Thứ Bảy, 21 tháng 4, 2012

Thời kỳ rụng trứng

Thời kỳ rụng trứng

Trong một chu kỳ kinh nguyệt, phụ nữ chỉ có 25 % cơ hội để mang thai. Nên để có khả năng đậu thai cao nhất, việc tính chu kì rụng trứng và giai đoạn “sung” nhất là rất quan trọng.

 Nguyên lý hoạt động

Chu kỳ kinh nguyệt được chia ra làm 3 giai đoạn (xem biểu đồ): giai đoạn hình thành nang mạc (diễn ra khoảng 14 ngày, trong đó 5-6 ngày kinh nguyệt);  giai đoạn rụng trứng (chỉ diễn ra trong khoảng 24h) và cuối cùng là giai đoạn hoàng thể (diễn ra trong khoảng 14 ngày). Kết thúc pha hoàng thể là bắt đầu cho một chu kì hình thành nang trứng mới. Trước khi phóng noãn, nội mạc tử cung, bao phủ bề mặt tử cung, được xây dựng theo kiểu đồng bộ hoá. Sau khi phóng noãn, nội mạc này thay đổi để chuẩn bị cho trứng thụ tinh làm tổ và hình thành thai kỳ. Nếu thụ tinh và thai kỳ không xảy ra, tử cung loại bỏ lớp nội mạc và chu kỳ kinh mới bắt đầu.
 
Số liệu trung bình. Thời gian và các số liệu khác có thể thay đỏi theo cá nhân và theo chu kỳ.


Quy trình này quay vòng trong khoảng 28 ngày. Nhưng ở một số phụ nữ, pha nang noãn diễn ra dài hơn và giai đoạn rụng trứng sẽ chậm lại so với chu kì. Nhưng dù thế nào, pha hoàng thể vẫn luôn diễn ra trong vòng 14 ngày. Với những thông tin này, chúng ta có thể tính được ngày rụng trứng để có cơ hội đậu thai cao nhất.
Như vậy, chúng ta có công thức sau để tính ngày rụng trứng :
Ví dụ :
 
Đối với chu kỳ  22 ngày, ngày rụng trứng có thể diễn ra vào ngày thứ 8: (22-14=8).
Đối với chu kì bình thường diễn ra 28 ngày, thì ngày rụng trứng sẽ là ngày thứ 14 (28-14=14).
Đối với chu kì dài là 32 ngày , ngày rụng trứng diễn ra vào ngày thứ 18 (32-14=18).

Thời kì sinh sản

Tinh trùng có thể sống 4 ngày trong cơ quan sinh dục của phụ nữ, trong khi đó, thời gian trứng chín diễn ra 1 ngày .Như vậy thời kì sinh sản diễn ra mạnh nhất  diễn ra trong vòng 4 ngày trước trước ngày phóng noãn và kết thúc sau đó 1 ngày.
Dấu hiệu tốt  
Có nhữngdấu hiệu chung báo hiệu trước thời kỳ rụng trứng mà bạn nên nắm bắt để chuẩn bị  cho việc đậu thai :

- Đau quặn vùng bụng dưới, là vùng ngay bên cạnh vùng ổ trứng bị rụng.
 
- Cổ tử cung mở rộng và tiết ra nhiều dịch để tạo không gian và môi trường tốt cho tinh trùng thâm nhập và tìm trứng.

- Thân nhiệt tăng lên (khoảng 0,3°C)

Siêu âm tính ngày rụng trứng cho chị em kinh nguyệt không đều

Tính ngày rụng trứng cho chị em có kinh nguyệt không đều
Làm thế nào để tính được ngày rụng trứng trong khi chu kỳ kinh nguyệt của bạn không đều? Bạn đã bao giờ nghe đến que thử rụng trứng chưa?
1. Lúc nào là thời kỳ dễ thụ thai?
Đáp án chính xác là lấy chu kỳ phổ biến 28 ngày để tính toán. Thời kỳ rụng trứng sẽ rơi vào ngày thứ 14 (đếm ngược) bắt đầu từ ngày đầu tiên của kỳ kinh tiếp theo.
Thời kỳ dễ thụ thai cũng có thể rơi vào khoảng thời gian từ 11 đến 16 ngày sau ngày thấy kinh đầu tiên. Ngày dễ thụ thai nhất là ngày thứ 13 đến 15 của chu kỳ.
Nếu chức năng sinh sản bình thường lại không áp dụng bất cứ biện pháp tránh thai nào thì khả năng thụ thai trong thời kỳ này là rất cao.
2. Ngày kinh đầu tiên chính xác là ngày nào?
Ngày đầu tiên của chu kỳ được tính là ngày đầu có hiện tượng ra máu. Nếu trước đó có thấy ra vài giọt máu thì có thể bỏ qua không cần tính. Nhiều người vẫn lầm tưởng ngày sạch kinh mới là ngày đầu của một chu kỳ mới, vì thế dẫn đến tính toán sai thời kỳ dễ thụ thai.
3. Nếu chu kỳ là 32 ngày thì tính thời kỳ dễ thụ thai như thế nào?
Nếu chu kỳ này là cố định thì thời kỳ dễ thụ thai cũng sẽ cố định tương ứng. Nếu chu kỳ của bạn dài hơn 28 ngày thì có thể áp dụng công thức suy đoán, tức cứ dài thêm một ngày thì ngày dễ thụ thai sẽ cộng thêm một và ngược lại nếu chu kỳ ngắn hơn 28 ngày thì ngày dễ thụ thai lại trừ đi một.
Ví dụ: Nếu chu kỳ dài 32 ngày thì thời kỳ dễ thụ thai sẽ ở vào khoảng ngày thứ 15 (11+4) đến ngày thứ 20 (16+4), ngày rụng trứng có thể rơi vào ngày thứ 18 (14+4) của chu kỳ.
4. Chu kỳ thường là 26-30 ngày, làm thế nào để tính thời kỳ dễ thụ thai?
Trong trường hợp này bạn phải tính toán 2 thời kỳ dễ thụ thai. Một là căn cứ vào chu kỳ ngắn nhất, hai là căn cứ vào chu kỳ dài nhất sau đó kết hợp 2 chu kỳ này lại với nhau.
Ví dụ với chu kỳ 26 ngày thì thời kỳ dễ thụ thai sẽ ở vào khoảng ngày thứ 9 đến ngày thứ 14 của chu kỳ.
Nếu chu kỳ 30 ngày thì thời kỳ dễ thụ thai ở vào khoảng ngày thứ 13 đến ngày thứ 18 của chu kỳ.
Tổng hợp lại, thời kỳ dễ thụ thai của bạn ở vào khoảng ngày thứ 9 đến ngày thứ 18 và ngày rụng trứng ở vào khoảng từ ngày thứ 12-16 của chu kỳ. 
351276964_aFamilythu
5. Nếu chu kỳ hoàn toàn không chuẩn thì có thể tính thế nào?
Nếu chu kỳ thường xuyên bị rối loạn không thể dự đoán được thì có thể bạn không rụng trứng. Trong trường hợp này bạn nên đến bệnh viện để kiểm tra nguyên nhân trứng không rụng trước đã.
6. Tần suất của việc sinh hoạt vợ chồng trong thời kỳ dễ thụ thai?
Tần suất lý tưởng là 2 ngày một lần hoặc 3 lần/tuần. Tuy nhiên cần chú ý, làm chuyện ấy mỗi ngày không thể làm tăng xác suất thụ thai ngược lại còn làm giảm lượng tinh dịch và khiến cơ thể mệt mỏi.
Thời kỳ dễ thụ thai với chu kỳ 28 ngày là trong khoảng ngày thứ 13 đến 15 của chu kỳ, vì thế trong giai đoạn này nên làm chuyện ấy 1-2 lần để nâng cao khả năng thụ thai.
7. Vì sao sử dụng phương pháp đo nhiệt độ tính ngày rụng trứng để tiến hành mà vẫn thất bại?
Nhiệt độ cơ thể là một công cụ hỗ trợ mang thai rất phổ biến tuy nhiên lại rất dễ khiến người ta ngộ nhận. Thường thì trong vòng 2 ngày sau khi rụng trứng thì nhiệt độ cơ thể có tăng lên đôi chút và có thể theo dõi được, thế nhưng ngày nhiệt độ cơ thể tăng cao đồng thời cũng là ngày kết thúc của thời kỳ dễ thụ thai. Nói cách khác, nhiệt độ cơ thể tăng cao có nghĩa thời kỳ dễ thụ thai của bạn đã hết.
8. Nguyên lý của que thử rụng trứng?
Nguyên lý của que thử rụng trứng là kiểm tra hàm lượng của kích thích tố LH. Thông thường hàm lượng LH trong cơ thể rất thấp nhưng nó đột ngột tăng cao trước khi rụng trứng, y học gọi đó là “giá trị đỉnh LH”. Que thử rụng trứng có tác dụng đo lại giá trị này, nếu nó xuất hiện tức là trứng sắp rụng trong khoảng 12-26 giờ nữa. Tuy nhiên nếu bạn cứ chờ đến khi giá trị đỉnh này xuất hiện thì có thể đã bị lỡ mất một nửa thời gian của thời kỳ dễ thụ thai. Lý do đơn giản là vì trước khi xuất hiện giá trị này thì đã là thời kỳ dễ thụ thai rồi.
9. Nếu không áp dụng tất cả các biện pháp trên thì làm thế nào để thụ thai?
Nếu bạn sinh hoạt vợ chồng với tần suất 2-3 ngày 1 lần trong thời gian không có kinh thì bạn đã có xác suất thụ thai rất cao rồi. Nếu bạn chỉ sinh hoạt vợ chồng 1 lần/tuần hoặc ít hơn thì rất có thể bạn đã bỏ qua thời kỳ dễ thụ thai.
10. Cần chú ý những gì để nâng cao cơ hội thụ thai?
Người chồng nên tránh cho cơ quan sinh dục ở trong tình trạng nhiệt độ cao; giảm bớt hoặc tránh hẳn việc mát xa, tắm bồn, xông hơi, hạn chế vận động mạnh và đi xe đạp.
Người vợ nên chú ý đến sự thay đổi sinh lý. Khi bước vào thời kỳ dễ thụ thai, lượng khí hư cũng tăng lên nhiều đồng thời có thêm ham muốn tình dục. Những dấu hiệu này không nên bỏ qua bởi vì không loại trừ khả năng thời kỳ dễ thụ thai lại xuất hiện đúng lúc không ngờ đến.
Người vợ phải đạt được cao trào khi làm chuyện ấy vì như thế sẽ khiến tử cung co thắt, tạo điều kiện đưa tinh trùng xâm nhập vào tử cung, nâng cao khả năng thụ thai. Vì thế nhiều khi có sinh hoạt vợ chồng nhưng không có cao trào thì tinh trùng cũng khó di chuyển vào trong.
Sau khi sinh hoạt nên nằm ngửa từ 10-15 phút đồng thời tránh tiếp xúc với các loại hoá chất. Nếu phát hiện có bệnh ở âm đạo thì phải đi khám ngay vì các căn bệnh về âm đạo cũng sẽ ảnh hưởng đến sự thụ thai.
Theo aFamily

Giai đoạn rụng trứng là gì?

Admin (18-7-2011)

Giai đoạn rụng trứng là gì?

Hỏi:Tôi năm nay 28 tuổi, đã lập gia đình cách đây một năm, hiện nay vẫn chưa có con. Hai tháng gần đây, tôi có đi siêu âm để xác định ngày trứng rụng nhưng tôi vẫn chưa hiểu rõ lắm về kỹ thuật này. Xin được hỏi: Nang noãn có đường kính khoảng bao nhiêu mm thì kết luận là đang ở giai đoạn trứng rụng? Giai đoạn trứng rụng nghĩa là gì? Là trứng đã rụng, hay chuẩn bị rụng? Trứng sẽ rụng trong khoảng từ ngày nào trong chu kỳ kinh? Siêu âm để xác định ngày rụng trứng ở đâu tốt nhất? (Thanh Thao - Q.10, TP.HCM)



   Admin (18-7-2011)

Đáp:Tuyến sinh dục nữ gồm có 2 buồng trứng ở 2 bên,kích thước trung bình 2,5x 3,4 cm. Trong tuổi hoạt động sinh dục tức là từ tuổi dậy thì đến khi mãn kinh, hàng tháng có một nang noãn chín. Thông thường khi nang noãn này lớn từ 16-26mm thì sẽ phóng ra một noãn còn gọi là hiện tượng rụng trứng. Noãn là một tế bào to nhất trong cơ thể, bao gồm nguyên sinh chất, nhân, màng ngoài, khi đã chín noãn có kích thước nhỏ hơn hạt kê, hình cầu, màu vàng nhạt. Lúc này nang noãn (nang Graaf) căng phồng, vỡ ra và phóng noãn vào một vòi loa đã đón sẵn. Khái niêm rụng trứng thường để chỉ giai đoạn phóng noãn. Ở giai đoạn này cơ thể và cơ quan sinh dục có nhiều thay đổi như thân nhiệt tăng, muốn được gần gũi với chồng hơn đồng thời dịch tiết ra ở âm đạo nhiều hơn, nhu cầu tình dục cao hơn và trứng đã sẵn sàng tiếp nhận tinh trùng để thụ thai.

Chu kì kinh nguyệt nếu đều thì thông thường hiện tượng rụng rụng trứng sẽ diễn ra vào ngày thứ 14 đối với chu kì kinh 28 ngày và ngày thứ 15 đối với chu kì kinh 30 ngày. Tuy nhiên trứng có thể rụng bất kì ngày nào trong chu kì kinh nguyệt do hưng phấn đột xuất quá mức khích thích gây ra hiện tượng rụng trứng bất thường.

Bạn có thể đi siêu âm để canh noãn với mục đích làm tăng hiệu suất có thai khi giao hợp. Xung quanh ngày rụng trứng thì tinh trùng và trứng dễ gặp nhau hơn với điều kiện chất lượng của trứng và tinh trùng đảm bảo, cũng như sự toàn vẹn của cơ quan sinh sản như không bị viêm nhiễm gây tắc vòi trứng, nội mạc tử cung đủ dày để trứng làm tổ, v.v.... Xét nghiệm này có thể làm ở bất cứ BV phụ sản nào ở TP.HCM khi có chỉ định của BS chuyên khoa.

Cơ quan sinh dục nữ

âu hỏi: Cơ quan sinh dục nữ bao gồm những gì?
Trả lời:Cơ quan sinh dục nữ đóng vai trò quan trọng trong sinh sản, nó bao gồm bộ phận sinh dục ngoài là âm hộ, bộ phận sinh dục trong gồm: âm đạo, tử cung, vòi trứng, buồng trứng.
Cơ quan sinh dục nữ
Âm hộ: bao gồm một vài cấu trúc bao quanh đường vào âm đạo:
Môi lớn: có 2 nếp da lớn bao quanh lỗ âm đạo. Gồm có mô mỡ, lông, tuyến mồ hôi, hình thành một ụ mỡ phía trước gọi là gò vệ nữ, nằm phía trên xương mu. Phía sau hai môi lớn hoà vào nhau, cùng với một số cơ tạo thành sàn của tầng sinh môn nối giữa âm đạo và lỗ hậu môn.
Môi bé: là hai nếp gấp da mảnh nằm giữa môi lớn và thành bên của đường vào âm đạo, chứa một ít tổ chức liên kết và rất nhiều mạch máu.
Âm vật: tương đương với dương vật, có chiều dài trung bình 2,5cm, là tổ chức cương, to lên khi người phụ nữ bị kích thích tình dục.
Màng trinh: là một màng mỏng bao quanh lỗ âm đạo. Ngay cả đối với thiếu nữ, màng trinh không phải kín hoàn toàn, để cho kinh nguyệt chảy qua. Màng trinh bị rách trong lần giao hợp đầu tiên, nhưng một vài di tích của nó còn được giữ lại, ngay cả sau những lần giao hợp tiếp theo.
Tuyến Bartholin: Nằm hai bên đường vào âm đạo, tuyến này tiết ra chất nhầy để bôi trơn trong quá trình giao hợp.
Bộ phận sinh dục trong: Bao gồm âm đạo, tử cung, vòi trứng và buồng trứng.
Âm đạo: là đường dẫn từ âm hộ tới tử cung dài 10cm và có thể giãn khi giao hợp hoặc sinh đẻ. Thành âm đạo nối liền với da, và có rất nhiều nếp gấp.
Tử cung: có hình dáng như quả lê, dài 7,5cm, rộng 5cm và chia làm 3 phần: đáy tử cung, thân tử cung, cổ tử cung. Trong lòng tử cung có lớp nội mạc bao phủ, thay đổi theo chu kỳ kinh nguyệt.
Vòi trứng: hình ống chạy từ thân tử cung về phía buồng trứng dài 11cm và ở phía ngoài cùng của nó nằm phía trên buồng trứng có những tua loa vòi giống như những ngón tay. Vòi trứng nối liền buồng trứng với buồng tử cung, khi buồng trứng phóng noãn, thì tua loa vòi bắt lấy noãn và chuyển qua vòi trứng vào buồng tử cung.
Sự thụ thai và quá trình phát triển ban đầu của trứng xảy ra ở vòi trứng. Trứng sẽ chuyển từ vòi trứng vào trong buồng tử cung sau phóng noãn khoảng 60 – 70 giờ. Ngược lại với sự di chuyển của noãn là sự di chuyển của tinh trùng, sự di chuyển này phụ thuộc vào tính chất tế bào của vòi trứng cũng như sự co bóp cơ của vòi trứng.
Buồng trứng: Có hình quả hạnh nhân, màu trắng ngà, nằm ở hai bên thành chậu hông. Mỗi buồng trứng có kích thước 4x3x1cm, lớp ngoài gọi là lớp vỏ, có chứa nang noãn, có chất đệm bao quanh, giữa là tuỷ của buồng trứng, cuống phía trong của buồng trứng có những mạch máu vào thần kinh đi vào.
Buồng trứng của người phụ nữ tương đương với tinh hoàn của nam giới, bên cạnh việc chứa nang noãn nó còn sản sinh ra một số hormon, chủ yếu là estrogen, progesteron.

Cựu nhân viên hộ lý bán trẻ sơ sinh

Cựu nhân viên hộ lý bán trẻ sơ sinh
TPO - Từng là hộ lý Chi biết cung - cầu về trẻ sơ sinh cao nên thị đã dùng lời đường mật dụ dỗ sản phụ có "thai ngoài ý muốn" cho con và đem bán lại cho những cặp vợ chồng hiếm muội...
Ảnh chỉ mang tính minh họa
Ảnh chỉ mang tính minh họa.
Sáng nay, TAND TP Hà Nội mở phiên xét xử hình sự sơ thẩm đối với Nguyễn Thị Kim Chi (SN 1953, trú ở phường Ngô Thì Nhậm, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội) cùng đồng phạm về hành vi mua bán trẻ em, quy định tại Điều 120 BLHS.
Theo cáo buộc, Chi từng là nhân viên hộ lý – Bệnh viện Phụ sản trung ương. Trong thời gian làm việc tại đây, Chi biết nhiều trường hợp sản phụ sinh con ngoài ý muốn, không có nhu cầu nuôi con. Lại biết nhiều gia đình hiếm muộn, muốn có con nuôi, Chi nảy sinh ý định thiết lập đường dây mua bán trẻ em.
Để đạt được mục đích này, “mẹ mìn” Nguyễn Thị Kim Chi bàn bạc với chồng – Đặng Quang Hy (SN 1944). Theo đó, Hy thường xuyên lui tới các bệnh viện lớn trên địa bàn Hà Nội, như Bệnh viện Phụ sản trung ương, Bệnh viện Giao thông vận tải...lân la, làm quen với các nhân viên bệnh viện, các lái xe ôm để họ giới thiệu “hàng” là những trẻ sơ sinh cho các cặp hiếm muộn.
Trong khoảng thời gian từ tháng 1-2009 đến tháng 11-2010, “cặp đôi hoàn hảo” Chi- Hy đã thực hiện trót lọt bốn phi vụ mua bán, chiếm đoạt trẻ sơ sinh, thu lời hàng chục triệu đồng.
Đơn cử trường hợp ngày 15-1-2009, Chi xin sản phụ Trần Thị Thảo (không xác định được địa chỉ cụ thể) cháu trai 2,7kg tại Bệnh viện Phụ sản trung ương, sau đó, Chi đem về nuôi dưỡng ít hôm và bán cho vợ chồng anh Phạm Văn Hoà (chưa xác định địa chỉ cụ thể) với giá 35 triệu đồng.
Với hành vi này, Chi cùng đồng phạm bị truy tố, xét xử theo khoản 2, Điều 120 BLHS với khung hình phạt cao nhất đến chung thân.
Tại phiên toà sáng nay, sau nhiều giờ chờ đợi, cuối cùng, phiên xử phải hoãn lại do bị cáo Chi không đảm bảo sức khoẻ. Được biết, sau khi bị cơ quan điều tra phát hiện, bắt giữ, Chi từng bị tai biến mạch máu não, sức khoẻ bị ảnh hưởng nghiêm trọng.

Hàng trăm phụ nữ phá thai nhầm vì… sợ rubella

Hàng trăm phụ nữ phá thai nhầm vì… sợ rubella

Thứ tư 10/08/2011 22:57
ANTĐ - Đó là một sự thật rùng mình được đưa ra trong kết quả nghiên cứu bước đầu về chọc dịch ối chẩn đoán thai nhi nhiễm virus rubella bằng kỹ thuật PCR Real-time, do PGS.TS Lê Anh Tuấn, Phó Giám đốc BV Phụ sản Trung ương và cộng sự tiến hành.
Chỉ 16,5% ca phá thai dương tính



Dịch rubella bùng phát mạnh ở trẻ và phụ nữ mang thai đầu năm nay

Chưa bao giờ dịch rubella lại xảy ra mạnh và có nhiều phụ nữ mang thai mắc bệnh như thời điểm những tháng đầu năm nay. Thống kê từ Trung tâm Chẩn đoán trước sinh - BV Phụ sản Trung ương cho biết, chỉ riêng trung tâm này từ đầu năm đến nay đã tiếp nhận 2.045 thai phụ đến hội chẩn rubella. Tuy nhiên do phần lớn thai phụ đến muộn, không rõ phát ban nên không xác định được thời điểm mắc rubella và nguy cơ ảnh hưởng đối với thai. Cũng do thời điểm này dịch lan rộng nên rất nhiều phụ nữ hoảng sợ. Thậm chí, số ca không có dấu hiệu phát ban nhưng tự ý đi xét nghiệm IgG (+) rất cao, cũng có rất nhiều phụ nữ đổ xô đi tiêm phòng rubella mà không biết đã có thai (trong khi việc tiêm phòng vaccine rubella thường phải được chỉ định trước khi mang thai 3 tháng).

PGS.TS Lê Anh Tuấn cho biết, một lượng rất đông thai phụ xin phá thai ngay khi còn chưa có phương pháp chẩn đoán xác định thai nhiễm virus rubella. Trong số hơn 2.000 trường hợp thai phụ đến khám, hội chẩn rubella tại BV thì có đến hơn một nửa trường hợp chấp nhận phá thai vì lo sợ nguy cơ con sinh ra bị hội chứng rubella bẩm sinh. Kết quả là trong số 103 ca phá thai vì nghi rubella (có những trường hợp do bác sĩ chỉ định, có trường hợp do gia đình đề nghị), dựa vào tần suất mắc và thai phụ làm đơn xin phá, BV lấy máu cuống rốn xét nghiệm thì chỉ 17 ca có kết quả dương tính với virus rubella, chiếm tỷ lệ 16,5%. Điều đó cũng có nghĩa, 83,5% thai phụ vội vàng làm đơn xin phá thai vì nghi rubella, sợ con sinh ra mắc hội chứng rubella là… phá nhầm và tương ứng là ngần ấy đứa trẻ đã bị bỏ đi một cách oan uổng.

Theo cách lý giải của các bác sĩ BV Phụ sản Trung ương thì 83,5% số ca có IgG (+) và IgM (-) (không dương tính với virus rubella), tuy nhiên không hẳn IgM (-) là không bị rubella. Tại BV Phụ sản Trung ương thời gian này có 28 trẻ sinh ra bị hội chứng rubella bẩm sinh, 4 trường hợp tử vong... Những trường hợp này là do mẹ không phát hiện nhiễm rubella khi có thai. Và trong 28 trẻ sinh ra mắc hội chứng này, thì xét nghiệm chỉ có 23/28 trẻ có cả 2 chỉ số IgG và IgM dương tính, 5 trẻ còn lại rõ ràng mắc hội chứng này nhưng xét nghiệm chỉ có IgG (+), còn IgM (-). Việc đưa ra quyết định đình chỉ thai hay tư vấn đình chỉ thai đối với mỗi bác sĩ là cực kỳ khó khăn.

Lỗi do đâu?

TS. Lê Anh Tuấn nhấn mạnh, thông thường nếu thai phụ mắc bệnh khi mang thai dưới 12 tuần, cả hai chỉ số IgG và IgM trong xét nghiệm sinh hóa miễn dịch đều dương tính, có biểu hiện lâm sàng (sốt, phát ban), có nguồn lây (nghĩa là chắc chắn mắc rubella) thì được chỉ định bỏ thai. Những trường hợp còn lại sẽ được tư vấn kỹ càng, còn quyết định giữ hay bỏ là tùy thuộc lựa chọn của các thai phụ. Thậm chí có trường hợp nghi mắc rubella, bác sĩ tư vấn chờ thêm nhưng bệnh nhân vẫn xin được phá thai… Chính điều đó đã đẩy tỷ lệ phá thai lên cao.

Dù vậy, không thể phủ nhận rằng nguyên nhân chính dẫn đến việc các thai phụ đưa ra quyết định xin phá thai là dựa vào lời tư vấn của các bác sĩ. Ông Tuấn cho rằng, bệnh rubella (sởi Đức) năm nay bùng lên thành dịch lớn, trong đó tỷ lệ thai phụ nhiễm rubella cũng tăng đột biến so với các năm trước. “Cũng vì thế, trong số bác sĩ, nhiều người không hiểu rõ nên việc tư vấn không nhất quán. Nhiều người chỉ biết đến bệnh trên sách vở chứ chưa gặp trực tiếp”, TS. Tuấn cho biết. Cũng theo ông Tuấn, thông thường việc tư vấn rubella được các bác sĩ dựa vào 4 yếu tố: nguồn lây, biểu hiện lâm sàng, xét nghiệm sinh hóa miễn dịch và tần suất mắc ở từng tuổi thai đã được công bố trên thế giới. Tuy nhiên, việc tư vấn chỉ dựa vào 4 yếu tố như vậy vẫn có thể có những trường hợp thai phụ nghi mắc rubella nhưng trẻ sinh ra không bị nhiễm.

Trước khó khăn đó, BV Phụ sản Trung ương đã đưa vào thử nghiệm phương pháp mới chẩn đoán thai nhi nhiễm virus rubella bằng kỹ thuật PCR real-time (chọc ối lấy mẫu xét nghiệm). Phương pháp này khẳng định đúng đến 95% thai nhi có bị nhiễm rubella hay không. Sau hơn 2 tháng thử nghiệm, BV đã tiến hành chọc ối được hơn 40 ca.

Tinh trùng cũng biết tính toán

inh trùng cũng biết tính toán
Một nghiên cứu gần đây đã chỉ ra tinh trùng cũng có “trí tuệ” nào đó và chúng còn biết đếm nữa.
Những quan sát tỉ mỉ (kèm theo là quay phim để xem đi xe lại nhiều lần) đã cho thấy chuyển động của tinh trùng được kiểm soát bởi nồng độ của canxi trong môi trường xung quanh. Lúc đầu các nhà khoa học nghĩ rằng chính nồng độ canxi là yếu tố quyết định, nhưng thực ra, không đơn giản như thế.
Tốc độ và phương hướng của tinh trùng sẽ thay đổi theo nồng độ canxi của môi trường
Tinh trùng thay đổi phương hướng và tốc độ chuyển động của chúng một cách liên tục, phụ thuộc vào nồng độ canxi thay đổi nhanh chậm ra sao. Như vậy, chúng biết “tính toán” tốc độ thay đổi của môi trường để điều chỉnh theo và đổi hướng chuyển động, tờ Zdravoe cho hay.
Nồng độ canxi trong môi trường xảy ra cuộc gặp gỡ giữa tinh trùng và tế bào trứng không đồng đều mà khác nhau ở từng địa điểm. Ở xung quanh tế bào trứng nồng độ này cao hơn hẳn. Để phát hiện ra điều đó, tinh trùng  phải biết nhận ra bất cứ sự thay đổi nào của môi trường, nghĩa là chùng phải biết tính toán.
Song cho tới nay, các nhà khoa học mới chỉ biết đến thế. Họ chưa trả lời được câu hỏi làm thế nào để tinh trùng thực hiện được công việc không hề dễ dàng này.

Một trường hợp hiếm gặp ở khoa chẩn đoán hình ảnh - Bệnh viện Phụ nữ TP. Đà Nẵng

Một trường hợp hiếm gặp ở khoa chẩn đoán hình ảnh - Bệnh viện Phụ nữ TP. Đà Nẵng

Hình - T1W, sagittal
     Ngày 9/8/2010, bệnh nhân tên Huỳnh Thị Đ… 44 tuổi được chuyển đến chụp MRI tại khoa Chẩn đoán hình ảnh (CĐHA) Bệnh viện Phụ nữ thành phố Đà Nẵng với chẩn đoán theo dõi U tủy ngực.
   Bệnh nhân đến khoa trong tình trạng tỉnh táo, yếu tứ chi, teo hai chi dưới nhẹ và rối loạn đại tiểu tiện. Bệnh nhân đã được khám, điều trị  và được cho làm các xét nghiệm chẩn đoán hình ảnh trước đó kể cả chụp Cộng hưởng từ nhiều lần nhưng vẫn không phát hiện và chẩn đoán được bệnh.

  Bệnh nhân có tiền sử phẫu thuật cột sống cổ tại Bệnh viện Chợ Rẫy cách đây 3 năm song không nhớ rõ chi tiết.

  Sau khi thực hiện các kỹ thuật chụp cột sống ngực bằng máy Magnetom Avanto 1.5 Tesla của Siemens (hiện đại nhất tại khu vực miền trung), kể cả tiêm thuốc tương phản từ vào tĩnh mạch, các bác sĩ tại khoa đã phát hiện được bệnh lý của bệnh nhân và giải thích được tình trạng bệnh hiện thời.




Hình - T2W, sagittal

 Hình ảnh ghi được là một dãi tổn thương ngoài màng cứng ống sống từ C1-D9, gây hẹp và phù tủy sống, nặng nhất ở đoạn cổ. Đường kính trước sau ống sống hẹp nhất đo được chỉ 2mm.

Hình - T2W, axial

  Tổn thương có tín hiệu rất thấp (đen) trên T1W, T2W, HEMO và sau khi tiêm thuốc tuơng phản từ thì không bắt thuốc (hình ảnh minh họa).

Hình - T1 CONTRAST (sau tiem thuoc)

  Sau khi hội ý các bác sĩ trong khoa đã thống nhất chẩn đoán hình ảnh điển hình của bệnh lý :
       + Tụ máu cũ ngoài màng cứng ống sống từ đọan cổ C1 đến đoạn ngực D9 gây hẹp ống sống, chèn ép tủy  nặng và phù tủy, nặng nhất ở đoạn cổ.
 Bệnh nhân ra khỏi phòng chụp MRI trong tình trạng an toàn. Các bác sĩ, kỹ thuật viên cảm thấy thật là vui và hạnh phúc khi đã chẩn đoán được một trường hợp bệnh lý khó và rất hiếm gặp. Bệnh nhân đã được đưa về Bệnh viện Đà Nẵng để được điều trị tiếp theo đúng chuyên khoa.
Bác sỹ Phướ

hính sách và biện pháp để ngăn ngừa lây truyền vi rút viêm gan B

hính sách và biện pháp để ngăn ngừa lây truyền vi rút viêm gan B

     Khuyến cáo từ Trung tâm Kiểm soát và phòng chống dịch bệnh Hoa Kỳ
*Ngay thời điểm tiếp nhận bệnh nhân đến sinh:

• Xem xét tình trạng nhiễm vi rút viêm gan B (xét nghiệm HBsAg) của tất cả phụ nữ mang thai.

• Ghi nhận kết quả xét nghiệm HBsAg của người mẹ vào Hồ sơ bệnh án và vào bệnh án sơ sinh.

• Tiến hành xét nghiệm HBsAg càng sớm càng tốt khi người phụ nữ:

 - Không có kết quả/ không làm xét nghiệm HBsAg trước đó
 - Có nguy cơ nhiễm vi rút viêm gan B (HBV) trong thai kỳ (ví dụ: có hơn 1 bạn tình trong vòng 6 tháng trước đó; chẩn đoán và điều trị bệnh lây truyền qua đường tình dục; đang được dùng thuốc tiêm; hoặc bạn tình có HBsAg dương tính (HBsAg +); hoặc
 - Có bệnh viêm gan trên lâm sàng kể từ lần xét nghiệm trước.
*Sau khi sinh:
Đối với người mẹ có HBsAg dương tính và con của họ

• Tiêm vắc xin viêm gan B và tiêm Globulin miễn dịch viêm gan B (HBIG) cho tất cả những trẻ sinh ra từ người mẹ có HBsAg dương tính trong vòng 12 giờ sau khi sinh, ghi lại ngày & thời gian tiêm HBIG và vắc xin viêm gan B vào bệnh án sơ sinh/ Sổ tiêm chủng.

• Cung cấp thông tin về viêm gan B cho các bà mẹ có HBsAg dương tính, bao gồm:
 - Khuyến cáo rằng họ có thể cho con bú mẹ sau khi sinh;
 - Các con đường lây nhiễm HBV;
 - Cần tiêm phòng vắc xin cho người nhà, bạn tình và những người sử dụng chung kim tiêm với họ;
 - Cần điều trị tình trạng nghiện thuốc nếu thích hợp;
 - Cần xử trí y tế và có thể phải điều trị tình trạng viênm gan B mạn tính.

Đối với người mẹ chưa biết rõ tình trạng HBsAg và con của họ

• Tiêm vắc xin viêm gan B (không tiêm HBIG) cho tất cả những trẻ sơ sinh của người mẹ chưa biết rõ tình trạng HBsAg trong vòng 12 giờ sau khi sinh, ghi lại ngày & thời gian tiêm vắc xin viêm gan B vào bệnh án sơ sinh /Sổ tiêm chủng.

• Cảnh báo cho nhân viên y tế chăm sóc trẻ sơ sinh nếu bé sơ sinh ra viện trước khi người mẹ có kết quả xét nghiệm HBsAg; nếu người mẹ được xác định có HBsAg dương tính, thì nên tiêm HBIG cho trẻ càng sớm càng tốt nhưng không chậm hơn 7 ngày tuổi.
Đối với tất cả các bà mẹ và trẻ sơ sinh

• Tiêm 1 liều vắc viêm gan B cho tất cả trẻ sơ sinh có trọng lượng
> 2.000gr.

• Phải đảm bảo rằng tất cả các bà mẹ đều được làm xét nghiệm HBsAg trước khi sinh hoặc khi đến sinh tại cơ sở y tế, và có ghi nhận kết quả xét nghiệm.
*Khi trẻ sơ sinh ra viện

Cung cấp sổ tiêm chủng của trẻ sơ sinh cho người mẹ và nhắc nhở họ mang theo ngay khi đưa con đi khám bệnh lần đầu tiên
Người dịch: Kim Thạch
Nguồn: CDC. A comprehensive immunization strategy to eliminate transmission of hepatitis B virus infection in the United States: recommendations of the Advisory Committee on Immunizatio

Quy trình khám điều trị hiếm muộn – vô sinh tại Phòng khám đa khoa Hữu Nghị Việt Pháp

Quy trình khám điều trị hiếm muộn – vô sinh tại

     Sau hơn 1 năm đi vào hoạt động (từ ngày 19/05/2010 đến nay) Khoa Hiếm muộn và Hỗ trợ sinh sản của Phòng Khám Đa khoa Hữu Nghị Việt Pháp đã mang lại niềm vui cho hơn 100 cặp vợ chồng đến khám và điều trị tại khoa. Theo định nghĩa các cặp vợ chồng trong tuổi sinh sản sau một năm chung sống và không áp dụng các biện pháp tránh thai mà vẫn không có con được gọi là Vô sinh (nếu người vợ >35 tuổi thời gian chỉ còn 6 tháng).

   Bệnh nhân có thể tham khảo qui trình khám và điều trị tại khoa để thuận tiện hơn trong quá trình điều trị.

   Khi tới Phòng Khám đa khoa hữu nghị việt Pháp 112, Phố mai dịch, Cầu Giấy (tầng 2, phòng 204), bệnh nhân sẽ được nhân viên hỏi về tình trạng bệnh (khai hồ sơ), khám phụ khoa tổng quát, siêu âm. Dựa trên kết quả thăm khám, bệnh nhân sẽ được cho làm một số xét nghiệm sơ khởi, bao gồm:

   + Chồng:
- Xét nghiệm máu (HIV, VDRL, HBsAg)
- Xét nghiệm tinh dịch đồ

   + Vợ:
- Xét nghiệm máu (HIV, VDRL, HbsAg)
- Xét nghiệm nội tiết vào ngày thứ 2 của vòng kinh (kiểm tra chức năng hoạt động của buồng trứng)
- Chụp HSG sau khi sạch kinh 2-3 ngày, không quan hệ (khi có nghi ngờ tổn thương tử cung - vòi trứng)

   Sau khi hoàn tất các xét nghiệm cơ bản tìm nguyên nhân, bệnh nhân sẽ được Bác sĩ trả lời kết quả xét nghiệm và tư vấn phương pháp điều trị phù hợp.

   Điều trị hiếm muộn rất đặc thù không như điều trị một bệnh thông thường, đòi hỏi bệnh nhân phải kiên trì (đến khám rất nhiều lần) và có niềm tin trong cả quá trình điều trị. Tiến trình điều trị vô sinh liên quan mật thiết với chu kỳ kinh của người phụ nữ, do vậy đơn vị thời gian trong điều trị không tính bằng ngày mà bằng tháng, và bệnh nhân phải tái khám đúng theo ngày hẹn để đảm bảo chất lượng điều trị.