ngôi
chỏm hay ngôi mông vì sẽ gây vỡ tử cung và tổn thương nặng nề cho thai
nhi.
* Cần chỉ định mổ lấy thai ngay khi thấy có khó khăn trong tiên lượng
đẻ như thai to, khung chậu giới hạn, tiền sử đẻ khó, con hiếm, con so
lớn tuổi, chuyển dạ kéo dài, ối vỡ sớm…Hiện nay, chỉ định mổ lấy thai
trong ngôi mặt tại các bệnh viện tương đối rộng, vì đây là ngôi đẻ khó,
có nhiều nguy cơ tai biến cho mẹ con.
* Các tài liệu kinh điển có ghi nhận, nếu thai nhỏ, các yếu tố tiên
lượng đẻ thuận lợi thì có thể cân nhắc để theo dõi chuyển dạ đẻ đường
dưới. Khi đó:
+ Với ngôi mặt kiểu cằm trước: theo dõi chuyển dạ, bảo vệ đầu ối, chờ
cổ tử cung mở hết, ngôi tiến triển tốt, đầu ngửa hẳn và xuống, quay ra
cằm-mu, cắt nới rộng tầng sinh môn khi thai sổ. Nếu thai không sổ được
thì làm Forceps. Nếu ngôi không quay vì đầu không ngửa hẳn, phải giúp
cho đầu ngửa thêm bằng cách dùng một tay ấn vào hàm dưới đồng thời một
tay ấn vào đáy tử cung để giúp cho ngôi xuống.
+ Với ngôi mặt cằm sau: cần thăm khám nhẹ nhàng tránh làm vỡ ối sớm.
Sau khi ối vỡ, nếu ngôi chưa quay thành cằm trước, có thể giúp cho cằm
quay từ sau ra trước bằng cách dùng 2 ngón tay đẩy vào xương hàm dưới
hoặc quay bằng Forceps. Khi cằm đã quay ra trước, thai sẽ sổ được.
6.2. Ngôi mặt, thai vô sọ: để đẻ tự nhiên, không huỷ thai mà cũng không có chỉ định mổ lấy thai.
6.3. Ngôi mặt, thai chết: chọc sọ, kẹp đỉnh, lấy thai ra bằng đường dưới, kỹ thuật này đòi hỏi vô cảm và hồi sức tốt.
[newpage]
NGÔI TRÁN
1. Đại cương
Ngôi trán là ngôi mà phần trán trình diện trước eo trên- là ngôi
trung gian giữa ngôi chỏm và ngôi mặt, nghĩa là ngôi đầu cúi không tốt
hoặc ngửa không tốt. Mốc của ngôi trán là gốc mũi. Tỉ lệ thường gặp
khoảng 1-2/1000 các ca đẻ.
Đây là ngôi thai bất thường, không thể đẻ đường âm đạo được vì đường
kính của ngôi là thượng chẩm - cằm (13,5 cm) không lọt được qua đường
kính chéo của eo trên (12 - 12,5 cm), trừ khi thai quá nhỏ, khung chậu
bình thường, hoặc ngôi trán cao lỏng cúi thêm để biến thành ngôi chỏm
hoặc ngửa thêm để biến thành ngôi mặt trong chuyển dạ, dưới sức đẩy của
cơn co tử cung.
Người ta cũng coi ngôi thóp trước là một loại ngôi trán đặc biệt. Có
thể gọi ngôi thóp trước là ngôi trán hơi cúi, thóp trước trình diện
trước eo trên, tiên lượng và cách xử trí giống ngôi trán.
2. Nguyên nhân:
Ngôi trán thường là thứ phát, có những yếu tố thuận lợi gây ra ngôi trán trong khi chuyển dạ như sau:
* Về phía mẹ: con rạ đẻ nhiều lần, cơ tử cung nhão; tử cung lệch trục; khung chậu dẹt. Ngôi trán gặp nhiều ở con rạ hơn con so.
* Về phía thai và phần phụ của thai: thai to, đầu dài; rau tiền đạo; dây rau ngắn, quấn cổ; đa ối.
3. Triệu chứng, chẩn đoán
3.1. Trong khi có thai: không thể chẩn đoán được ngôi trán vì ngôi trán chỉ xảy ra khi đã chuyển dạ.
3.2. Trong khi chuyển dạ:
* Chẩn đoán xác định:
- Nhìn không thấy gì đặc biệt.
- Nắn cực dưới tử cung có thể thấy đầu cúi không tốt, sờ thấy bướu chẩm và rãnh gáy.
- Thăm âm đạo khi cổ tử cung đã mở, ối đã vỡ, ngôi xuống thấp cho phép chẩn đoán xác định:
+ Sờ thấy trán ở giữa tiểu khung, có đường khớp giữa 2 xương trán, ở
đầu trên là thóp trước với hình trám, đầu dưới là 2 hố mắt, gốc mũi và
2 lỗ mũi, có thể sờ được tới hàm trên nhưng không sờ thấy mồm và cằm
thai nhi.
+ Không sờ thấy thóp sau.
* Chẩn đoán thế, kiểu thế:
- Chẩn đoán thế: dựa vào mốc của ngôi ở bên trái hay bên phải của khung
chậu. Mốc của ngôi là gốc mũi (không bao giờ bị phù nề), đối diện với
lưng. Do đó, khi sờ nắn thấy lưng bên nào thì thế ở bên đối diện.
- Chẩn đoán kiểu thế: dựa vào mốc của ngôi ở nửa trước hay nửa sau của
khung chậu để chẩn đoán kiểu thế, có 4 kiểu thế lọt theo thứ tự thường
gặp là:
+ Mũi - chậu - trái - trước (M.C.T.T).
+ Mũi - chậu - phải - sau (M.C.P.S).
+ Mũi - chậu - phải trước (M.C.P.T).
* Chẩn đoán phân biệt:
- Với ngôi chỏm: trong ngôi chỏm sẽ sờ thấy thóp sau hình tam giác, không sờ được gốc mũi.
- Với ngôi mặt: trong ngôi mặt sờ thấy cả trán, gốc mũi, mồm và cằm
(mốc của ngôi), còn trong ngôi trán có thể sờ được từ trán tới hàm trên
nhưng không bao giờ sờ thấy miệng và cằm thai nhi.
- Với ngôi thóp trước: là ngôi trán hơi cúi, mốc của ngôi là thóp
trước; do gốc mũi ở gần bờ của khung chậu nên chỉ có thể sờ được thóp
trước, trán, gốc mũi mà không sờ được tới hàm trên.
4. Cơ chế đẻ ngôi trán
* Khi thai đủ tháng, trọng lượng thai trung bình hoặc thai to, ngôi
trán không thể đẻ được đường âm đạo vì đường kính của ngôi quá lớn
(thượng chẩm - cằm 13,5 cm) không lọt qua eo trên được, phải mổ lấy
thai.
* Khi trọng lượng thai rất nhỏ, khung chậu bình thường, ngôi trán có
thể đẻ được đường âm đạo nhưng khó khăn hơn ngôi chỏm. Vì vậy cần
nghiên cứu cơ chế đẻ ngôi trán trong trường hợp này.
Do các đường kính lọt của đầu thai to hơn các đường kính của eo trên
nên muốn lọt được đầu thai nhi phải lọt không đối xứng, hoặc là đầu cúi
hơn để cho bướu chẩm lọt trước và khối mặt lọt sau hoặc ngược lại.
Nếu lọt được, xuống và quay cũng rất chậm và khó khăn. Khi mũi đã ở bờ
dưới khớp mu, chẩm ở trong hõm xương cùng, thai bắt đầu sổ. Cơ chế sổ
ngôi trán gần giống cơ chế sổ chẩm-cùng trong ngôi chỏm (đầu phải cúi
rồi ngửa). Khi hàm trên cố định ở dưới khớp mu, đầu cúi dần để các phần
mũi, trán, thóp trước, chẩm, hạ chẩm lần lượt sổ ra ngoài. Sau đó đầu
phải ngửa dần để miệng và cằm sổ ra khỏi khớp mu. Khi sổ dễ gây rách
tầng sinh môn, vì vậy cần cắt nới rộng tầng sinh môn trước khi thai sổ.
Sau sổ, kiểm tra thai thường thấy có hiện tượng uốn khuôn rất nhiều,
trán nhô cao và đầu dài theo đường kính chẩm-cằm.
5. Tiên lượng:
Tiên lượng cho mẹ và con trong ngôi trán phụ thuộc vào chẩn đoán
sớm hay muộn. Nếu chẩn đoán sớm, xử trí kịp thời, tiên lượng tốt cho cả
mẹ và con. Nếu phát hiện muộn, xử trí không kịp thời, tiên lượng sẽ xấu.
* Về phía thai: tỉ lệ tử vong cho thai cao, khoảng 40%. Thai chết vì bị kẹt trong tiểu khung, sa dây rau, xuất huyết não-màng não…
* Về phía mẹ: vỡ tử cung thường xảy ra khi ngôi bị mắc kẹt trong
tiểu khung, có thể dẫn đến tử vong mẹ. Khi sổ thai dễ gây rách phức tạp
âm đạo, tầng sinh môn; dễ gây nhiễm khuẩn, rò bàng quang-âm đạo sau đẻ.
6. Thái độ xử trí
6.1. Khi thai nhi còn sống:
* Với ngôi trán cao lỏng, chưa cố định:
Thái độ xử trí là chờ đợi và theo dõi với hi vọng dưới tác dụng đẩy
của cơn co tử cung có thể ngôi trán cao lỏng sẽ cúi thêm-biến thành
ngôi chỏm hoặc ngửa thêm-biến thành ngôi mặt trong quá trình chuyển dạ.
* Với ngôi trán cố định:
- Khi đã chẩn đoán xác định là ngôi trán cố định, thai đủ tháng, dù cổ
tử cung mở hết hoặc chưa mở hết, miễn là thai nhi còn sống, đều phải mổ
lấy thai (chỉ định mổ là tuyệt đối).
- Một số trường hợp thai quá nhỏ (kém phát triển), hoặc thai non tháng,
khung chậu rộng rãi, ngôi trán có thể đẻ được đường âm đạo, song nguy
cơ suy thai-ngạt thai và rách tầng sinh môn cao.
* Nếu ngôi trán bị mắc kẹt trong tiểu khung (vì
đầu đã lọt và xuống):Đây là biến chứng chính của ngôi trán, xảy ra khi
chẩn đoán muộn hoặc thiếu sự theo dõi trong chuyển dạ.
Trên lâm sàng thấy sản phụ vật vã và đau dữ dội, cơn co tử cung mau, tử
cung tăng trương lực; thăm âm đạo sờ thấy bướu huyết thanh to ở trán,
dễ nhầm là ngôi chỏm đang xuống.
Xử trí: phải mổ lấy thai ngay, trường hợp này kéo được đầu lên cũng
không dễ dàng, vì vậy cần theo dõi sát chuyển dạ không được để xảy ra
biến chứng mắc kẹt đầu trong tiểu khung.
6.2. Nếu thai nhi đã chết: huỷ thai qua đường dưới bằng
kỹ thuật chọc sọ-kẹp đỉnh, kỹ thuật này đòi hỏi vô cảm và hồi sức tốt,
nguy cơ vỡ tử cung cao. Nếu vỡ tử cung, chỉ định mổ rồi tuỳ theo thương
tổn mà khâu lỗ thủng hay cắt tử cung. Không được làm kỹ thuật này khi
có dấu hiệu doạ vỡ tử cung.
[newpage]
NGÔI NGANG
1. Đại cương
Ngôi ngang là ngôi mà thai không nằm theo trục dọc mà nằm ngang trong tử cung.
Trong ngôi ngang, không phải lúc nào 2 cực đầu và mông cũng đều ngang
nhau mà thường một cực ở hố chậu, còn cực kia ở vùng hạ sườn (thai nằm
chếch trong tử cung).
Khi chuyển dạ thực sự, vai sẽ trình diện trước eo trên nên người ta còn gọi ngôi ngang là ngôi vai. Mốc của ngôi là mỏm vai.
Ngôi ngang là ngôi không thể đẻ được khi thai sống, đủ tháng hoặc gần
đủ tháng, nên không có cơ chế đẻ. Tỉ lệ ngôi ngang chiếm 0,3%-0,5% các
cuộc chuyển dạ.
2. Nguyên nhân
2.1. Về phía mẹ:
- Tử cung nhão do mẹ đẻ nhiều lần, thai ở tư thế ngang không thể bình chỉnh về tư thế dọc được.
- Tử cung dị dạng ở người đẻ con so: tử cung 2 sừng, tử cung có vách ngăn, tử cung có đường kính ngang lớn hơn bình thường.
- Khung chậu hẹp.
- Khối u tiền đạo: u xơ tử cung vùng eo, u nang buồng trứng…
2.2. Về phía thai:
- Trong thai đôi, sau khi thai một sổ, thai thứ hai ở tư thế ngang.
- Thai non tháng, thai chết lưu.
2.3. Về phía phần phụ của thai:
- Đa ối làm cho ngôi thai không cố định trong tử cung.
- Rau tiền đạo, dây rau ngắn, dây rau quấn cổ, làm cho thai nhi bình chỉnh không tốt.
Trong các nguyên nhân trên, thường gặp nhất là con rạ đẻ nhiều lần, con so tử cung dị dạng, rau tiền đạo.
3. Triệu chứng, chẩn đoán:
3.1. Trong khi có thai: chẩn đoán ngôi ngang dựa vào:
* Tiền sử sản khoa: chửa đẻ nhiều lần, có thể đã có lần ngôi ngang.
* Nhìn: tử cung bè ngang.
* Sờ nắn:
- Nắn cực dưới tử cung (trên mu): tiểu khung rỗng, không thấy cực đầu hay mông.
- Nắn 2 bên: một bên thấy đầu (khối tròn đều, cứng, bập bềnh) ở mạn
sườn hoặc ở hố chậu; bên kia nắn thấy cực mông (khối tròn không đều, to
hơn đầu, chỗ rắn chỗ mềm) ở mạn sườn hoặc hạ sườn.
- Nắn giữa 2 cực đầu và mông sẽ thấy lưng là một diện phẳng (nếu lưng ở
phía trước) hoặc thấy lổn nhổn các chi (nếu lưng ở phía sau).
* Nghe tim thai: vị trí nghe tim thai tuỳ thuộc vào vị trí của cực đầu,
là nơi sờ thấy mỏm vai. Tim thai sẽ nghe thấy rất rõ nếu lưng nằm ở
phía trước.
* Thăm âm đạo thấy tiểu khung rỗng.
3.2. Khi chuyển dạ:
* Hỏi tiền sử, nhìn, sờ nắn như trong khi có thai nhưng nắn khó hơn vì đã có cơn co tử cung.
* Thăm âm đạo:
- Khi ối chưa vỡ thấy ối phồng, tiểu khung rỗng, cần thăm khám nhẹ nhàng tránh làm ối vỡ sớm.
- Khi ối đã vỡ: sờ được mỏm vai, các xương sườn và hố nách. Khi biết vị
trí hố nách bên nào tức là biết được vai và do đó biết được đầu ở bên
đó.
3.3. Chẩn đoán thế, kiểu thế:
* Chẩn đoán thế: Khác với ngôi chỏm, trong ngôi vai, người ta không
dựa vào lưng thai nhi để chẩn đoán thế, vì dù vai ở bên phải hay trái,
lưng thai nhi vẫn có thể ở trước hay ở sau. Thường dựa vào đầu ở bên
nào tức là vai ở bên đó mà chẩn đoán thế.
* Chẩn đoán kiểu thế:
Ngôi vai có 4 kiểu thế sắp xếp theo thứ tự thường gặp như sau:
- Vai - chậu - trái - trước.
- Vai - chậu - phải - trước.
- Vai - chậu - phải - sau.
- Vai - chậu - trái - sau.
Chẩn đoán kiểu thế dựa vào 3 yếu tố: đầu ở bên nào, tên mỏm vai lọt hay
tên của tay thai nhi thò ra lưng trước hay lưng sau. Thực tế chỉ cần 2
yếu tố là đủ, có thể dựa vào đầu và lưng hay vai và lưng để chẩn đoán .
Ví dụ: đầu trái, lưng trước thì kiểu thế là vai-chậu-trái-trước.
Trong trường hợp sờ thấy tay thai nhi sa xuống âm đạo hay sa ra ngoài
âm hộ, lúc đó dựa vào bàn tay để chẩn đoán kiểu thế. Người ta gọi là
dấu hiệu "ngón tay cái": đặt bàn tay thai nhi ngửa, ngón tay cái chỉ
vào đùi của mẹ, nếu đùi người mẹ là đùi trái thì tay thai nhi là tay
trái, đùi mẹ là đùi phải, tay thai nhi là tay phải.
3.4. Chẩn đoán phân biệt:
* Ngôi đầu sa chi: trường hợp này đầu thai thường cao, khi sờ thấy
tay thai nhi bị sa, phải tìm xem ở eo trên có đầu thai hay không. Với
ngôi ngang, không sờ thấy đầu thai nhi ở eo trên.
* Ngôi ngược hoàn toàn: sờ thấy đỉnh xương cùng dễ nhầm với mỏm vai,
nhưng không sờ thấy hõm nách và các sườn thai nhi như trong ngôi ngang.
4. Cơ chế đẻ:
Ngôi ngang không có cơ chế đẻ nếu thai đủ tháng hoặc gần đủ tháng.
Nhưng nếu thai quá nhỏ hoặc thai chết lưu khi còn non tháng, các phần
thai đã mềm nhũn làm cho thân thai nhi dễ gập lại, với khung chậu rộng
rãi, thai có thể bị đẩy ra ngoài qua đường âm đạo. Khi lọt, thai phải
gập đôi người lại cho vai và lưng xuống trước, rồi đến mông lọt và
xuống. Sau khi mông đã sổ được thì phần còn lại của thai nhi sẽ sổ như
trong ngôi ngược, đầu ra cuối cùng.
5. Tiến triển và tiên lượng:
Nếu ngôi ngang không được chẩn đoán sớm và xử trí kịp thời sẽ dẫn đến các biến chứng:
* Ngôi vai buông trôi: chuyển dạ kéo dài, ối vỡ, tử cung co cứng, sa
tay trong âm đạo hoặc ra ngoài âm hộ, thường kèm theo sa dây rau.
* Thai suy, thai chết: tử cung co bóp vào thai liên tục, dây rau bị sa,
làm cho tuần hoàn tử cung-rau-thai bị cản trở, thai suy nhanh chóng nếu
không được xử trí dẫn đến chết thai, thai càng to càng suy và chết
nhanh.
* Doạ vỡ và vỡ tử cung: khi ngôi vai buông trôi nếu không được phát hiện và xử trí kịp thời sẽ dẫn đến doạ vỡ rồi vỡ tử cung.
* Nhiễm khuẩn ối, nhiễm khuẩn tử cung do ối non, vỡ sớm.
6. Xử trí:
6.1. Trong khi có thai:
- Thai phụ phải được khám định kỳ, trong 3 tháng cuối, khi phát hiện
ngôi ngang, cần khuyên thai phụ nằm nghỉ ngơi, đặc biệt vào tháng cuối,
nên nằm viện theo dõi, đề phòng ối vỡ non, ối vỡ sớm.
- Thủ thuật xoay thai ngoài (biến ngôi ngang thành ngôi dọc) trước kia
áp dụng với con rạ nhưng có thể gây tai biến tổn thương cho thai hoặc
rau bong non, do vậy ngày nay người ta hầu như không áp dụng.
6.2. Trong khi chuyển dạ:
* Nếu thai còn sống:
- Với con so: mổ lấy thai ngay khi phát hiện ngôi ngang để đề phòng vỡ
tử cung, tuyệt đối không được làm thủ thuật nội xoay thai vì rất nguy
hiểm cho cả mẹ và thai.
- Với con rạ: kinh điển người ta có sử dụng thủ thuật nội xoay thai khi
có đủ điều kiện (thai không to, khung chậu bình thường, cổ tử cung mở
hết, ối chưa vỡ hoặc mới vỡ, không có thiểu ối, âm đạo rộng rãi, tầng
sinh môn mềm mại, tiền sử đẻ dễ), khi đó tiến hành nội xoay thai thành
ngôi ngược và đại kéo thai. Nếu không đủ điều kiện nội xoay thai thì mổ
lấy thai. Ngày nay, người ta mổ lấy thai là chính vì nội xoay thai có
nhiều tai biến, trừ một số trường hợp đặc biệt như thai quá nhỏ hoặc
trong sinh đôi sau khi thai thứ nhất đã sổ, thai thứ hai là ngôi ngang
thì người ta mới tiến hành thủ thuật này.
* Nếu thai nhi đã chết:
Kinh điển: sử dụng thủ thuật cắt thai qua cột sống nhưng cũng khó thực
hiện và nguy hiểm. Hiện nay mặc dù thai chết người ta vẫn mổ lấy thai.
* Ngôi ngang có biến chứng:
- Nhiễm khuẩn ối do vỡ ối non, vỡ ối sớm:
+ Mổ dọc thân tử cung lấy thai, tiếp theo cắt tử cung bán phần.
+ Dùng kháng sinh mạnh, liều cao, phổ rộng, hồi sức tốt.
- Vỡ tử cung:
+ Mổ lấy thai, tuỳ điều kiện có thể khâu lỗ thủng hoặc cắt tử cung bán phần.
+ Hồi sức tốt trước, trong và sau mổ: truyền dịch, truyền máu, kháng sinh mạnh, phổ rộng đề phòng viêm phúc mạc.
1. ĐẠI CƯƠNG
Sa sinh dục còn gọi là sa tử cung, nhưng gọi sa sinh dục thì đúng
hơn, vì trong nhiều trường hợp không những chỉ sa tử cung, mà còn sa cả
thành trước âm đạo kèm theo có sa bàng quang và sa cả thành sau âm đạo
kèm theo trực tràng.
Sa sinh dục là một bệnh khá phổ biến ở phụ nữ Việt nam, nhất là phụ nữ
ở nông thôn, trong lứa tuổi từ 40 – 50 trở lên chiếm khoảng 5 – 8%.
Đây là bệnh không nguy hiểm đến tính mạng, nhưng lại ảnh hưởng nhiều
đến sinh hoạt, lao động của phụ nữ. Bệnh thường gặp ở những người chửa
đẻ nhiều, đẻ quá sớm, quá dày và những lần đẻ trước không không được đỡ
đẻ an toàn, đúng kỹ thuật.
2. CƠ CHẾ SINH BỆNH - NGUYÊN NHÂN
2.1. Cơ chế giữ tử cung không sa
Bình thường, tư thế tử cung trong hố chậu là gập trước, thân tử
cung hợp với cổ tử cung một góc 120 độ, tử cung hợp với trục âm đạo
thành một góc 90 độ.
Các tổ chức và dây chằng giữ cho tử cung ở tư thế bình thường gồm:
- Tổ chức cơ: các cơ hoành chậu hông trong đó quan trọng nhất là cơ nâng hậu môn.
- Các dây chằng: dây chằng tử cung-cùng, dây chằng tròn, dây chằng rộng.
- Tổ chức liên kết dưới phúc mạc và trên cơ nâng hậu môn, các tổ chức
này kết lại thành những vách ràng buộc các tạng với nhau, với thành
chậu và đáy chậu.
Hệ thống dây chằng chỉ có giá trị tương đối, quan trọng nhất để giữ tử cung là các vách âm đạo và tầng sinh môn.
Do âm đạo hợp với tử cung một góc 90 độ, nên khi người phụ nữ đứng,
dưới áp lực trong ổ bụng, tử cung không những không sa vào âm đạo mà
còn có tác dụng đóng kín hoành chậu, tầng sinh môn với các cơ, các màng
cơ.
2.2. Cơ chế dẫn đến sa sinh dục
Những thay đổi sau có thể dẫn đến sa sinh dục:
- Sự thay đổi tư thế tử cung: những tử cung ở tư thế đổ sau hoặc trung
gian làm cho thân và cổ tử cung trên cùng một trục với âm đạo, dưới áp
lực trong ổ bụng dễ làm cho tử cung và âm đạo sa ra ngoài.
- Sự thay đổi các tổ chức của đáy châu: là nguyên nhân chính gây ra sa
sinh dục. Ví dụ: cơ nâng hậu môn bị rách, các màng cơ bị giãn mỏng và
yếu, nút thớ trung tâm bị phá huỷ. Những thay đổi này làm sa thành âm
đạo rồi sẽ dẫn đến sa tử cung.
2.3. Nguyên nhân sa sinh dục
- Chửa đẻ nhiều lần, đẻ dày, đẻ không được đỡ đẻ an toàn đúng kỹ thuật, rách tầng sinh môn không khâu.
- Lao động nặng hoặc quá sớm sau đẻ làm tăng áp lực ổ bụng, đè vào đáy chậu còn mềm yếu dễ gây nên sa sinh dục.
- Các nguyên nhân gây tăng áp lực ổ bụng thường xuyên: mang vác, gánh
gồng nặng, táo bón trường diễn, ho kéo dài, những người bán hàng rong
thường xuyên ngồi bệt trên lề đường…
- Rối loạn dinh dưỡng ở người già, hệ thống treo và nâng đỡ tử cung suy yếu.
- Ngoài ra có thể do cơ địa bẩm sinh ở người chưa đẻ lần nào.
3. GIẢI PHẪU BỆNH
3.1. Sa sinh dục ở người đẻ nhiều lần
Thời gian đầu thường là sa thành trước hoặc thành sau âm đạo, sau đó kéo theo sa tử cung, cổ tử cung.
* Mức độ và thành phần của khối sa sinh dục: dựa vào vị trí sa của cổ tử cung so với âm hộ chia làm 3 độ sa sinh dục.
- Sa sinh dục độ I:
+ Sa thành trước âm đạo, kèm theo sa bàng quang.
+ Sa thành sau âm đạo, nếu sa nhiều kéo theo sa cả trực tràng.
+ Cổ tử cung sa thấp trong âm đạo nhưng chưa tới âm hộ.
- Sa sinh dục độ II:
+ Sa thành trước âm đạo và bàng quang.
+ Sa thành sau âm đạo, có thể kèm sa trực tràng.
+ Cổ tử cung sa thập thò âm hộ.
- Sa sinh dục độ III:
+ Sa thành trước âm đạo và bàng quang.
+ Sa thành sau âm đạo, có thể kèm theo sa trực tràng.
+ Tử cung, cổ tử cung sa thấp, cổ tử cung sa hẳn ra ngoài âm hộ.
* Các thương tổn phối hợp:
- Cổ tử cung thường viêm loét, phì đại do bị cọ sát lâu ngày với quần bệnh nhân.
- Tử cung thường teo nhỏ do người già đã mãn kinh, song một số trường
hợp có thể có u xơ tử cung hoặc u nang buồng trứng kết hợp.
- Tầng sinh môn thường có vết rách cũ không được khâu tại điểm 6 giờ, cơ tầng sinh môn mềm nhão, suy yếu.
- Một số trường hợp có sỏi bàng quang, viêm bàng quang, xuất huyết bàng
quang - hậu quả của ứ trệ nước tiểu lâu ngày do niệu đạo bị gập.
3.2. Sa sinh dục ở người chưa đẻ lần nào
Thường là sa tử cung đơn thuần, cổ tử cung dài, thò ra ngoài âm đạo, thành âm đạo không bị sa.
4. TRIỆU CHỨNG – CHẨN ĐOÁN
4.1. Triệu chứng
* Cơ năng: Triệu chứng cơ năng tuỳ thuộc mức độ sa nhiều hay ít,
thời gian sa mới hay đã lâu, sa đơn thuần hay còn có tổn thương phối
hợp. Các triệu chứng cơ năng của sa sinh dục gồm có:
- Khối sa lồi ở vùng âm hộ, tầng sinh môn:
+ Ban đầu kích thước khối sa nhỏ, sa không thường xuyên, xuất hiện khi
lao động hoặc đi lại nhiều, nằm nghỉ thì khối sa tụt vào trong âm đạo
hoặc tự đẩy lên được.
+ Càng về sau khối sa càng to, sa thường xuyên, không đẩy lên được nữa.
- Tức nặng bụng dưới, cảm giác vướng víu khó chịu vùng âm hộ - tầng
sinh môn, ảnh hưởng đến lao động và sinh hoạt hàng ngày của BN.
- Các triệu chứng rối loạn tiểu tiện (do bàng quang và niệu đạo bị sa):
Đái khó, đái buốt, són đái, đái ra máu khi có viêm bàng quang hoặc có
sỏi bàng quang hình thành do sự ứ trệ nước tiểu lâu ngày. Đôi khi bệnh
nhân đến viện vì bí đái cấp.
- Rối loạn đại tiện (do sa trực tràng): đại tiện khó, táo bón, BN hay
có cảm giác mót rặn, tức nặng vùng hậu môn. Các triệu chứng này ít gặp
hơn so với rối loạn tiểu tiện.
- Chảy máu, dịch từ cổ tử cung do cổ tử cung bị viêm nhiễm, cọ sát.
- Sa sinh dục ở người trẻ có thể vẫn có thai nhưng dễ bị sảy thai hoặc đẻ non.
* Thực thể: Cần thăm khám cẩn thận, tỉ mỉ:
+ Đánh giá kích thước, mức độ và các thành phần trong khối sa sinh dục:
- Kích thước khối sa sinh dục có thể to nhỏ khác nhau tuỳ thuộc vào mức
độ và thời gian sa sinh dục. Nếu có bí đái, phải thông tiểu để đánh giá
kích thước khối sa sinh dục được chính xác.
- Mức độ sa sinh dục: có 3 độ như đã nói ở trên.
- Các thành phần trong khối sa sinh dục: thường là sa thành trước âm
đạo (kèm theo sa bàng quang), sa thành sau âm đạo (có thể kèm sa trực
tràng), sa cổ tử cung và thân tử cung. Cần đánh giá cổ tử cung có tổn
thương viêm loét, phì đại hay không?
+ Cho bệnh nhân ngồi rặn hoặc ho để khối sa sinh dục xuất hiện rõ hơn (nếu sa không thường xuyên).
+ Khám tiểu khung: đẩy khối sa vào âm đạo, thực hiện thao tác thăm âm
đạo kết hợp với nắn bụng để đánh giá kích thước, độ di động của tử cung
và hai phần phụ, đánh giá mức độ dính của chúng trong trường hợp có vết
mổ cũ, từ đó tiên lượng và dự kiến phương pháp phẫu thuật.
+ Thăm trực tràng: mục đích để đánh giá mức độ sa trực tràng và độ dày
của phên trực tràng - âm đạo giúp cho việc thực hiện phẫu thuật an
toàn, đề phòng tổn thương trực tràng.
+ Đánh giá tình trạng tầng sinh môn và cơ nâng hậu môn.
* Toàn thân: cần khám phát hiện các bệnh lý toàn thân như bệnh tim,
phổi mãn tính, huyết áp cao… để điều trị nội khoa ổn định trước khi
phẫu thuật sa sinh dục.
4.2. Chẩn đoán
* Chẩn đoán xác định:
- Đặc điểm của bệnh là thường gặp ở người từ 40 – 50 tuổi trở lên, bệnh tiến triển chậm, có thể từ vài năm đến hàng chục năm.
- Tiền sử thường đẻ nhiều, đẻ dày, không được đỡ đẻ an toàn, sau đẻ lao động nặng sớm.
- Triệu chứng cơ năng gồm khối sa vùng âm hộ, tức nặng bụng dưới, kèm theo có thể có rối loạn đại, tiểu tiện.
- Khám thực thể xác định kích thước, mức độ, nội dung khối sa; tình
trạng tầng sinh môn; đánh giá vùng tiểu khung có khối u, có dính hay
không?.
* Chẩn đoán phân biệt:
Chẩn đoán sa sinh dục thường dễ, dẫu sao chúng ta cũng nên chú ý tới hai bệnh dễ nhầm với sa sinh dục, đó là:
- Lộn tử cung.
- Cổ tử cung dài và phì đại đơn thuần.
[newpage]
5. TIẾN TRIỂN, BIẾN CHỨNG
5.1. Tiến triển
Nói chung, sa sinh dục tiến triển chậm. Theo thời gian, nếu không
được xử trí thì ngày càng sa nhiều hơn, mức độ sa nhanh hay chậm tuỳ
thuộc vào tuổi tác và mức độ lao động nặng hay nhẹ.
5.2. Biến chứng
Các biến chứng do sa sinh dục gây nên gồm:
- Viêm loét, chảy máu cổ tử cung kéo dài (do bị cọ sát), làm cho việc vệ sinh chăm sóc hàng ngày rất bất tiện.
- Thành âm đạo sa dễ bị viêm, khô, rát, có thể xuất huyết do bị cọ sát;
người bệnh đau đớn khó chịu, mất dần khả năng sinh hoạt tình dục.
- Tử cung – phần phụ dễ bị viêm ngược dòng do viêm cổ tử cung.
- Bàng quang và niệu đạo bị sa (theo thành trước âm đạo) gây rối loạn
tiểu tiện, bí đái, lâu ngày dẫn đến viêm bàng quang, sỏi bàng quang,
xuất huyết bàng quang, rò bàng quang - âm đạo, thận ứ niệu.
- Khi thành sau âm đạo sa nhiều sẽ kéo theo sa trực tràng gây rối loạn đại tiện (ỉa khó, mót rặn, són phân…).
6. ĐIỀU TRỊ SA SINH DỤC
6.1. Điều trị nội khoa
* Chỉ định:
- Với sa sinh dục độ I.
- Sa độ II, III nhưng bệnh nhân quá già, hoặc có bệnh toàn thân chống chỉ định phẫu thuật, hoặc bệnh nhân quá trẻ.
* Cách điều trị:
- Cho đeo dụng cụ đỡ tử cung bằng chất dẻo (pessarium).
- Dùng Estrogen tác dụng đơn thuần ở âm đạo.
- Thể dục liệu pháp.
- Ngâm tầng sinh môn và khối sa sinh dục hàng ngày trong các dung dịch
sát trùng, nước chè xanh, nước sắc lá trầu không có tác dụng làm săn se
niêm mạc âm đạo, chống viêm.
- Điều trị các biến chứng nếu có.
6.2. Điều trị ngoại khoa
Phẫu thuật là phương pháp chủ yếu trong điều trị sa sinh dục.
6.2.1. Chỉ định
Sa sinh dục độ II và độ III, nghĩa là những trường hợp sa sinh dục có triệu chứng cơ năng mới cần phẫu thuật.
6.2.2. Nguyên tắc
Các phẫu thuật sa sinh dục rất nhiều nhưng nguyên tắc chung để chọn lựa phẫu thuật như sau:
* Phẫu thuật sa sinh dục nên tiến hành theo đường âm đạo hơn là đường bụng.
* Các phẫu thuật nhằm phục hồi lại hệ thống đỡ tử cung (tức là làm lại
thành trước âm đạo, thành sau âm đạo, khâu chặt lại cơ nâng hậu môn,
khâu treo bàng quang) cho kết quả tốt hơn là phẫu thuật phục hồi lại
các dây chằng tử cung (như treo dây chằng tròn vào thành bụng, treo tử
cung vào ụ nhô).
* Trước phẫu thuật cần đánh giá đầy đủ các yếu tố sau:
- Tuổi, thể trạng và các bệnh lý toàn thân:
+ Bệnh nhân sa sinh dục thường cao tuổi nên thể trạng thường không tốt,
có thể quá béo, quá gầy; có thể có các bệnh toàn thân như thiếu máu,
bệnh tim mạch, hô hấp, huyết áp cao, tiểu đường…Đôi khi các yếu tố này
sẽ là yếu tố chống chỉ định mổ hoặc cần điều trị trước khi mổ.
+ Không nên mổ cho những bệnh nhân quá trẻ hoặc quá già, trừ khi sa quá nhiều và thể trạng cho phép.
- Mức độ sa sinh dục.
- Ảnh hưởng của sa sinh dục đến các cơ quan lân cận: tình trạng sa bàng quang, sa trực tràng; rối loạn tiểu tiện, đại tiện?.
- Tình trạng âm đạo, cổ tử cung bình thường hay viêm nhiễm. Nếu có viêm
cổ tử cung, âm đạo cần đặt thuốc và vệ sinh hàng ngày trước mổ.
- Tử cung, hai phần phụ có u cục không?.
- Bụng có vết mổ cũ không? tiên lượng mức độ dính vùng tiểu khung?.
- Bệnh nhân còn nhu cầu sinh đẻ không? còn quan hệ tình dục không?.
- Điều kiện trang bị của cơ sở y tế và trình độ phẫu thuật viên.
6.2.3. Một số phẫu thuật thông thường
* Các phẫu thuật bảo tồn âm đạo:
· Phẫu thuật Manchester:
- Chỉ định:
+ Phụ nữ trẻ, sa sinh dục độ II.
+ Người già, sa sinh dục độ II, không có điều kiện thực hiện PT Crossen hoặc cắt tử cung hoàn toàn đường bụng.
- Kỹ thuật:
+ Cắt cổ tử cung.
+ Sửa chữa thành trước âm đạo sa.
+ Khâu treo bàng quang và khâu ngắn dây chằng Mackenroth.
+ Sửa chữa thành sau âm đạo sa, khâu chặt lại cơ nâng hậu môn.
+ Tái tạo lại tầng sinh môn.
· Phẫu thuật Crossen:
- Chỉ định: phương pháp này chủ yếu dùng cho người cao tuổi, từ 40 tuổi trở lên và sa sinh dục độ III.
- Kỹ thuật:
+ Cắt tử cung đường âm đạo.
+ Sửa chữa thành trước âm đạo sa.
+ Khâu treo bàng quang.
+ Sửa chữa thành sau âm đạo sa, khâu chặt lại cơ nâng hậu môn.
+ Tái tạo lại tầng sinh môn.
· Phẫu thuật Ameline – Huguier:
Khâu treo tử cung vào mỏm nhô bằng một vạt da hay chất liệu tổng
hợp, chỉ định cho những bệnh nhân trẻ bị sa sinh dục độ II, độ III.· Phẫu thuật Shirodkar:
Làm ngắn dây chằng tử cung – cùng và đính nó vào eo trước tử cung, áp dụng cho người trẻ chưa sinh đẻ bị sa sinh dục độ II.
* Các phẫu thuật làm bít âm đạo:
- Chỉ định: sa sinh dục độ II hoặc độ III, bệnh nhân già trên 60
tuổi, không còn quan hệ tình dục nữa, cần được sự đồng ý của cả hai vợ
chồng.
- Một số phẫu thuật bít âm đạo:
+ Phương pháp Lefort: khâu kín âm đạo lại, là phương pháp đơn giản nhất.
+ Phương pháp Labharth: xén bớt thành âm đạo sa, khâu bít âm đạo, tái tạo tầng sinh môn.
+ Phương pháp Rouhier: cắt tử cung hoàn toàn rồi khâu kín âm đạo lại.
6.2.4. Theo dõi, chăm sóc sau mổ
Đây là việc làm khá quan trọng đối với sa sinh dục, giúp người bệnh nhanh hồi phục, tránh các biến chứng sau mổ.
- Theo dõi toàn trạng, các dấu hiệu sinh tồn, đặc biệt trong 24 giờ đầu sau phẫu thuật.
- Theo dõi tình trạng chảy máu qua âm đạo và chảy máu trong ổ bụng (nếu có cắt tử cung).
- Theo dõi, chăm sóc ống thông bàng quang tránh tắc ống và đề phòng nguy cơ viêm bàng quang ngược dòng.
- Chế độ dinh dưỡng: cho ăn lỏng sớm, vận động sớm sau mổ. Những ngày sau cần ăn đủ chất dinh dưỡng, chất dễ tiêu, uống đủ nước.
- Chế độ vệ sinh: lau âm đạo, tầng sinh môn hàng ngày bằng dung dịch betadin phụ khoa hoặc các dung dịch sát trùng.
7. DỰ PHÒNG SA SINH DỤC
- Không nên đẻ sớm quá, đẻ nhiều quá, đẻ dày quá. Phải đẻ ở nơi có điều kiện đỡ đẻ an toàn, đỡ đẻ đúng kỹ thuật.
- Không nên để chuyển dạ quá dài, không để rặn đẻ quá lâu.
- Các thủ thuật sản khoa phải làm đúng chỉ định, đúng kỹ thuật và đủ
điều kiện tránh gây sang chấn cho âm đạo và tầng sinh môn.
- Nếu rách tầng sinh môn, dù nhỏ cũng phải khâu lại.
- Sau đẻ không nên lao động quá sớm và quá nặng.
Cần phát hiện và điều trị sớm các bệnh mãn tính gây tăng áp lực ổ bụng
thường xuyên (táo bón trường diễn, ho kéo dài…) là nguyên nhân dẫn đến