Thứ Sáu, 4 tháng 5, 2012

Đái tháo đường

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bước tới: menu, tìm kiếm
Tiểu đường
Classification and external resources

Vòng tròn màu xanh biểu tượng cho bệnh tiểu đường.[1]
ICD-10 E10.E14.
ICD-9 250
MedlinePlus 001214
eMedicine med/546 emerg/134
MeSH C18.452.394.750
Đái tháo đường, còn gọi là Bệnh tiểu đường hay Bệnh dư đường, là một nhóm bệnh rối loạn chuyển hóa cacbohydrat khi hoóc môn insulin của tụy bị thiếu hay giảm tác động trong cơ thể, biểu hiện bằng mức đường trong máu luôn cao; trong giai đoạn mới phát thường làm bệnh nhân đi tiểu nhiều, tiểu ban đêm và do đó làm khát nước. Bệnh tiểu đường là một trong những nguyên nhân chính của nhiều bệnh hiểm nghèo, điển hình là bệnh tim mạch vành, tai biến mạch máu não, mù mắt, suy thận, liệt dương, hoại thư, v.v.

Mục lục

 [ẩn

[sửa] Dịch tễ học

Anh khoảng 1,6 triệu người bị ĐTĐ[2]. Tại Hoa Kỳ, số người bị ĐTĐ tăng từ 5,3% năm 1997 lên 6,5% năm 2003 và tiếp tục tăng rất nhanh. Người tuổi trên 65 bị ĐTĐ gấp hai lần người tuổi 45–54[3].
Tại Việt Nam, trong 4 thành phố lớn Hà Nội, Huế, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, tỷ lệ bệnh tiểu đường là 4%, riêng quận Hoàn Kiếm (Hà Nội) lên tới 7%. Phần lớn người bệnh phát hiện và điều trị muộn, hệ thống dự phòng, phát hiện bệnh sớm nhưng chưa hoàn thiện. Vì vậy, mỗi năm có trên 70% bệnh nhân không được phát hiện và điều trị. Tỷ lệ mang bệnh tiểu đường ở lứa tuổi 30-64 là 2,7%, vùng đồng bằng, ven biển. Hiện trên thế giới ước lượng có hơn 190 triệu người mắc bệnh tiểu đường và số này tiếp tục tăng lên. Ước tính đến năm 2010, trên thế giới có 221 triệu người mắc bệnh tiểu đường. Năm 2025 sẽ lên tới 330 triệu người (gần 6% dân số toàn cầu). Tỷ lệ bệnh tăng lên ở các nước phát triển là 42%, nhưng ở các nước đang phát triển (như Việt Nam) sẽ là 170%[4].

[sửa] Phân loại

Bệnh tiểu đường có hai thể bệnh chính: Bệnh tiểu đường loại 1 do tụy tạng không tiết insulin, và loại 2 do tiết giảm insulin và đề kháng insulin.

[sửa] Loại 1 (Typ 1)

Khoảng 5-10% tổng số bệnh nhân Bệnh tiểu đường thuộc loại 1, phần lớn xảy ra ở trẻ em và người trẻ tuổi (<20T). Các triệu chứng thường khởi phát đột ngột và tiến triển nhanh nếu không điều trị. Giai đoạn toàn phát có tình trạng thiếu insulin tuyệt đối gây tăng đường huyết và nhiễm Ceton.
Những triệu chứng điển hình của Bệnh tiểu đường loại 1 là : ăn nhiều, uống nhiều, tiểu nhiều, gầy nhiều (4 nhiều ), mờ mắt, dị cảm và sụt cân, trẻ em chậm phát triển và dễ bị nhiễm trùng.

[sửa] Loại 2 (Typ 2)

Bệnh tiểu đường loại 2 chiếm khoảng 90-95% trong tổng số bệnh nhân bệnh tiểu đường, thường gặp ở lứa tuổi trên 40, nhưng gần đây xuất hiện ngày càng nhiều ở lứa tuổi 30, thậm chí cả lứa tuổi thanh thiếu niên. Bệnh nhân thường ít có triệu chứng và thường chỉ được phát hiện bởi các triệu chứng của biến chứng, hoặc chỉ được phát hiện tình cờ khi đi xét nghiệm máu trước khi mổ hoặc khi có biến chứng như nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não; khi bị nhiễm trùng da kéo dài; bệnh nhân nữ hay bị ngứa vùng do nhiễm nấm âm hộ; bệnh nhân nam bị liệt dương.

[sửa] Bệnh tiểu đường do thai nghén

Tỷ lệ bệnh tiểu đường trong thai kỳ chiếm 3-5% số thai nghén; phát hiện lần đầu tiên trong thai kỳ.

[sửa] Triệu chứng

Các triệu chứng thường thấy là tiểu nhiều, ăn nhiều, uống nhiều, sụt cân nhanh là các triệu chứng thấy ở cả hai loại.
Lượng nước tiểu thường từ 3-4 lít hoặc hơn trong 24 giờ, nước trong, khi khô thường để lại vết bẩn hoặc mảng trắng.
Tiểu dầm ban đêm do đa niệu có thể là dấu hiệu khởi phát của đái tháo đường ở trẻ nhỏ.
Với bệnh nhân đái tháo đường loại 2 thường không có bất kỳ triệu chứng nào ở giai đoạn đầu và vì vậy bệnh thường chẩn đoán muộn khoảng 7-10 năm (chỉ có cách kiểm tra đường máu cho phép chẩn đoán được ở giai đoạn này).

[sửa] Chẩn đoán

Chẩn đoán ĐTĐ bằng định lượng đường máu huyết tương:
ĐTĐ: đường máu lúc đói ≥ 126 mg/dl (≥ 7 mmol/l) thử ít nhất 2 lần liên tiếp.
Đường máu sau ăn hoặc bất kỳ ≥ 200 mg/dl (≥ 11,1 mmol/l).
Người có mức đường máu lúc đói từ 5,6-6,9 mmol/l được gọi là những người có "rối loạn dung nạp đường khi đói". Những người này tuy chưa được xếp vào nhóm bệnh nhân ĐTĐ, nhưng cũng không được coi là "bình thường" vì theo thời gian, rất nhiều người người "rối loạn dung nạp đường khi đói" sẽ tiến triển thành ĐTĐ thực sự nếu không có lối sống tốt. Mặt khác, người ta cũng ghi nhận rằng những người có "rối loạn dung nạp đường khi đói" bị gia tăng khả năng mắc các bệnh về tim mạch, đột quị hơn những người có mức đường máu < 5,5 mmol/l.
Đôi khi các bác sỹ muốn chẩn đoán sớm bệnh ĐTĐ hơn nữa bằng cách cho uống đường glucose làm bộc lộ những trường hợp ĐTĐ nhẹ mà thử máu theo cách thông thường không đủ tin cậy để chẩn đoán. Cách đó gọi là "test dung nạp glucose bằng đường uống".
Test này được thực hiện như sau:
Điều kiện: ăn 3 ngày liền đủ lượng carbonhydrat (> 200g/ngày), không dùng thuốc làm tăng đường máu, đường máu lúc đói bình thường, không bị stress.
Thực hiện: nhịn đói 12 giờ, uống 75 gam đường glucose trong 250ml nước (không nóng - không lạnh). Định lượng đường máu sau 2 giờ.
Đọc kết quả: ‘Test dung nạp glucose đường uống’:
Nếu đường máu 2 giờ sau uống đường glucose ≥11,1 mmol/l: chẩn đoán ĐTĐ; nếu đường máu 2 giờ sau uống đường glucose ≥7,8 mmol/l nhưng < 11,1 mmol/l: những người này được xếp loại giảm dung nạp đường glucose. Người mắc giảm dung nạp đường glucose không những có nguy cơ cao tiến triển thành ĐTĐ sau này, mà còn tăng nguy cơ mắc các bệnh tim-mạch như tăng huyết áp, nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não.
Định lượng đường niệu: chỉ có giá trị rất hãn hữu trong việc theo dõi đối với bản thân bệnh nhân ngoại trú. Không dùng để chẩn đoán bệnh.
Các xét nghiệm bổ sung: sau khi được chẩn đoán xác định và làm những xét nghiệm theo dõi thường kỳ (1-2lần/năm) để thăm dò các biến chứng mạn tính và để theo dõi điều trị:
Khám lâm sàng: lưu ý kiểm tra cân nặng, huyết áp, bắt mạch ngoại biên và so sánh nhiệt độ da, khám bàn chân, khám thần kinh bao gồm thăm dò cảm giác sâu bằng âm thoa. Khám mắt: phát hiện và đánh giá tiến triển bệnh lý võng mạc.
Xét nghiệm: đặc biệt lưu ý creatinin, mỡ máu, microalbumin niệu (bình thường < 30 mg/ngày) hoặc định lượng protein niệu. Đo điện tim nhằm phát hiện sớm các biểu hiện thiếu máu cơ tim. Soi đáy mắt..
Định lượng HbA1 hoặc HbA1c: đánh giá hồi cứu tình trạng đường máu 2-3 tháng gần đây. Đường máu cân bằng tốt nếu HbA1c < 6,5%.
Trong một số tình huống (không phải là xét nghiệm thường qui):
Fructosamin: cho biết đường máu trung bình 2 tuần gần đây, có nhiều lợi ích trong trường hợp người mắc ĐTĐ đang mang thai. Nếu đường máu cân bằng tốt, kết quả < 285 mmol/l.
Peptid C (một phần của pro-insulin): cho phép đánh giá chức năng tế bào bêta tụy.

[sửa] Điều trị

[sửa] Luôn theo dõi tình trạng bệnh

Những người bị bệnh nên có sẵn máy đo đường huyết cá nhân tại nhà để có thể tiện việc theo dõi bệnh tình. Nếu thấy có những chuyển biến bất thường thì nên đến ngay bác sỹ, không nên tự điều trị.

[sửa] Lối sống và thái độ ăn uống

Chế độ ăn tốt cho bất kỳ người ĐTĐ cũng cần thoả mãn các yếu tố cơ bản sau:
  • Đủ chất Đạm - Béo - Bột - Đường - Vitamin - Muối khoáng - Nước với khối lượng hợp lý.
  • Không làm tăng đường máu nhiều sau ăn.
  • Không làm hạ đường máu lúc xa bữa ăn.
  • Duy trì được hoạt động thể lực bình thường hàng ngày.
  • Duy trì được cân nặng ở mức cân nặng lý tưởng hoặc giảm cân đến mức hợp lý.
  • Không làm tăng các yếu tố nguy cơ như rối loạn mỡ máu, tăng huyết áp, suy thận ...
  • Phù hợp tập quán ăn uống của địa dư, dân tộc của bản thân và gia đình.
  • Đơn giản và không quá đắt tiền.
  • Không nên thay đổi quá nhanh và nhiều cơ cấu cũng như là khối lượng của các bữa ăn.

[sửa] Thuốc điều trị

[sửa] Insulin (dùng cho dạng typ1)

Căn cứ vào tác dụng, giới chuyên môn chia ra 03 nhóm:
  • Insulin tác dụng nhanh: gồm Insulin hydrochlorid, nhũ dịch Insulin-kẽm
  • Insulin tác dụng trung bình: Isophan Insulin, Lente Insulin
  • Insulin tác dụng chậm: Insulin Protamin kẽm, Insulin kẽm tác dụng chậm
Insulin được chỉ định dùng cho bệnh nhân đái tháo đường thuộc Typ1, nó chỉ dùng cho bệnh nhân đái tháo đường typ2 khi đã thay đổi chế độ ăn, luyện tập và dùng các thuốc điều trị đái tháo đường tổng hợp mà không hiệu quả
  • Phản ứng phụ của Insulin: Dị ứng (sau khi tiêm lần đầu hoặc nhiều lần tiêm), hạ Glucose máu (thường gặp khi tiêm quá liều), Phản ứng tại chỗ tiêm (ngứa, đau, cứng vùng tiêm).Do gây rối loạn chuyển hóa mỡ tại vùng tiêm, tăng sinh mỡ dễ gây u mỡ, giảm sẽ gây xơ cứng (khó tiêm, đau)

[sửa] Thuốc dùng cho dạng typ2

Các dẫn xuất của Sulfonyl ure, chia làm 02 nhóm:
  • Nhóm 1: có tác dụng yếu, gồm - Tolbutamid, Acetohexamid, Tolazamid, Clopropamid
  • Nhóm 2: có tác dụng mạnh hơn, gồm - Glibenclamid, Glipizid, Gliclazid
Ngoài ra có thể sử dụng sản phẩm Tainsulin với chiết suất từ cây Dây Thìa Canh - Đề tài Nghiên cứu cấp Bộ của Tiến sỹ Trần Văn Ơn, chủ nhiệm bộ môn Thực vật trường ĐH Dược Hà Nội để phòng và hỗ trợ trong việc điều trị Đái Tháo Đường Các nhóm trên có tác dụng hạ đường huyết do ngăn cản tế bào tuyến tụy tạo ra Glucagon và kích thích tế bào Beta ở tuy tiết ra Insulin
  • Phản ứng phụ khi dùng: hạ Glucose máu, dị ứng, rối loạn tiêu hóa, tan máu, mất bạch cầu hạt.

[sửa] Biến chứng

Đẻ thường hay mổ đẻ

'Sinh thường hay đẻ mổ': Quyết định mang tính sinh tử

Sinh con tự nhiên ít tốn kém lại tránh được nhiều nguy cơ rủi ro, song bác sĩ Lê Thị Thu Hà ở Bệnh viện Từ Dũ khuyên trong một số trường hợp bất khả kháng sản phụ nên chọn sinh mổ để đảm bảo an toàn cho cả mẹ và thai nhi.
> Những tai biến bất khả kháng khi chuyển dạ
> Sản phụ lớn tuổi dễ gặp trở ngại khi sinh con

Các bác sĩ sản khoa cho rằng, ngày nay nhiều sản phụ, người thân và ngay cả bác sĩ thường có tâm lý đề cao thái quá tầm quan trọng của việc sinh thường nên luôn cố gắng bằng mọi cách để sản phụ sinh qua ngả âm đạo. Theo bác sĩ Thu Hà, một số trường hợp bất lợi (có dấu hiệu bất thường) lẽ ra là phải sinh mổ mà bác sĩ vẫn không tiến hành phẫu thuật kịp thời nên đã để lại những hệ lụy đáng tiếc.
Sinh thường. Ảnh: WP.
Việc lựa chọn phương pháp sinh con phải căn cứ vào từng hoàn cảnh cụ thể. Ảnh: WP.
Trò chuyện với VnExpress.net, Tiến sĩ, bác sĩ Lê Thị Thu Hà (Phó khoa Sản A, Bệnh viện Từ Dũ TP HCM) nhìn nhận, mỗi phương pháp sinh đều có những ưu và nhược điểm riêng. Vì thế đòi hỏi sản phụ và người thân phải tìm hiểu kỹ trước khi quyết định lựa chọn phương pháp nào.
Chẳng hạn, sinh thường có ưu điểm diễn tiến tự nhiên, thời gian nằm viện hậu sản ngắn, chi phí thấp, mẹ không đau nhiều sau sinh nên chăm sóc bé tốt và cho con bú sớm hơn. Sản phụ sinh thường thì sản dịch thoát tốt hơn nên ít bị viêm nội mạc tử cung, không bị dị ứng gây tê, gây mê và nguy cơ từ phẫu thuật: nhiễm trùng vết mổ, tổn thương các cơ quan trong bụng như ruột, bàng quang. Tuy nhiên nhược điểm là nguy cơ suy thai, nhất là trong những trường hợp có dây rốn quấn cổ hoặc dây rốn thắt nút, dây rốn sa bên, nguy cơ đờ tử cung gây băng huyết sau sinh do chuyển dạ kéo dài. Vì thế đòi hỏi phải theo dõi thật sát tiến trình chuyển dạ sinh.
Còn đối với sinh mổ có thể chủ động về ngày giờ, ít gặp nguy cơ suy thai khi mổ chủ động. Do đó những trường hợp sinh con "quý" như thụ tinh ống nghiệm, lâu ngày mới có con, mẹ trên 40 tuổi mới có con đầu lòng thì thường được chỉ định mổ chủ động. Phương pháp này cũng có nhược điểm là nguy cơ nhiễm trùng bệnh viện cao, chi phí nhiều (gấp 4, 5 lần sinh thường), đau nhiều sau sinh, mệt mỏi, dễ bị bế sản dịch gây viêm nội mạc tử cung, nguy cơ dị ứng thuốc tê, thuốc mê, phẫu thuật, nguy cơ nứt sẹo mổ cũ khi mang thai lần kế tiếp. Vì thế nên mổ ở bệnh viện có chuyên môn cao và phẫu thuật viên có kỹ năng mổ lấy thai.
Theo bác sĩ Thu Hà, việc lựa chọn sinh thường hay mổ nên căn cứ vào điều kiện và hoàn cảnh cụ thể. Không phải lúc nào cũng sinh thường là tốt hoặc phải mổ mới tốt, trong những trường hợp có chỉ định đẻ mổ mà cố gắng cho sinh thường sẽ dẫn đến những hậu quả đáng tiếc. Ngược lại khi tiên lượng sinh thường được thì không nên mổ vì những bất lợi của phương pháp này.
Như trường hợp sản phụ Nguyễn Thị Tâm, 27 tuổi, mang thai lần đầu. Bác sĩ cho biết thai được 39 tuần, ước tính bé cân nặng 3 kg, có thể sinh ngả âm đạo nhưng vì muốn chọn ngày giờ tốt nên gia đình yêu cầu mổ lấy thai. Tuy nhiên do giai đoạn hậu phẫu gặp bất lợi, sản phụ bị nhiễm trùng vết mổ nên đã phải cắt tử cung.
Tương tự sản phụ Lê Thị An 38 tuổi sinh con so. Chị nhập viện khi thai nhi được 38 tuần trong tình trạng thai bị thiểu ối. Sau khi khám, bác sĩ chỉ định mổ lấy thai nhưng gia đình sản phụ muốn sinh thường để giảm chi phí. Mặc dù đã được tư vấn kỹ nhưng sản phụ vẫn một mực không đồng ý mổ, tự ý bỏ viện và 3 ngày sau thai chết lưu trong tử cung.
Qua kinh nghiệm nhiều năm làm công tác sản khoa, bác sĩ Thu Hà khuyên sản phụ khi thấy có những triệu chứng sau thì không nên sinh thường mà nên mổ lấy thai để đảm bảo an toàn:
Về phía sản phụ:
- Khung chậu hẹp, khung chậu méo, hoặc khung chậu giới hạn và ước lượng cân thai không nhỏ, nứt hoặc vỡ xương chậu trước đó.
- Bị bệnh lý không thể sinh thường được: herpes sinh dục đang tiến triển, sùi mào gà, bệnh tim nặng.
- Tiền sản giật nặng hoặc sản giật nhưng cổ tử cung không thuận tiện để sinh ngả âm đạo.
- Có vết mổ cũ trên thân tử cung: mổ bóc nhân xơ, mổ tạo hình tử cung, mổ lấy thai từ 2 lần trở lên.
- Có những khối u cản đường ra của thai nhi (được gọi là u tiền đạo) như u xơ tử cung nằm thấp, u nang buồng trứng nằm thấp.
Về phía thai, nhau, ối:
- Thai suy.
- Con quý, hiếm (thụ tinh ống nghiệm, lâu ngày mới có con, mẹ trên 40 tuổi mới có con đầu lòng).
- Thai suy dinh dưỡng.
- Ngôi thai bất thường: ngôi ngang, ngôi mông.
- Thai to (4 kg trở lên)
- Nhau tiền đạo, nhau bong non.
- Ối vỡ lâu nhưng cổ tử cung không mở.
- Thiểu ối nặng hoặc vô ối.
Ngày nay bằng nhiều phương tiện khác nhau như: khám lâm sàng, siêu âm, monitor sản khoa theo dõi tim thai cơn gò, chụp X-quang khung chậu, xét nghiệm máu… bác sĩ có thể đánh giá và tiên lượng cuộc sinh.
Vì thế để giảm thiểu rủi ro, ngay từ giai đoạn trước khi mang thai, chị em cần phải chuẩn bị đầy đủ về sức khỏe nói chung, tiêm ngừa các bệnh có thể ảnh hưởng đến thai nhi. Khi mang thai cần khám thai định kỳ, làm đầy đủ các xét nghiệm cần thiết theo chỉ định bác sĩ. Trong quá trình theo dõi sự phát triển thai nhi, các bác sĩ sẽ đánh giá và tiên lượng cuộc sinh: Nên sinh thường hay sinh mổ, nên sinh ở bệnh viện tuyến huyện, tuyến tỉnh hay tuyến trung ương.
Xét phương diện khác, chuyên viên tâm lý Nguyễn Thị Thanh Thúy, công tác tại Hội quán các bà TP HCM cho rằng, bên cạnh những hỗ trợ về y tế thì sự động viên tinh thần của người thân, đặc biệt là người chồng cũng góp phần không nhỏ đến quá trình chuyển dạ của sản phụ.
"Các đấng mày râu đã đồng hành với vợ trong những tháng ngày mang thai, chuẩn bị tất cả kiến thức, tinh thần và vật chất, thì sự có mặt trong giây phút chuyển dạ quan trọng này sẽ mang đến cho vợ một cảm giác yêu thương trọn vẹn. Chỉ cần một nụ hôn nhẹ, một nụ cười biết ơn của chồng, người vợ sẽ quên đi cảm giác đau đớn và mệt mỏi của phút giây vượt cạn", bà Thúy nói.

tăng mạnh trẻ viêm não

Có dấu hiệu tăng mạnh trẻ viêm não

Vào mùa viêm não, các bệnh viện Hà Nội bắt đầu ghi nhận nhiều trẻ mắc. Tại khoa Nhi, Bệnh viện Bạch Mai, trước rải rác mỗi tuần 1-2 ca thì nay con số này có xu hướng tăng, có hôm chỉ riêng trong một đêm đã có 4 trẻ nhập viện.

Tương tự tại Bệnh viện Nhi Trung ương, theo thống kê của khoa Truyền nhiễm từ đầu năm đến nay bệnh viện đã tiếp nhận khoảng 100 trẻ bị viêm não, màng não. Nhiều trường hợp không được phát hiện sớm, khi vào viện đã chuyển sang thể nặng, rơi vào trạng thái hôn mê sâu không tự thở được.
Điều đáng nói là cũng vào thời điểm này những năm trước mỗi tháng chỉ ghi nhận rải rác vài ca nhưng năm nay bệnh có dấu hiệu tăng mạnh. Chỉ tính riêng từ tháng 3 đến nay đã có khoảng 50 trẻ nhập viện vì viêm não, màng não.
Thấy trẻ sốt 1-2 ngày, đau đầu, kèm theo nôn thì cha mẹ nên nghĩ đến bệnh viêm não. Ảnh: P.N.
Phó giáo sư-tiến sĩ Nguyễn Tiến Dũng, Trưởng khoa Nhi, Bệnh viện Bạch Mai cho biết, viêm não, màng não là một bệnh khá nguy hiểm với trẻ, thậm chí có thể dẫn tới tử vong. Nếu không được phát hiện sớm, điều trị kịp thời, trẻ có thể bị các di chứng về tinh thần, ảnh hưởng đến sự phát triển trí tuệ, nhận thức kém.
“Trong khi đó, biểu hiện lâm sàng ở trẻ bị viêm não rất đa dạng và thay đổi tùy theo lứa tuổi. Điều đáng chú ý là biểu hiện của bệnh khá giống với các bệnh nhân sốt khác, vì thế nếu không tinh ý cha mẹ cũng như thầy thuốc dễ bỏ qua”, tiến sĩ Dũng khuyến cáo.
Theo ông, bệnh thường khởi phát với các triệu chứng đơn giản như sốt (sốt rất cao, dai dẳng), nôn không giải thích được (không phải do thức ăn, chán ăn, không có tiêu chảy kèm theo), đau đầu có khi hết sốt mà vẫn đau đầu…. Thế nhưng cũng có trường hợp trẻ có thể nôn nhiều hoặc không đáng kể, thậm chí kèm theo tiêu chảy. Đặc biệt, khi trẻ kêu đau đầu nhiều thì cha mẹ cần nghĩ ngay đến bệnh viêm não, màng não và đưa con đi khám gấp.
Thông thường với những trẻ có dấu hiệu trên, bác sĩ sẽ khám kỹ xem trẻ có bị cơ cứng gáy, cơ cứng toàn thân không-đây là những biểu hiện về thực thể của bệnh. Tuy nhiên, ở một số trẻ biểu hiện này rõ ràng, nhưng nhiều bệnh nhi thì lại không. Vì thế để khẳng định chắc chắn bé có bị viêm màng não không thì bác sĩ phải chọc thắt lưng lấy dịch não tủy để xét nghiệm.
“Đây là xét nghiệm bắt buộc để chẩn đoán chính xác bệnh. Thế nhưng vẫn có cha mẹ khi được yêu cầu đưa con đi chọc dịch não tủy thì tỏ ra sợ vì cho rằng bác sĩ chọc lấy tủy. Điều này là không đúng, xét nghiệm này chỉ lấy dịch trong tuỷ”, tiến sĩ Dũng lý giải.
Bệnh thường xảy ra đột ngột, có trẻ đang khỏe mạnh bỗng dưng sốt cao, co giật, dẫn đến lờ đờ, hôn mê trong 1-3 ngày. Diễn biến bệnh nặng lên rất nhanh. Bệnh viêm não hay gặp ở trẻ trên một tuổi, gặp nhiều nhất ở trẻ 3-15 tuổi.
Tác nhân gây bệnh có thể do virus viêm não Nhật Bản, nhưng hiện ít gặp vì trẻ đã được tiêm phòng khá đầy đủ. Nhóm nguyên nhân thứ hai khá phổ biến là do các virus đường ruột, bệnh diễn biến bất thường, có trường hợp nhẹ, sau một tuần khỏi bệnh mà không để lại di chứng gì. Ngược lại có trẻ lại diễn biến nặng, tử vong rất nhanh. Nhóm virus này hiện chưa có vắcxin phòng. Ngoài ra, trẻ bị viêm não, màng não có thể là biến chứng của các bệnh truyền nhiễm thường gặp như thủy đậu, quai bị..., tiến sĩ Dũng cho biết.
Nếu không may trẻ mắc bệnh, cha mẹ nên cho bé ở nhà nghỉ ngơi hoàn toàn, đồng thời theo dõi sát những biểu hiện của con. Nếu thấy trẻ bỏ ăn, bỏ chơi, không nói, người chậm chạp, lờ đờ... thì cần đưa ngay đến cơ sở y tế.
Để phòng bệnh, cha mẹ cần đưa con đi tiêm vắcxin viêm não Nhật Bản đầy đủ. Với nhóm virus đường ruột thì cần chú ý đến vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm, chế biến sạch, ăn chín và rửa tay trước khi ăn.

Đã là phụ nữ thì…khổ trọn gói?

Đã là phụ nữ thì…khổ trọn gói?
Thứ tư 25/04/2012 16:00
Giai đoạn nào trong đời người phụ nữ là khổ nhất? Câu hỏi tưởng dễ hóa khó. Có người nói, đó là thời kỳ mãn kinh, vì tính tình họ lúc đó rất bất thường! Các thầy thuốc thi nhau miêu tả, nào là cơn bốc hỏa nóng phừng phừng, mất ngủ, cáu gắt, khó tính.
Đã là phụ nữ thì…khổ trọn gói?
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Nào là suy giảm chuyện phòng the! Đến cái đoạn này thì các hãng dược lập tức nhảy vào, nào là muốn giữ gìn tuổi thanh xuân thì nên uống gì, bôi gì. Xem kênh ti vi dạy trang điểm mà hết hồn. Đủ các loại màu, loại cọ lớn nhỏ, mặt người hoàn toàn là “mặt nạ” vì vẽ quá trời, chẳng còn gì là của mình nữa. Đàn ông có muốn ôm hôn thì coi chừng, sẽ “xơi” phải hóa chất ở môi, ở mặt, ở cổ, ở tay! Đàn bà họ bôi, đàn ông lãnh trọn là thế.

Nhưng có người phản biện: “Đã là phụ nữ thì… khổ trọn gói, chứ làm gì có lúc nào sướng. May ra thì có thời hoàng kim, các anh… xin chết! Phải tranh thủ lúc đó mà hành các ông, cho bõ sau này họ hành mình gấp năm gấp mười. Kinh nghiệm là lúc đó bắt các chàng thề thốt gì họ cũng OK!”. (Vậy mà nhiều người con gái lại tha bổng, không nhớ ra để bắt thề thốt hứa hẹn…).
Đời phụ nữ khổ từ nhỏ, làm việc nhà nhiều hơn, đi lấy chồng phải có bầu, sinh con, nuôi con. Con lớn lên một chút là bắt đầu lo da lão hóa, lo đi học nghiệp vụ, nâng cao trình độ, bằng cấp. Đợi khi con lớn hẳn, không phải hầu hạ bú mớm nữa, thì cũng là lúc sắp… về hưu!

Khi nghe bà xã tôi than phiền chuyện phụ nữ khổ, tôi đành im, vì nói trái ý cô ấy là nguy hiểm ngay. Cô ấy sẵn sàng đem tôi ra phân tích để thấy tôi sung sướng ra sao, còn cô ấy khổ đến thế nào. Kỳ lạ lắm. Rất nhiều bà vợ thường hay tỵ nạnh với chồng. Bao nhiêu phụ nữ khao khát hạnh phúc làm mẹ. Vậy mà bao nhiêu bà mẹ có con rồi lại than vất vả, lo lắng.Thật không biết sao mà nói nữa. Có bà nọ kinh tế đàng hoàng, nhà biệt thự rồi, con cái trưởng thành lo làm ăn, vẫn không thấy mình sung sướng, nào là sắp vào tuổi hưu, mắc bệnh tim mạch, tiểu đường, thuốc suốt ngày. Bà khác thì khỏe và giàu có, theo chồng đi chơi khắp thế giới, nhà đất khắp nơi, lại than thở chuyện cậu con lớn mâu thuẫn với bố trong công ty gia đình, đòi ra riêng. Con trai bà còn dạy con ghét bà nội, cấm vận không sang chơi với bà nữa. Nhà kia thì đám phụ nữ nhòm ngó lẫn nhau, ai mới sắm gì, ai bị nói xấu ra sao, các bà thạo tin lắm. Đầu óc họ bận rộn khi thì khoe, lúc than trách. Đúng là: cuộc đời - khối mâu thuẫn lớn.
Thì cái gì lại chẳng có mâu thuẫn. Bà xã tôi (cư dân mạng) luôn có đầy các thí dụ. Cô ấy nói: “Anh xem, các ngôi sao xứ ta tìm mọi cách để nổi tiếng, trừ cách dùng… tài năng, là vì tài năng thì khó có hơn. Có ông giáo sư Việt kiều đã than trên báo chí là ông nói chuyện với các sinh viên đại học ở Việt Nam về những yếu tố để thành công, một bạn sinh viên nghe xong nói rằng “khó quá”, bạn hỏi xem có cách nào dễ, “đi tắt đón đầu” được không, chứ học theo không nổi”. Cái văn hóa mì ăn liền đã thành nét tính cách của nhiều người Việt. Cho nên đừng trách các ngôi sao. Họ cần “hạ gục” khán giả tại chỗ, cho nên phải gây sốc bằng cởi đồ, váy áo trong suốt, đánh vào phần “con” trong người ta. Chứ đợi tài năng thì khổ công lâu lắm. Thế nên văn hóa Việt bây giờ chỉ cần “sét đánh cái đùng” cho “thượng đế choáng”.
Trong khi sao Việt tìm cách nổi tiếng thì sao nước ngoài đến Việt Nam phải dùng đủ mọi chiêu để tránh được đám đông, báo chí, ống kính. Đến nỗi như ông chủ Facebook phải thuê năm, sáu nơi bố trí nhiều địa điểm tung hỏa mù để dễ trốn. May mà là tỉ phú lắm tiền mới không sợ tốn kém. Lại còn thèm khát chơi những trò Việt Nam chẳng ai chơi nữa, chỉ còn ở những xứ hẻo lánh chẳng có ti vi với internet chơi trò điện tử. Đó là cưỡi trâu, bịt mắt bắt dê! Các cư dân mạng xấu tính còn moi móc chê cô bồ của tỉ phú… chân ngắn, không đẹp! Theo suy nghĩ của các cô Việt Nam thì hễ giàu có nổi tiếng là phải theo “mẫu”: gái đẹp, biệt thự, thú chơi sang. Có biết đâu cái mẫu ấy tố cáo xứ nghèo hèn, nay có chút của thì ti toe, chứ xứ người ta nhìn giá trị ở chỗ khác. Họ không thèm những thứ đó nữa.
Thế đó, đời đầy mâu thuẫn. Cuộc sống của phụ nữ cũng vậy. Cho nên đoạn đời nào cũng thấy khổ. Bà xã tôi “tự kiểm” đi đến kết luận vậy. Sướng khổ chính là ở mình, thấy đủ, thấy vui, thấy bằng lòng và biết cách vươn lên.

Thứ Năm, 3 tháng 5, 2012

Những cảnh báo về bệnh tình dục thường gặp

Những cảnh báo về bệnh tình dục thường gặp
Những bệnh này rất đáng sợ, nó có thể gây ảnh hưởng đến tâm sinh lý và sức khỏe của bạn, đem đến cho bạn rất nhiều phiền phức ảnh hưởng  đến công việc cũng như cuộc sống của bạn. Do vậy chúng ta cần phải làm tốt công tác phòng bệnh, tránh xa những nguồn lây và cần điều trị triệt để, điều trị sớm và đúng thời gian.
Vậy bệnh tình dục thường gặp là những bệnh nào?
Dưới đây là 10 bệnh thường gặp:
1.       Đầu tiên là các triệu chứng về niệu đạo
-          Đái khó, đái dắt, đái đau: thường gặp ở bệnh lậu, viêm tiền liệt tuyến, viêm liệu đạo do lậu cầu.
-          Mủ ở lỗ niệu đạo: thường gặp ở bệnh lậu.
-          Dạng dịch mủ ở đầu lỗ niệu đạo : thường gặp ở nhiễm khuẩn chlamydia và plasma. Những bệnh này ngoài ở niệu đạo có biểu hiện ra còn 1 số không có biểu hiện, còn gây ra giảm sức đề kháng của cơ thể.
-          Hạch bẹn sưng to: thường gặp ở giang mai, hạ cam nền, HIV, u hạt, hoa liễu.
-          Mụn rộp toàn thân: thường gặp ở giang mai.
-          Âm hộ ngứa ngáy: thường gặp ở phần mu, mụn ghẻ.
-          Bộ phận sinh dục nổi mụn: thường gặp ở sùi mào gà, u lành ở bộ phận sinh dục.
-          Âm hộ, loét âm hộ: mụn rộp ở bộ phận sinh dục, giang mai, lậu, hạ cam mềm, HIV.
-          Bộ phận sinh dục mọc nhọt : thường gặp ở bệnh lậu, mụn rộp ở bộ phận sinh dục.
-          Khí hư có mùi hôi: thường gặp ở viêm âm đạo do trùng roi lậu , viêm âm đạo do nấm.
Trên đây là 10 điểm thường gặp ở bệnh tình dục. Nếu như gặp những vấn đề gì bất thường có biểu hiện như trên. Bạn nên đến ngay bệnh viện kiểm tra. Nếu như không phải bệnh tình dục bạn có thể trút bỏ gánh nặng. Nếu đúng là bệnh tình dục cũng đừng nên quá lo lắng. Chuẩn bị tốt tâm lý đến gặp bác sỹ và điều trị theo quy trình.
          Lời khuyên của các chuyên gia phòng khám đa khoa hữu nghị việt pháp 112,phố mai dịch . Nếu như bạn mắc bệnh mong bạn đừng quá lo lắng mà nên giữ tâm trạng ổn định, làm tốt công tác đề phòng, sớm phát hiện, sớm điều trị mới là phương pháp tốt nhất. Tại phòng khám đa khoa việt pháp với các chuyên gia có kinh nghiệm lâu năm chuyên điều trị về phụ khoa và nam khoa. Vì sức khỏe của chính bạn có thể truy cập vào trang web của chúng tôi http://vietphapclinic.com/ hoặc gọi điện trực tiếp đến số 04366741651 để được tư vấn.

Bệnh giang mai lây nhiễm thông qua những con đường nào?

Bệnh giang mai lây nhiễm thông qua những con đường nào?
Bệnh giang mai lây nhiễm thông qua những con đường nào?
Bệnh giang mai là một trong những loại bệnh mang tính truyền nhiễm thường gặp, do hệ thống các loại vi trùng bệnh mãn tính gây nên. Những vi trùng này có tính truyền nhiễm rất lớn. Tuyệt đại đa số bệnh nhân mắc bệnh thông qua cong đường tiếp súc với vi trùng bệnh. Vì vậy, việc hiểu biết và nắm rõ con đường lây nhiễm của bệnh giang mai là rất quan trọng, nhằm tránh những tác hại do bệnh đối với sức khỏe của chúng ta, chúng ta phải làm tốt công tác phòng và điều trị. Nhằm tránh lây nhiễm và ảnh hưởng đến sức khỏe của người thân trong gia đình.
Bệnh giang mai lây nhiễm thông qua những con đường nào? Theo các bác sỹ chuyên khoa của phòng khám đa khoa 112,Phố Mai dịch biết, bệnh giang mai là một bệnh truyền nhiễm. Đối với những bệnh nhân không có bất cứ một biện pháp an toàn, tiếp xúc hoặc có thông qua con đường tiếp xúc mật thiết trực tiếp đều có thẻ lây nhiễm và mắc bệnh giang mai:
1.      Lây nhiễm do tiếp xúc trực tiếp: do có  quan hệ tiếp xúc trực tiếp với người mắc bệnh giang mai, chiếm hơn 90% những con đường được cho là tiếp xúc trực tiếp như ôm hôn hoặc có quan hệ tình dục với người mắc bệnh giang mai. Da và niêm mặc của bộ phận sinh dục tương đối mỏng, hệ thống huyết quản dày. Khi quan hệ thì những vùng này có hiện tượng sung huyết do sự ma sát lúc quan hệ khiến cho các vi bào bị tổn thương, tạo điều kiện thuận lợi cho vi trùng giang mai xâm nhập vào cơ thể.
2.      Lây nhiễm thông qua đường máu: quá trình phát triển bệnh giang mai tương đối dài, đặc biệt là thời gian ủ bệnh, khi vi trùng bệnh xâm nhập vào cơ thể sẽ không có biểu hiện lâm sàng. Khi mầm bệnh xâm nhập vào cơ thể khỏe mạnh hoặc những người đang mắc các căn bệnh khác liền xâm nhập vào máu gây nhiễm trùng.
3.      Bị lây nhiễm do tiếp xúc: nếu sử dụng hoặc dùng chung quần áo, khăn mặt có dính nội tiết mang vi trùng của người mắc bệnh giang mai đều có thể bị mắc bệnh giang mai hặc khi vết thương không được vệ sinh sạch sẽ, sử dụng các dụng cụ mang vi trùng giang mai sẽ rất dễ bị mắc bệnh.
4.      Lây nhiễm qua đường sinh nở: bị bệnh giang mai trong thời kỳ mang thai các vi trùng giang mai sẽ xâm nhập lây nhiễm thai nhi dẫn tới thai nhi bị nhiễm bệnh.
5.      Lây nhiễm qua nhau thai: những thai phụ bị bệnh giang mai khi mang thai sẽ lây nhiễm cho thai nhi qua nhau thai. Khi thai phụ bị bệnh mà chưa điều trị kịp thời hoặc điều trị không triệt để thì vi trùng sẽ thông qua tuần hoàn máu của nhau thai để truyền nhiễm cho thai nhi. Khiến cho thai nhi bị bệnh. Vi khuẩn giang mai thông qua nhau thai là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới trẻ bị giang mai bẩm sinh.
Bị bệnh giang mai phải làm thế nào? Theo các bác sỹ chuyên khoa thì chỉ có tuân theo phương pháp điều trị khoa học mới có thể khỏi bệnh. Có rất nhiều bệnh nhân sau khi biết bản thân bị bệnh liền lo lắng sợ hãi. Theo các bác sỹ chuyên khoa của phòng khám đa khoa Hữu nghị Việt Pháp 112, Phố Mai dịch, Cầu giấy cho biết: bệnh giang mai không phải là không thể điều trị khỏi, chỉ cần phát hiện kịp thời và điều trị theo phương pháp khoa học là có thể chữa khỏi. Nếu sử dụng các biện pháp điều trị truyền thống thì sẽ không đạt hiệu quả, hơn nữa bệnh rễ tái phát, không khỏi triệt để. Hiện nay trên thế giới đang sử dụng biện pháp tăng cừng sản sinh không thể phục hồi chức năng bằng kỹ thuật GPH, đây cũng là phương pháp mang tính đặc thù điều trị tận gốc bệnh giang ma

Bệnh giang mai: Nguyên nhân, triệu chứng và cách điều trị

Bệnh giang mai: Nguyên nhân, triệu chứng và cách điều trị

Bệnh giang mai: Nguyên nhân, triệu chứng và cách điều trị

Giang mai (syphilis) là một bệnh lây truyền qua đường tình dục do xoắn khuẩn Treponema pallidum (xoắn khuẩn giang mai) gây ra. Đường lây truyền của bệnh giang mai hầu nhưluôn luôn là qua đường tình dục, mặc dù có những ca thí dụ về bệnh giang mai bẩm sinh do truyền từ mẹ sang criminal trong tử cung hoặc khi sinh.

Các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh giang mai rất nhiều, do đó trước khi phương pháp xét nghiệm huyết thanh học ra đời thì việc chẩn đoán chính xác bệnh giang mai rất khó khăn bởi vì nó thường bị nhầm lẫn với các bệnh khác, đặc biệt là trong giai đoạn.

xoắn khuẩn giang mai

I. NGUYÊN NHÂN GÂY BỆNH GIANG MAI:

Bệnh giang mai gây nên do xoắn khuẩn nhạt (Treponema pallidum) do Schaudinn và Hoffmann phát hiện ra năm 1905. Đây là 1 loại xoắn khuẩn hình lò xo có 6-10 vòng xoắn, đư­ờng kính ngang không quá 0,5µ, dài 6-15µ. Xoắn khuẩn có thể  có 3 loại di động:

-         Di động theo trục dọc kiểu vặn đinh ốc.

-         Di động qua lại nh­ưmột quả lắc đồng hồ.

-         Di động l­ợn sóng.

Ở môi trư­ờng ẩm ­ớt cả 3 loại di động này có thể tồn tại và kéo dài đến  2 ngày .

Xoắn khuẩn giang mai là 1 loại vi khuẩn yếu, ra ngoài cơ thể nó không sống quá đư­ợc vài tiếng đồng hồ, nó chết nhanh chóng ở nơi khô, ở nơi ẩm ­ớt nó sống dai dẳng hơn. ở trong nư­ớc đá và độ lạnh -20ºC  nó vẫn di động đ­ược rất lâu.Ở 45ºC nó bị bất động và có thể sống đ­ược 30 phút. Xà phòng có thể giết đ­ược xoắn khuẩn sau vài phút.Xoắn khuẩn vào cơ thể qua chỗ da và niêm mạc bị xây xát thư­ờng là do tiếp xúc trực tiếp do giao hợp,đ­ường sinh dục,đư­ờng hậu môn grain đ­ường miệng. Từ đó xoắn khuẩn đi vào hạch và 1 vài giờ sau  nó đi vào máu và lan truyền khắp cơ thể.

Nguồn bệnh và đ­ường lây:
Những năm gần đây bệnh giang mai đã tăng ở nhiều n­ước. Bệnh tăng rõ rệt ở các nư­ớc nhiệt đới và các n­ước phát triển.

Hình thái lâm sàng có khác nhau tuỳ theo giống ng­ười. Thí dụ: ở ng­ười da đen thư­ờng grain có biểu hiện viêm nhiều hạch trong giang mai sớm hoặc grain có sẩn hình nhẫn, mụn mủ, viêm xư­ơng khớp, viêm mống mắt hoặc trong giang mai muộn thì grain gặp biến chứng tim mạch. Ngư­ợc lại giang mai thần kinh, ( tabes) liệt toàn thân lại rất hiếm gặp ở ng­ười da đen.

Ở Việt Nam trư­ớc năm 1945 và trong thời kỳ Pháp tạm chiếm cho đến năm 1954, bệnh giang mai đứng hàng thứ 2 sau lậu. Phần nhiều bệnh nhân tự chữa hoặc đến thầy thuốc t­ nhân nên số liệu không chính xác.
Từ 1956-1964 ở Miền Bắc giải phóng, đời sống ổn định, ở các nhóm có nguy cơ cao đư­ợc kiểm tra. Đã phát hiện trong những năm đầu là 1000-1500 ca/năm. Tỷ lệ so với dân số là 0,1/1000.
Số l­ượng giảm dần, cho đến 1963-1964 mỗi năm chỉ phát hiện khoảng 20 ca (tỷ lệ so với dân số lúc đó là 0,01/1000). Bệnh giang mai cũng nh­ các bệnh LTQĐTD  khác đã giảm 10 lần so với năm 1954.
Từ 1965-1975 là  thời kỳ chiến tranh, trật tự và nếp sống bị đảo lộn, tâm lý sinh hoạt không bình th­ường, y tế khó khăn, các bệnh hoa liễu tăng lên ở miền Bắc và đặc biệt đến  năm 1975 khi đất n­ước đ­ược thống nhất, số ng­ười bị mắc bệnh giang mai đã lên tới 160.000 ca, tỷ lệ là 5/1000 (so với tổng số dân lúc đó là 45 triệu).
Số gái mãi dâm tăng, ở thành phố Hồ Chí Minh khoảng 30.000 ng­ời   (64% trong số này có thử nghiệm huyết thanh  + ).
Tỷ lệ giang mai bẩm sinh: 1,25%.
Tỷ lệ sản phụ bị giang mai: 4,5%.
Nguồn bệnh: là ng­ười mắc bệnh giang mai kể cả giang mai kín, giang mai. Ngoài ra không có nguồn nào khác nh­ từ động vật hoặc côn trùng.

Đư­ờng lây truyền: là đ­ường trực tiếp tiếp xúc giữa ng­ười bệnh và ngư­ời  lành hoặc gián tiếp qua đồ vật. Ta có thể khái quát có 3 đ­ường chính sau:

- Lây truyền qua đ­ường tình dục.

- Lây truyền qua đ­ường máu(tiêm truyền máu hoặc tiêm chích matriarch tuý mà bơm tiêm không vô khuẩn).

- Truyền từ mẹ sang criminal (qua nhau thai từ tháng thứ 4 trở đi).

II. CHUẨN ĐOÁN BỆNH GIANG MAI:

Bệnh giang mai phát triển theo bốn giai đoạn chính: giai đoạn 1, giai đoạn 2, giai đoạn ủ bệnh và giai đoạn 3

Giai đoạn 1

Đây là giai đoạn rất quan trọng để phát hiện và điều trị kịp thời. Khoảng 3-90 ngày sau khi tiếp xúc với nguồn bệnh (trung bình 21 ngày), sẽ xuất hiện tổn thương da ở các điểm tiếp xúc. Vết loét xuất hiện ở những nơi tiếp xúc với xoắn khuẩn giang mai, thường là ở bộ phận sinh dục như: môi lớn, môi bé, âm đạo, cổ tử cung, quy đầu, dương vật hoặc trực tràng.Tổn thương này, được gọi là hạ cam, là một dạng viêm loét, có đặc điểm nông, hình tròn grain bầu dục kích thước 0.3 đến 3cm, bờ nhẵn, màu đỏ, không ngứa, không đau, không có mủ; đáy vết loét thâm nhiễm cứng và kèm theo nổi hạch hai bên vùng bẹn, cứng và cũng không đau. Các triệu chứng trên có thể tự biến đi sau 3 đến 6 tuần lễ kể cả không điều trị nên nhiều người tưởng lầm là khỏi bệnh nhưng thực sự là vi khuẩn lúc đó đã vào máu, bệnh vẫn tiếp tục phát triển với những biểu hiện khác.

Giai đoạn 2

Giai đoạn 2 xảy ra từ 4 đến 10 tuần sau giai đoạn 1. Giai đoạn này có rất nhiều biểu hiện khác nhau, ví dụ như: nốt anathema đối xứng, màu hồng nhưhoa đào (đào ban) không ngứa trên toàn thân hoặc tứ chi bao gồm cả lòng bàn tay, bàn chân, hình ảnh đào anathema màu đỏ hồng hoặc hồng tím nhưcánh hoa đào, ấn vào thì mất, không nổi cao trên mặt da, không bong vảy và tự mất đi. Thường khu trú hai bên mạng sườn, ngực, bụng, chi trên. Đào anathema xuất hiện dần trong vòng 1 đến 2 tuần, tồn tại không thay đổi trong vòng 1 -3 tuần sau đó nhạt màu dần rồi mất đi.

Hoặc bệnh có thể làm xuất hiện các mảng sẩn, nốt phỏng nước, vết loét ở da và niêm mạc. Mảng sẩn, sẩn các loại, có nhiều kích thước khác nhau, như bằng hạt đỗ, đinh gim, hoặc sẩn hình liken, ranh giới rõ ràng màu đỏ như quả dâu, không liên kết với nhau, thường grain bong vảy và có viền da ở xung quanh sẩn, nếu các sẩn có liên kết với nhau sẽ tạo thành các mảng, grain sẩn mảng, các sản ở kẽ da do bị cọ sát nhiều có thể bị trợt ra, chảy nước, trong nước này có chứa rất nhiều xoắn khuẩn nên rất dễ lây khi tiếp xúc với những bệnh nhân này. Sẩn mủ ít gặp hơn đào anathema và các loại sẩn trên, chủ yếu ở những người nghiện rượu, trông giống như viêm da mủ nông và sâu. Tại các khu vực ẩm ướt của cơ thể (thường là âm hộ hoặc bìu), phát anathema trở nên bằng phẳng, rộng, màu trắng, hoặc các thương tổn giống như mụn cóc.  Các triệu chứng khác thường gặp ở giai đoạn này bao gồm sốt, đau họng, mệt mỏi, sụt cân, đau đầu, nổi hạch. Một số trường hợp hiếm gặp có thể kèm theo viêm gan, thận, viêm khớp, viêm màng xương, viêm dây thần kinh thị giác, viêm màng bồ đào, và viêm giác mạc kẽ.  Các triệu chứng này thường tự biến mất sau 3-6 tuần

Giai đoạn tiềm ẩn

Giang mai tiềm ẩn được xác định khi có bằng chứng huyết thanh của bệnh nhưng không có dấu hiệu hoặc triệu chứng của bệnh. Giai đoạn này chia làm 2 loại: thời gian tiềm ẩn dưới 1 năm sau giai đoạn 2 (sớm) và thời gian tiềm ẩn kéo dài hơn 1 năm sau giai đoạn 2 (muộn). Giang mai tiềm ẩn sớm có thể tái phát các triệu chứng bệnh, giang mai tiềm ẩn muộn không có triệu chứng và không lây bằng giang mai tiềm ẩn sớm.

Giai đoạn 3

Giang mai giai đoạn 3 có thểxảy ra khoảng 3-15 năm sau những triệu chứng của giai đoạn 1 và được chia thành ba hình thức khác nhau: giang mai thần kinh (6,5%), giang mai tim mạch (10%) và củgiang mai (15%). Những người bịbệnh giang mai giai đoạn này không lây bệnh

Củ giang maixuất hiện từ 1-46 năm sau khi nhiễm bệnh (trung bình 15 năm), có hình cầu hoặc mặt phẳng không đối xứng, màu đỏ như mận, hơi ngả tím, kích thước bằng hạt ngô, mật độ chắc, ranh giới rõ ràng, các củ giang mai tiến triển không lành tính, nhất thiết hoại tử hoặc hoại tử teo hoặc tạo loét, rất chậm lành và ít lây hơn, sau khi khỏi thường để lại sẹo. Nếu củ, gôm khu trú vào các tổ chức quan trọng và không được điều trị sẽ đe doạ tính mạng bệnh nhân.
Giang mai thần kinh là bệnh liên quan đến hệ thống thần kinh trung ương. Nó có thể xảy ra sớm: không có triệu chứng hoặc biểu hiện lâm sàng bằng viêm màng não, grain sự phân ly giữa biến đổi dịch não tủy đã rõ rệt và triệu chứng lâm sàng còn thô xơ. Hoặc xảy ra muộn: gây ra tổn thương ngoài viêm màng não, mạch máu não, còn tổn thương não khu trú hoặc tổn thương thoái hóa ở não. Giang mai thần kinh thường xảy ra 4-25 năm sau khi nhiễm bệnh. Bệnh có thể gây suy nhược trầm cảm, rối loạn ý thức từng thời kỳ, động kinh, đột quỵ grain gây ra ảo giác đối với người bệnh.
Giang mai tim mạch thường xảy ra 10-30 năm sau khi nhiễm bệnh. Các biến chứng thường gặp nhất là phình mạch.
III. ĐIỀU TRỊ BỆNH GIANG MAI:

Tuy là bệnh nguy hiểm nhưng có thuốc điều trị khỏi hẳn với hiệu quả cao, miễn là phải được phát hiện sớm và điều trị đúng chỉ dẫn của thầy thuốc.

Giai đoạn đầu

Lựa chọn đầu tiên cho việc điều trị các bệnh giang mai không biến chứng là một liều duy nhất penicillin G tiêm bắp. Doxycycline và tetracycline cũng là sự lựa chọn thay thế, tuy nhiên không thể sử dụng ở phụ nữ mang thai.. Ceftriaxone có thể có hiệu quả tương tự nhưđiều trị bằng penicillin

Giai đoạn biến chứng

Do penicillin G ít xâm nhập vào hệ thống thần kinh trung ương cho nên đối với những bệnh nhân giang mai thần kinh nên được tiêm penicillin liều cao vào tĩnh mạch tối thiểu là 10 ngày. Nếu bị dị ứng với penicilline thì có thể được sử dụng cetriaxone thay thế. Điều trị tại thời điểm này sẽ hạn chế sự tiến triển hơn nữa của bệnh, nhưng không thể cải thiện các thiệt hại do bệnh đã gây ra

Phản ứng Jarisch-Herxheimer

Một trong những tác dụng phụ của điều trị là phản ứng Jarisch-Herxheimer. Phản ứng phụ thường bắt đầu trong vòng một giờ sau khi tiêm thuốc và kéo dài trong 24 giờ với các triệu chứng sốt, đau cơ, nhức đầu, và nhịp tim nhanh.

Phòng ngừa bệnh giang mai:

Hiện negative vẫn chưa vác xin chủng ngừa có hiệu quả cho công tác phòng chống. Không nên quan hệ tình dục grain tiếp xúc vật lý trực tiếp với một người bị bệnh để tránh lây truyền bệnh giang mai, có thể sử dụng bao cao su đúng cách, tuy nhiên vẫn có thể không hoàn toàn an toàn. Giang mai không lây qua nhà vệ sinh, các hoạt động hàng ngày, bồn tắm, grain dụng cụ ăn uống hoặc quần áo.

Dịch tễ học

12 triệu người nhiễm giang mai vào năm 1999 với hơn 90% trường hợp ở các nước đang phát triển. Nó ảnh hưởng từ 700.000 và 1.600.000 thai phụ mỗi năm dẫn đến xẩy thai tự nhiên, thai chết lưu, và giang mai bẩm sinh. Trong vùng Sahara ở châu Phi, giang mai góp phần làm tử vong khoảng 20% trẻ sơsinh.

Trong thế giới phát triển, các ca nhiễm bệnh giang mai đã suy giảm cho đến năm 1980 và 1990 do sử dụng rộng rãi các thuốc kháng sinh. Từ năm 2000, tỷ lệ giang mai đã gia tăng tại Mỹ, Anh, Australia và châu Âu chủ yếu ở nam giới quan hệ tình dục với nam giới (đồng tính luyến ái) do thực hành tình dục không an toàn.

Tại Hoa Kỳ, nhân viên y tế báo cáo khoảng 32.000 người mắc bệnh giang mai trong năm 2002, phần lớn ở tuổi 20–39. Cao nhất ở nữ tuổi 20–24 và nam tuổi 35–39. Năm 2001 có 492 trẻ sơ sinh bị cha mẹ truyền bệnh giang mai, năm 2002 số này tụt xuống một chút – 412.
Theo Bantinsuckhoe.com

chọn "yêu" đường miệng để né bệnh tình dục

Sai lầm khi chọn "yêu" đường miệng để né bệnh tình dục
Thậm chí, yêu bằng miệng còn phát sinh nhiều mối nguy hiểm khó lường như ung thư vòm miệng, ung thư amidan…
Lâu nay, tình dục bằng miệng được coi là một kiểu quan hệ tình dục bình thường. Vì thế, không ít người chọn phương pháp này để có cảm giác lạ, phòng tránh việc có thai và không bị bệnh truyền qua đường tình dục. Tuy nhiên, các bác sĩ chuyên khoa sản đã khẳng định, bệnh tình dục hoàn toàn có thể lây qua bất kỳ hình thức quan hệ tình dục nào, bao gồm âm đạo, hậu môn và không ngoại trừ qua đường miệng. Thậm chí yêu bằng miệng còn phát sinh nhiều mối nguy khó lường như ung thư vòm miệng, ung thư amidan…

"Yêu bằng miệng" để tránh phải "yêu" bằng "cửa chính"

Nhiều người cho rằng chọn cách thức “yêu” bằng miệng giúp họ tránh bệnh lây truyền qua đường tình dục. Chính vì quan niệm chủ quan này, nhiều người mắc bệnh tình dục mà không hay biết.
Chị Kim Anh ở Thanh Xuân mới lập gia đình được hơn 2 tháng, chị đang còn đi học, mọi lo toan kinh tế một mình chồng gánh vác. Muốn "kế hoạch" đến khi chị ra trường đi làm rồi mới sinh con, anh chị lựa chọn cách tránh thai. Anh chị chọn biện pháp "mặc áo mưa" và "tăng cường" bằng cách "yêu" qua miệng. Sau vài lần "yêu" bằng miệng chị thấy cơ quan sinh dục nổi vài nốt rất lạ, sờ vào chắc cứng.

Lúc đầu nghĩ rằng chỉ là mụn trứng cá bình thường vài ngày sẽ khỏi nhưng nốt này mất đi nốt kia mọc lên và bắt đầu có nốt xuất hiện ở ngón tay. Đi khám, bác sĩ kết luận chị bị nhiễm xoắn khuẩn giang mai. Chị Kim Anh băn khoăn "Mỗi lần quan hệ vợ chồng mình đều ý thức phòng tránh bằng cách dùng bao cao su rồi thì bệnh truyền qua đường nào được nhỉ?"
Một trường hợp tương tự, chị Minh Châm ở Hai Bà Trưng mới sinh cô con gái đầu lòng được 6 tháng. Chị cẩn thận trước khi quyết định có con hai vợ chồng cùng đi khám để tránh các bệnh truyền từ mẹ sang con và được bác sĩ kết luận là ổn. Thời kỳ bụng bầu to và 3 tháng đầu sau khi sinh vợ chồng chị phải hạn chế chuyện vợ chồng. Tránh va chạm quan hệ bộ phận sinh dục anh chị chọn phương pháp "yêu bằng miệng." Nhưng hơn 1 tháng nay chị thấy ngứa và rát quanh vùng âm hộ, tiểu tiện thấy đau, rát, có mủ vàng sẫm và đau âm ỉ ở bụng dưới. Đến Bệnh viện phụ sản Hà Nội khám, bác sĩ kết luận bộ phận sinh dục của chị có khuẩn lậu. Bác sĩ khuyến cáo bệnh của chị mới ở giai đoạn đầu nên điều trị sớm tránh tình trạng bệnh nặng sẽ khó chữa hơn.

Một số bệnh tình dục hoàn toàn có thể lây qua đường miệng

Những người có thắc mắc như chị Kim Anh hay chị Minh Châm không phải là ít, với họ thì: rõ ràng không quan hệ chính thức mà vẫn bị bệnh tình dục thì vô cùng... kì lạ và khó hiểu. Trên thực tế, mặc dù nguy cơ bị nhiễm bệnh lây truyền qua đường tình dục do "yêu bằng miệng" thấp hơn nhiều so với quan hệ tình dục đường âm đạo hoặc hậu môn song nó vẫn ẩn chứa nhiều mối hiểm họa. và khả năng lây truyền bệnh tình dục là hoàn toàn có thể xảy ra.

Các bệnh lây truyền qua đường tình dục hay gặp nhất do yêu bằng miệng bao gồm giang mai, bệnh lậu, sùi mào gà, nấm, herpes và chlamydia. Các bệnh này không chỉ có biểu hiện và gây khó chịu ở vùng sinh dục mà các triệu chứng có khi còn xuất hiện ngay trên mặt của người nhiễm bệnh.
Giang mai

Không phổ biến bằng bệnh chlamydia và bệnh lậu, nhưng bệnh giang mai lại có những biến chứng nguy hiểm hơn. Nếu không được chữa trị, viêm nhiễm có thể gây hại đến các cơ quan thiết yếu của sự sống, hệ thần kinh và thậm chí có thể gây tử vong.

Giang mai được coi là bệnh có triệu chứng thể hiện trên mặt rõ nhất, có thể xảy ra ở cả nam lẫn nữ và thường lây qua việc quan hệ tình dục bằng miệng. Những triệu chứng của bệnh giang mang đều có thể xuất hiện trên mặt của người bị bệnh như nốt mụn và vết lở loét ban đầu có ở môi, bên trong lưỡi và khoang miệng. Giai đoạn nặng hơn, bên trong và xung quanh miệng xuất hiện những vết sưng, các nốt phát ban mẩn đỏ trên mặt và lan rộng khắp người, nặng hơn có thể bị rụng tóc.

Tuy nhiên, ở thời kỳ đầu những vết loét thường không đau, chỉ kéo dài vài ngày hoặc vài tuần sau đó tự mất đi nhưng những nốt khác lại tiếp tục lan ra toàn thân. Sau nhiều tuần hoặc nhiều tháng có thể xuất hiện triệu chứng  khác như đau bụng, sốt nhẹ, sưng khớp, rát ở gan bàn tay, gan bàn chân. Nếu không được chữa trị kịp thời, bệnh giang mai sẽ xâm lấn gây nhiều bệnh nguy hiểm như bệnh tim, liệt, rối loạn tâm thần và dẫn đến tử vong.

Bệnh lậu

Bệnh lậu chủ yếu lây qua những chỗ bị xây xước nên yêu bằng miệng với người có bệnh, đối phương sẽ dễ dàng nhiễm khuẩn lậu. Thời kỳ đầu chưa có dấu hiệu rõ ràng nhưng sau nhiều lần quan hệ và qua một thời gian vùng họng sẽ có triệu chứng như bị đau rát, sưng tấy đỏ, miệng bẩn và có mủ. Hoặc ngứa và rát quanh vùng âm hộ, tiểu tiện thấy đau, rát, có mủ vàng sẫm và đau âm ỉ ở bụng dưới.

Bệnh Herpes sinh dụcHerpers sinh dục là do loại virus đơn dạng herpes gây ra. Các triệu chứng của bệnh bao gồm mụn nước giống như mụn giộp quanh miệng. Virus này có thể lây truyền qua tiếp xúc trực tiếp hoặc qua các dịch cơ thể như nước bọt. Tiếp xúc trực tiếp có thể xảy ra qua kiểu quan hệ tình dục bằng miệng còn tiếp xúc với các dịch cơ thể có thể xảy ra khi hôn.

Chị Thu Thủy quê Hoài Đức hiện đang là sinh viên một trường đại học ở Hà Nội là một điển hình. Thấy có mụn giộp quanh miệng, chủ quan cho rằng là bệnh ngoài da bình thường, Thủy đi mua thuốc kháng sinh về uống nhưng những nốt mụn nước này mọc dày hơn. Đi khám da liễu, làm xét nghiệm bác sĩ kết luận chị bị một loại virus Herpes xâm nhập. Thủy cho biết đã từng quan hệ với bạn trai nhiều lần bằng đường miệng vì nghĩ rằng quan hệ bằng đường miệng có thể sẽ không bị mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục. Hiện tại, Thủy đang phải tiêm thuốc điều trị ngoại trú.

Bệnh chlamydia
Thông thường vi khuẩn Chlamydia trachomatis hay xuất hiện hơn ở bộ phận sinh dục. Thời kỳ đầu bệnh thường không có biểu hiện rõ nhưng khi tấn công lên mặt, những vi khuẩn này có thể lan tới mắt sẽ gây ra các triệu chứng như mắt hồng hoặc viêm kết mạc nếu không được điều trị có thể dẫn tới mù vĩnh viễn.

Không chỉ lây qua kiểu quan hệ tình dục đường miệng, nhiễm chlamydia có thể lây qua da tay. Sau khi chạm vào bộ phận sinh dục của người nhiễm bệnh, bạn nên rửa tay bằng xà phòng trước khi chạm lên mặt hoặc dụi mắt.

Nhân viên tư vấn Phóng khám Maria khẳng định, quan niệm "yêu bằng miệng "tránh các bệnh tình dục hoàn toàn sai lầm. Nếu quan hệ tình dục tiếp xúc bộ phận sinh dục còn dùng sử dụng được các biện pháp an toàn như dùng bao cao su có thể tránh các bệnh tình dục cho bạn tình. Nhưng yêu bằng miệng thì không có biện pháp nào để phòng tránh, không những không tránh được các bệnh lây qua đường tình dục mà còn có thể phát sinh các bệnh về họng như ung thư vòm họng, ung thư amidan… Vì thế, quan hệ tình dục bằng miệng là không nên!

Phòng các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục

Biện pháp "hoàn hảo" phòng tránh tất cả bệnh tình dục?
Nhiều người có quan niệm sai lầm cho rằng bản thân không có nguy cơ mắc bệnh tình dục vì đã có những thao tác phòng tránh bệnh rất "hoàn hảo".
Hiện nay, các bệnh tình dục đang trở nên rất phổ biến và có khả năng lây nhiễm rất cao mà bất kỳ ai cũng có nguy cơ mắc bệnh nếu đã có quan hệ tình dục. Tuy nhiên, nhiều người lại có quan niệm sai lầm cho rằng bản thân không có nguy cơ đó vì đã có những thao tác phòng tránh bệnh rất an toàn và tuyệt đối hiệu quả.

Vệ sinh sạch sẽ là tránh được bệnh

Rất nhiều chị em tin rằng vệ sinh sạch sẽ sau khi quan hệ là đã có thể tránh được một số bệnh ở cơ quan sinh dục và các bệnh lây qua đường tình dục. Chính vì thế, để không bị bệnh hầu các các chị em sau khi quan hệ thường cố rửa vào sâu bên trong hoặc rửa bằng xà phòng để diệt vi khuẩn.

Chị Hương Trà ở Ba Đình, kết hôn 10 năm, và có hai con trai, gia đình hạnh phúc cả hai vợ chồng không có dấu hiện gì lạ về sức khỏe sinh sản. Trong một lần tình cờ chị cùng bạn bè đi khám bệnh phụ khoa, sau khi làm các xét nghiệm, bác sĩ kết luận chị bị nhiễm khuẩn lậu và cần điều trị kịp thời. Không tin mình mắc bệnh chị lý giải: "Bao nhiêu năm nay em rất cẩn thận trong việc quan hệ vợ chồng. Từ ngày lấy chồng em đã có thói quen sau khi quan hệ thì làm công tác vệ sinh sạch sẽ rồi mới yên tâm đi ngủ làm sao có thể nhiễm khuẩn lậu được?".Thói quen đó của chị Hương Trà cũng là thói quen của không ít chị em phụ nữ khác. Chị Mai Lan ở Cầu Giấy là một ví dụ. Quyết tâm "săn" con năm Rồng, cuối năm ngoái chị đến một phòng khám tư nhân gần viện 103 khám sức khỏe sinh sản để chuẩn bị cho việc có em bé. Bác sĩ cho biết, chị chưa thể sinh con mà cần chữa bệnh kịp thời vì chị bị nhiễm một loại vi khuẩn nấm đang lan rộng, đi sâu vào trong.

Ngạc nhiên với kết luận của bác sĩ vì hàng ngày chị vẫn vệ sinh "vùng kín" bằng xà phòng, thay quần "chíp" ngày 2 lần và rửa ráy sạch sau khi quan hệ thì nấm từ đâu mà có?! Nghi ngờ kết quả của phòng khám tư, chị đến Bệnh viện phụ sản Trung Ương, bệnh viện chuyên khoa hàng đầu về sản để xác minh. Kết luận của bác sĩ vẫn không có gì thay đổi. Chị Lan không chỉ nuối tiếc vì đã không thể sinh được con năm rồng mà buồn hơn khi phải đi chữa bệnh mà không hiểu vì sao mình "sạch sẽ" đến thế rồi mà vẫn bị bệnh.
Cho tinh binh đứng ngoài thì không dính bệnh

Ngoài việc thụt rửa để tránh bệnh, nhiều người cho rằng xuất tinh ngoài âm đạo thì cũng không phải lo bị bệnh nữa. Theo quan niệm này thì tinh trùng không được xuất vào âm đạo phụ nữ thì vi khuẩn, vi rút không thể vào bên trong cơ quan sinh dục phụ nữ. Tuy nhiên, trên thực tế, việc xuất tinh ngoài âm đạo chỉ có hiệu quả nhất định trong việc tránh thai mà không thể tránh được các bệnh lây qua đường tình dục.

Chị Hiền Trang ở Hà Đông đang điều trị ngoại trú một bệnh tình dục tại Bệnh viện phụ sản Hà Nội. Vợ chồng chị có một bé trai gần 2 tuổi và đang kế hoạch, chưa có ý định sinh tiếp. Vì đặt vòng không hợp chị thường xuyên bị đau và không quan hệ được mà dùng thuốc tránh thai nhiều thì sợ vô sinh nên vợ chồng chị thống nhất với nhau khi quan hệ thì xuất tinh ngoài âm đạo để tránh có thai ngoài ý muốn. Cho rằng xuất tinh ngoài rồi thì không cần dùng bao cao su, cũng không vấn đề gì nên vợ chồng chị ung dung áp dụng cách này cho những lần quan hệ vợ chồng. Chỉ đến khi thấy "vùng kín" nổi mụn, có mủ và mùi hôi khó chịu, chị Trang đi khám bác sĩ thì được kết luận nhiễm khuẩn Chlmaydia - một loại khuẩn lây qua đường tình dục, chị vô cùng ngạc nhiên. Tư vấn nhiều bác sĩ thì chị được biết, xuất tinh ngoài âm đạo chỉ hạn chế việc có thai và không tránh được bệnh tình dục.
Hoàn toàn chỉ là quan niệm sai lầm

Ngoài những chủ quan sai lầm về bệnh lây qua đường tình dục nói trên, rất nhiều chị em còn cho rằng đi tiểu sau khi quan hệ sẽ không bị bệnh tình dục vì nước tiểu đã đẩy hết vi khuẩn ra ngoài. Thế nhưng, tất cả các quan niệm trên đều là sai lầm, nếu không sớm phát hiện bệnh sớm có thể dẫn đến những hậu quả đáng tiếc.

Bác sĩ Lê Thị Kim Dung, trưởng phòng sản, Trung tâm y tế lao động Thái Hà cho biết, phương pháp phòng bệnh tốt nhất là không quan hệ với gái mại dâm, nên chung thủy với 1 bạn tình, không quan hệ với nhiều bạn tình, thực hiện quan hệ tình dục an toàn. Khi có những dấu hiệu bất thường không nên chủ quan tự mua thuốc về điều trị mà đến bác  sĩ để xác định chính xác và điều trị đúng bệnh.

Các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng những phụ nữ tham gia vào thụt rửa sẽ gây ảnh hưởng đến vấn đề sức khỏe. Thụt rửa không những không có tác dụng loại trừ các bệnh lây qua đường tình dục mà có khi còn gây hại vì vô tình diệt một số vi khuẩn, các vi sinh vật tự nhiên có trong âm đạo. Thậm chí, làm âm đạo vị tổn thương, dẫn đến nhiễm trùng và nếu tiếp tục thụt rửa, nhiễm trùng sẽ càng nặng hơn. Nguy hiểm hơn, khi vi khuẩn gây nhiễm trùng sẽ di chuyển sâu hơn vào tử cung, buồng trứng và ống dẫn trứng sẽ gây nên những biến chứng khó lường.Vì vậy, chỉ nên vệ sinh âm đạo bằng nước sạch theo cách bình thường.

Bên cạnh đó, xuất tinh ngoài cũng không phải là cách để tránh các bệnh lây qua đường tình dục. Bởi các vi khuẩn, virus gây ra các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục (như vi rút HIV, vi rút viêm gan B, lậu cầu khuẩn, xoắn khuẩn giang mai…) tồn tại trong các dịch tiết trong cơ quan sinh dục của người đã nhiễm bệnh. Trong quá trình giao hợp cơ quan sinh dục nam đã tiết ra một loại dịch nhầy, trong dịch có thể không có tinh trùng nhưng các loại vi khuẩn, virus bệnh thì vẫn tồn tại. Vi khuẩn hoàn toàn có thể thâm nhập vào cơ thể bạn tình thông qua những lần cọ xát trực tiếp. Vì thế, việc lây nhiễm các bệnh qua đường tình dục chắc chắn sẽ xảy ra khi bạn tình mắc bệnh. Phương pháp "cho tinh binh đứng ngoài" để tránh các bệnh lây truyền qua đường tình dục hoàn toàn không có tác dụng.

Như vậy, các loại vi khuẩn, vi rút của bệnh lây nhiễm qua đường tình dục không chỉ có mặt trong tinh dịch mà còn trong dịch tiết sinh dục của bạn tình khi hai người quan hệ tình dục. Nếu một trong hai bạn đã mắc bệnh từ trước đó và hai bạn đã có tiếp xúc âm đạo - dương vật mà không sử dụng bao cao su thì người còn lại sẽ bị nhiễm bệnh, cho dù bạn trai của bạn đã xuất tinh ra ngoài.