Chủ Nhật, 6 tháng 5, 2012

Sự co hồi của tử cung sau đẻ

Sự co hồi của tử cung sau đẻ

Sau đẻ, tử cung cao trên khớp mu 13 cm, trung bình mỗi ngày tử cung co hồi 1 cm, ngày đầu có thể co nhanh hơn 2 - 3 cm và sau đẻ 12 - 13 ngày không thấy đáy tử cung trên khớp vệ. thai nghén .net



Vì trong tử cung vẫn còn máu cục và sản dịch, nên thỉnh thoảng tử cung có những cơn co bóp mạnh để tống máu cục và sản dịch ra ngoài gây ra những cơn đau ở tử cung, ở người con so thường ít gặp vì chất lượng cơ tử cung còn tốt, tử cung luôn luôn co chặt lại. Các cơn đau tử cung thường gặp ở người con rạ, mức độ đau nhiều hay ít tuỳ theo cảm giác của mỗi người, nhưng càng đẻ nhiều lần càng đau vì chất lượng cơ tử cung yếu dần, tử cung cần phải co bóp mạnh hơn các lần trước để đẩy máu cục và sản dịch ra ngoài. Đôi khi, các cơn đau tử cung này cần phải dùng thuốc giảm đau vì cường độ quá mạnh. Ở một số sản phụ, các cơn đau này có thể kéo dài nhiều ngày. Các cơn đau tử cung đặc biệt cũng có thể gặp khi cho trẻ bú do oxytocin được giải phóng ra nhiều. Thông thường các cơn đau giảm dần về cường độ và sản phụ thấy dễ chịu vào ngày thứ 3 sau đẻ.

Sau đẻ cần phải theo dõi sự co hồi tử cung bằng cách đo chiều cao tử cung, tính từ khớp mu tới đáy tử cung. Sự co hồi tử cung phụ thuộc vào:

- Ở người con so tử cung co hồi nhanh hơn ở người con rạ.
- Ở người đẻ thường co nhanh hơn người mổ đẻ.
- Người cho con bú co nhanh hơn người không cho con bú.
- Tử cung bị nhiễm khuẩn co chậm hơn tử cung không bị nhiễm khuẩn.
- Bí đái, táo bón sau đẻ tử cung bị đẩy lên cao và co hồi chậm.
Trên lâm sàng nếu thấy tử cung co hồi chậm, tử cung còn to và đau, bệnh nhân sốt, sản dịch hôi cần phải nghĩ tới nhiễm khuẩn hậu sản.
Ảnh đính kèm

Album Smart Symphonies cho bé thông minh hơn

Album Smart Symphonies cho bé thông minh hơn




Đây là một album là mình nghĩ là rất hay, bổ ích và cần thiết cho tất cả mọi người. Nhạc cổ điển từ trước đến nay vẫn được đánh giá là thể loại nhạc bác học và giúp cho sự phát triển trí não, nhất là ở thai nhi và trẻ em. Mình đã mua 1 CD Smart Symphonies này, bản thân cũng rất thích nên muốn chia sẻ nó với mọi người. Các bạn có thể download rất dễ dàng và nên nghe thường xuyên. Album gồm 1 track Introdution và 14 track nhạc cổ điển, của những nhà soạn nhạc nổi tiếng thế giới như Mozart, Bach, Debussy,...

Track 2 là một bản nhạc vui tươi như khi bạn được đi picnic trong thời tiết thu mát mẻ.

Track 7 là những giai điệu cực vui và ngộ nghĩnh mà bé Cún nhà mình rất thích, cứ bật là bé chăm chú nghe và gật gù.

Track 8 mang đến những âm thanh dịu dàng, êm dịu như muốn đi sâu vào lòng người.

Track 12 nghe cũng rất đáng yêu.

Track 15 là một bản nhạc vô cùng nổi tiếng và quen thuộc với một bản phối du dương mà có thể nhiều bạn sẽ nhận ra đó. Hãy nghe thử xem nhé.



Đây là đoạn giới thiệu của Mead Johnson, in trên bìa đĩa.

Nghiên cứu cho thấy rằng những khinh nghiệm mà trẻ có được trong những năm đầu đời, bao gồm sự tham gia tích cực trong lĩnh vực âm nhạc là nền tảng cho cách suy nghĩ, cách học và cách liên tưởng tới những vấn đề xung quanh. Thêm vào đó, nhạc cổ điển cũng có thể làm cho bé sơ sinh trở nên êm dịu, yên tĩnh và có thể dễ dàng hoà nhập với cuộc sống bên ngoài cơ thể mẹ. Chính bởi những lí do đó, Mead Johnson đã hợp tác với tổ chức Grammy mang tặng những tác động tốt đẹp này của âm nhạc đến với trẻ em toàn thế giới.

Những bản nhạc trong đĩa CD chọn lọc này và những hoạt động cùng chơi với trẻ trong khi nghe nhạc sẽ giúp bạn và bé cùng nhau thưởng thức. Khi bạn dành thời gian để chăm sóc con bạn, cũng chính là lúc bạn đang thúc đẩy sự phát triển về tình cảm, xã hội cũng như trí thông minh sáng tạo của bé, đó chính là vốn sống con bạn sẽ mang theo suốt cả cuộc đời.


Điều hành sản xuất: Michael Greenne
Biên soạn: Andrew N, French.



Download album Smart Symphonies tại đây


List nhạc trong album:
Track 1 - Introduction (Giới thiệu) - Dr. Lori Custodero.
Track 2 - Carabanda - Anonymous.
Track 3 - Sonata no. 1 for cello and piano in E minor - Brahms.
Track 4 - German Dance No. 3 - Mozart.
Track 5 - Recuerdos de la Alhambra - Tarrega.
Track 6 - Clair de Lune - Debussy.
Track 7 - Fuggi, Fuggi, Fuggi da Questo Cielo - Giuseppino.
Track 8 - Air for the G String - Bach.
Track 9 - Divertimento in D: Menuetto - Mozart.
Track 10 - Dreaming - Beach.
Track 11 - Corelli - Corelli.
Track 12 - Weeping Willow - Joplin.
Track 13 - I am a Girl from the Suirside - Traditional Irish.
Track 14 - Short Trip Home - Meyer.
Track 15 - Kanon in D - Pachelbel.
Chúc bạn và bé yêu có những giây phút thư thái cùng album này.
Đặt mua qua số điện thoại : 0922634582 hoặc 0987722582 hoặc mail : Vietphapclinic@yahoo.com
50.000/ đĩa giao tại nhà

Thay đổi giải phẫu sinh lý ở bộ phận sinh dục nữ

Thay đổi giải phẫu sinh lý ở bộ phận sinh dục nữ




Bạn biết gì về sự thay đổi của chính cơ thể mình ngay từ khi bắt đầu mang thai, chúng biến đổi ra sao và rất nhiều thứ bạn có thể khám phá thêm trong bài viết dưới đây. thai nghén .net



Cơ thể bạn thay đổi thế nào khi có thai

Thay đổi ở thân tử cung:


Trong khi có thai và trong khi đẻ, thân tử cung là bộ phận thay đổi nhiều nhất của cơ thể. Trứng làm tổ ở niêm mạc tử cung, tại đây hình thành bánh rau, màng rau, làm nên buồng ối chứa thai. Trong khi chuyển dạ đẻ thì tử cung dần dần biến thành ống dẫn thai ra. Để đáp ứng yêu cầu đó, thân tử cung thay đổi về kích thước, tính chất lẫn vị trí.


a. Trọng lượng:


Tử cung khi có thai nặng 50 - 60 g. Vào cuối thời kỳ thai nghén, tử cung cân nặng gần 1000 g. Khi chưa có thai, chiều sâu buồng tử cung đo được 6 - 8 cm, nhưng vào cuối thời kỳ thai nghén lên tới 32 cm. Thân tử cung cũng phát triển không đều. Trong nửa đầu của thời kỳ có thai tổ chức tử cung phát triển mạnh và trọng lượng tăng chủ yếu vào giai đoạn này. Vào giữa thời kỳ thai nghén, vào các tháng thứ 4 - 5, thành tử cung dầy nhất, khoảng 2,5 cm, trong khi không có thai chỉ dầy 1 cm. Vào cuối thời kỳ thai nghén, chiều dầy thân tử cung giảm xuống còn 0,5 - 1 cm. Sự phát triển quan trọng này của tử cung là do 3 yếu tố: bản thân các sợi cở tử cung đã sinh sôi nẩy nở hàng loạt, các mạch máu, kể cả động mạch, tĩnh mạch và mao mạch đều tăng lên và cương tụ. Cuối cùng, cũng như toàn bộ cơ thể và các cơ quan khác thuộc bộ phận sinh dục, tử cung giữ nước rất nhiều. Cơ tử cung to lên còn nhờ ở sự hình thành các sợi cơ mới, đồng thời với sự phì đại của các sợi cơ. Các sợi cơ có thể phát triển theo chiều rộng gấp 3 - 5 lần, theo chiều dài gấp 10 lần. Trong nửa sau của thười kỳ thao nghén, sự tạo thêm các sợi cơ mới đã giảm đi hoặc chấm dứt. Trong giai đoạn này nếu cơ tử cung có lớn hơn trước cũng chỉ do phù và phì đại là chủ yếu.

b. Mật độ:

Khi không có thai, mật độ cơ tử cung chắc, nắn có tính đàn hồi. Nhưng trong khi có thai, các tổ chức tế bào xung huyết nhiều nên hoàn toàn mềm, dễ nắn lún xuống. Eo tử cung có thể nắn không thấy và khối thân tử cung tách rời khỏi khối cổ tử cung. Đó là dấu hiệu Hegar mà khi chẩn đoán thai nghén trong những tháng đầu hay được nhắc tới. Trong khi có thai, những cơ trơn khắp cơ thể người mẹ đều giảm trương lực nên tử cung cũng chịu tình trạng chung đó và mềm đi.

c. Khả năng co rút và co bóp:

Đã tăng lên rất lớn. Đó là dấu hiệu đặc trưng của thai nghén. Nếu không có thai, không thay đổi bao nhiêu trong một thời gian tương đối ngắn. Trong khi có thai, thể tích tử cung co lại còn 2/3, đang từ mềm toàn bộ có thể trở thành rắn chắc lại. Khả năng co rút này cũng có thể áp dụng để chẩn đoán thai nghén. Khả năng tăng sự co bóp của tử cung là do 2 yếu tố: các sợi cơ tử cung đã tăng tình trạng dễ kích thích nên dễ bị co bóp hơn, đồng thời khi có thai, các sợi cơ thường xuyên ở tình trạng giãn nên dễ dàng và sẵn sàng để co rút lại.

d. Hình thể:

Trong 3 tháng đầu, tử cung tròn như quả bóng, đường kính trước sau to nhanh hơn đường kính ngang. Phần dưới phình to, có thể nắn thấy qua cùng đồ âm đạo ( dấu hiệu noble). Trong những tháng này, hình thể tử cung không đều vì thai không chiếm toàn bộ buồng tử cung, làm cho tử cung không đối xứng. Tính chất này cũng có thể dùng để chẩn đoán thai nghén và gọi là dấu hiệu Piszkacsek. Vào 3 tháng giữa, tử cung hình quả trứng, cực nhỏ ở dưới, cực to ở trên. Đáy tử cung phình to, nhất là ở mặt sau. Về sau khi thai đã lớn, tử cung có hình dáng in tư thế thai nằm bên trong tử cung: hình quả trứng, hình trái tim, hình bè ngang vv..vv




e. Vị trí:

Khi chưa có thai, tử cung nằm trong tiểu khung, khi có thai thì lớn lên và tiến vào trong ổ bụng. Không kể tháng đầu, tử cung nấp sau khớp mu, từ tháng thứ hai trở đi, cứ mỗi tháng trung bình tử cung phát triển lên phía trên khớp mu 4 cm. Nhờ tinh chất phát triển theo chiều cao của tử cung như thế, người ta có thể tính được tuổi thai theo công thức:

Tuổi thai ( tháng) = Chiều cao tử cung (cm) / 4

Ngoài ra, trong khi có thai, góc trái của tử cung hơi hướng ra phía trước, vì ổ bụng ở phía bên phải của cột sống rộng hơn nên sừng phải của tử cung chìm về phía đó sâu hơn. Sừng trái của tử cung nhô ra phía trước.


f. Kiến trúc:

Khi chưa có thai, tử cung chia làm 3 phần: thân, eo và cổ. Thành tử cung có 3 phần: phúc mạc, cơ và niêm mạc.

- Phúc mạc phì đại theo lớp cơ tử cung. ở phần trên của tử cung phúc mạc dính vào lớp cơ. ở đoạn dưới của tử cung, phúc mạc có thể bóc tách được dễ dàng ra khỏi lớp cơ, vì giữa phúc mạ và lớp cơ có tổ chức liên kết khá dày. Đó là ranh giới để phân biệt đoạn thân tử cung với đoạn dưới tử cung. ở đường ranh giới này có một tĩnh mạch khá lớn vắt ngang. Lợi dụng tính chất bóc tách phúc mạc ra khỏi lớp cơ đoạn dưới tử cung, người ta mổ lấy thai qua đoạn dưới để có thể phủ được phúc mạc sau khi khâu phục hồi các mép rạch của cơ tử cung.

- Thân tử cung có 3 lớp cơ: lớp cơ ngoài, lớp cơ trong và lớp cơ đan ở giữa. Lớp cơ đan rất quan trọng, vì trong mạng lưới của lớp cơ này có nhiều mạch máu. Khi đẻ rồi lớp cơ đan co chặt, thít các mạch máu lại, đảm bảo không băng huyết. Đó là sự cầm máu sinh lý.

2.2. Thay đổi ở eo tử cung ( đoạn dưới tử cung)

Trước khi có thai, eo tử cung chỉ là một vòng nhỏ, chiều cao chỉ 0,5 - 1 cm. Khi có thai, eo tử cung giãn rộng, dài và mỏng biến thành đoạn dưới tử cung. Đó là do ngôi thai lọt dần. Cho tới khi chuyển dạ, đoạn dưới tử cung dài khoảng 10 cm. Như thế đoạn dưới được thành lập dần dần trong suốt thời kỳ thai nghén. Nhưng đoạn dưới chỉ hình thành hoàn toàn khi có sự chuyển dạ, nhờ sự co bóp của cơ tử cung. Đối với người con so, sự thành lập đoạn dưới xảy ra từ đầu tháng thứ 9. Ở người con rạ, đoạn dưới thành lập vào giai đoạn đầu của cuộc chuyển dạ.

Đoạn dưới tử cung có nhiệm vụ quan trọng trong cuộc đẻ. Về cấu trúc đoạn dưới chỉ có hai lớp. Lớp cơ ngoài và lớp cơ trong, không có lớp cơ đan ở giữa. Vì vậy, ngoại sản mạc hình thành ở đoạn dưới cũng không dầy bằng đoạn thân. Cũng do vậy đoạn dưới tử cung là phần dễ vỡ nhất trong cuộc đẻ, dễ chảy máu nhất khi có rau bám thấp.

2.3. Thay đổi ở cổ tử cung:

Cổ tử cung thay đổi ít hơn thân tử cung. Khi có thai, cổ tử cung mềm ra, mềm từ ngoài đến trung tâm. Do đó khi có thai, trong những tuần đầu khám cổ tử cung như cái trụ bằng gỗ cuốn nhung. Cổ tử cung của người con rạ mềm sớm hơn của người con so. Vị trí và hướng của cổ tử cung không thay đổi. Nhưng khi đoạn dưới được thành lập, cổ tử cung thường quay về phía xương cùng, vì đoạn dưới phát triển nhiều ở mặt trước hơn là mặt sau.

Trong khi có thai, biểu mô của ống cổ tử cung có mầu tím do các mạch máu ở phía dưới bị cương tụ, đây là dấu hiệu Chadwick được bắt đầu xuất hiện từ tuần thứ 6 - tuần thứ 8 của thai nghén.

Các tuyến trong ống cổ tử cung cũng không chế tiết hoặc chế tiết rất ít. Chất nhầy cổ tử cung đục và đặc tạo thành một cái nút bịt kín lỗ cổ tử cung, bảo vệ không cho thụ tinh lần thứ hai và không cho nhiễm khuẩn bộ phận sinh dục trên. Chỉ khi chuyển dạ cổ tử cung xoá và mở, chất nhầy được tống ra ngoài, ngôn ngữ dân gian thường gọi là “ra nhựa chuối”.

2.4. Thay đổi ở âm đạo, âm hộ:

Trong khi có thai, các lớp biểu mô ở âm đạo không phát triển, không trưởng thành để thành những lớp tế bào bề mặt, những nhân đông như khi chưa có thai. Vì thế, phiến đồ âm đạo sẽ cho thấy chỉ số nhân đông rất thấp ở người phụ nữ khi có thai. Các tế bào tụ thành mảng có nhiều tế bào hình thoi. Dựa vào xét nghiệm tế bào học âm đạo có thể đánh giá được tình hình hoạt động nội tiết của thai phụ từ đó tiên lượng về mặt giữ thai. Nhưng trong khi đó âm đạo dài ra và dễ giãn, phần do tính chất đàn hồi của thành âm đạo tăng lên, phần vì các yếu tố tế bào cũng tăng phát triển. Biểu mô âm đạo dầy lên, các nụ âm đạo phù mọng và đôi khi nổi lên,ở phía dưới biểu mô âm đạo có nhiều tĩnh mạch giãn nở làm cho âm đạo có mầu tím. Chất dịch trong âm đạo đã toan hơn nên làm cho các mầm bệnh không sinh sôi nẩy nở được.

Các môi lớn và môi nhỏ có những tĩnh mạch giãn rộng, nhìn mắt thường cũng có thể thấy được. Dưới da có những mạng lưới tĩnh mạch phong phú làm cho âm vật cũng có mầu tím.

2.5. Thay đổi ở buồng trứng:

Trong ba tháng đầu, hoàng thể tiếp tục phát triển, hoàng thể thai nghén to hơn hoàng thể kinh nguyệt, các bọc noãn không chín, người phụ nữ không hành kinh. Tuy nhiên có trường hợp hành kinh trong khi có thai, mặc dầu đó là hiện tượng không bình thường. Các bọc noãn trong trường hợp này phát triển đến một mức độ nhất định rồi teo đi. Buồng trứng trong khi có thai cũng xung huyết như những cơ quan sinh dục khác, cũng phù và to lên, nặng lên. Có thai trên 3 tháng, hoàng thể dần dần thoái triển.

2.6. Thay đổi ở vòi trứng:

Trong khi có thai, vòi trứng không làm nhiệm vụ gì. Tuy thế hiện tượng xung huyết và mềm tổ chức cũng đã xảy ra. Một đôi chỗ trên vòi trứng cũng có thể xuất hiện tình trạng sản bào hoá ( biến thành màng rụng), nhất là khi thai nghén bắt đầu. Hiện tượng sản bào hoá có thể xẩy ra ở một số nơi khác, tại một số nơi của ổ bụng, nghĩa là ngoài tử cung và vòi trứng.
Ảnh đính kèm

Lịch khám thai, siêu âm thai, bổ sung vi chất và tiêm phòng

Lịch khám thai, siêu âm thai, bổ sung vi chất và tiêm phòng

Lần 1: Tuần thứ 5

- Siêu âm (kiểm tra túi phôi trong buồng tử cung)
- Khám thai, kiểm tra nội tiết
- Uống thuốc vi chất dinh dưỡng
- Uống (tiêm) thuốc nội tiết (nếu cần)

Lần 2: Tuần thứ 8

- Siêu âm (kiểm tra tim thai)
- Khám thai, kiểm tra nội tiết
- Uống thuốc vi chất dinh dưỡng
- Uống (tiêm) thuốc nội tiết (nếu cần)

Lần 3: Tuần thứ 12

- Siêu âm (kiểm tra hình thái thai nhi)
- Khám thai, kiểm tra nội tiết
- Uống thuốc vi chất dinh dưỡng
- Uống (tiêm) thuốc nội tiết (nếu cần)

Lần 4: Tuần thứ 16

- Siêu âm
- Khám thai, kiểm tra nội tiết
- Xét nghiệm máu (Tripple test)
- Uống thuốc vi chất dinh dưỡng
- Uống canxi, sắt và magie B6
- Uống (tiêm) nội tiết (nếu cần)

Lần 5: Tuần thứ 20

- Siêu âm
- Khám thai, kiểm tra nội tiết
- Uống thuốc vi chất dinh dưỡng
- Uống thuốc canxi, sắt, magie B6
- Kiểm tra thai máy (3 lần / ngày)

Lần 6: Tuần thứ 22

- Siêu âm (kiểm tra hình thái thai nhi)
- Kiểm tra thai máy (3 lần / ngày)

Lần 7: Tuần thứ 26

- Siêu âm
- Khám thai, kiểm tra nội tiết
- Uống thuốc vi chất dinh dưỡng
- Uống thuốc canxi, sắt, magie B6
- Kiểm tra thai máy (3 lần/ ngày)

Lần 8: Tuần thứ 30

- Xét nghiệm máu, thử tiểu
- Làm thủ tục đăng ký đẻ
- Tiêm phòng uốn ván mũi thứ nhất trong thời gian mang thai (AT1)
- Khám thai, siêu âm
- Uống vi chất dinh dưỡng
- Uống canxi, sắt
- Bắt đầu ăn nhạt cho đến khi sinh

Lần 9: Tuần thứ 32

- Siêu âm (kiểm tra hình thái thai nhi)
- Khám thai
- Thử tiểu
- Uống thuốc vi chất dinh dưỡng, canxi, sắt

Lần 10: Tuần thứ 34

- Khám thai, thử tiểu, siêu âm
- Tiêm phòng uốn ván mũi thứ 2 (trong thời gian mang thai) (AT2)
- Uống thuốc vi chất dinh dưỡng, canxi, sắt

Lần 11: Tuần thứ 36

- Khám thai, thử tiểu, siêu âm
- Uống thuốc vi chất dinh dưỡng, canxi, sắt

Lần 12: Tuần thứ 38

- Khám thai, thử tiểu, siêu âm
- Uống thuốc vi chất dinh dưỡng, canxi, sắt

Lần 13: Tuần thứ 39

- Khám thai, thử tiểu, siêu âm
- Uống thuốc vi chất dinh dưỡng, canxi, sắt

Lần 14: Tuần thứ 40

- Khám thai, thử tiểu, siêu âm
- Uống thuốc vi chất dinh dưỡng, canxi, sắt

Đối với tiêm phòng uốn ván

Mẹ có thể tiêm phòng uốn ván trước khi mang thai hoặc trong lúc mang thai mà hoàn toàn vô hại với em bé.

Lịch tiêm vacxin uốn ván cho phụ nữ: 5 mũi

Mũi 1: Càng sớm càng tốt khi có thai lần đầu hoặc nữ 15-35 tuổi ở vùng có nguy cơ cao.
Mũi 2: Ít nhất 4 tuần sau mũi 1.
Mũi 3: Ít nhất 6 tháng sau mũi 2 hoặc trong kỳ có thai sau.
Mũi 4: Ít nhất 1 năm sau mũi 3 hoặc trong kỳ có thai sau.
Mũi 5: Ít nhất 1 năm sau mũi 4 hoặc trong kỳ có thai sau. Không có khoảng cách tối đa giữa các mũi tiêm uốn ván.
--------------------oOo------oOo------oOo--------------------

Các bệnh cần tiêm phòng trước khi mang thai
Rubella

Đây là bệnh lành tính, khỏi trong thời gian ngắn và hoàn toàn có thể phòng ngừa. Nếu mẹ bị nhiễm bệnh Rubella trong 3 tháng đầu hoặc tháng cuối của thai kỳ có thể gây sảy thai, sinh non hoặc em bé ra đời có dị tật. Mọi lứa tuổi đều có thể bị nhiễm Rubella. Ngay cả người khỏe mạnh nhất cũng không nên thờ ơ với bệnh này.

Trước khi tiêm phòng Rubella, bạn cần nhớ chính xác xem mình đã tiêm chủng bao giờ chưa, có thể làm xét nghiệm và cần sự tư vấn của bác sỹ.

Viêm gan B

Ở Việt Nam, rất nhiều người bị nhiễm virus viêm gan B. Trước khi có bầu, bạn cũng nên làm xét nghiệm và tiêm phòng viêm gan B. Vì bệnh này rất dễ tới bệnh ung thư gan.

Thủy đậu

Thủy đậu có thể gây sốt và vùng da nổi ban ngứa ngáy. Khoảng 2% số bé có mẹ mắc thủy đậu trong 5 tháng đầu của thai kỳ có nguy cơ mắc dị tật, gồm dị dạng hình thể, liệt chân tay. Ngoài ra, người mẹ mắc thủy đậu còn có thể chuyển virus gây bệnh này sang cơ thể con trong khi sinh nở.

Trước khi chuẩn bị có bầu, bạn cũng nên tiêm phòng bệnh thủy đậu và ít nhất sau 2 tháng mới nên có em bé.

Tiêm phòng cúm

Bạn cũng nên tiêm phòng cúm trước khi có ý định mang bầu để phòng tránh những bị hắt hơi, sổ mũi, cúm trong thời gian mang thai. Trung tâm ngăn ngừa và kiểm soát dịch bệnh Mỹ khuyến cáo, bà bầu nên tiêm phòng cúm trong mùa cúm, từ tháng 11 đến tháng 3. Văcxin phòng cúm được coi là an toàn cho sức khỏe mẹ và bé. Thời điểm tiêm phòng cúm tốt nhất là tháng 10 hoặc tháng 11 - giai đoạn cúm bùng phát mạnh.

Với trường hợp chưa tiêm phòng mà nhiễm cúm, bạn cần đi khám sớm, nghỉ ngơi và uống đủ nước. Hãy đi khám ngay nếu xuất hiện triệu chứng cúm như hắt hơi, ho hay chảy nước mũi, khó thở

Thứ Bảy, 5 tháng 5, 2012

Nguy cơ sinh con bị dị tật

Tôi có nguy cơ sinh con bất thường không?



Khi mang thai, người mẹ nào cũng vậy, luôn chăm chút cẩn thận từ sự phát triển nhỏ nhất của con mình. Điêù kiện sống ô nhiễm, ốm đau bệnh tât, nhìn thấy người khác sinh con bất thường làm cho các bà mẹ đang mang thai không khỏi lo lắng về đứa con của mình. thai nghén .net




Quang cảnh tại một trung tâm chẩn đoán trước sinh


Câu hỏi thường thấy là: liệu bào thai tôi đang mang có vấn đề gì không???


Đó cũng là lý do khiến các bà mẹ đi khám siêu âm rất nhiều lần, tốn nhiều tiền của, thời gian. Tuy vậy, nếu bạn lo lắng thì có thể tham khảo ý kiến của chúng tôi dưới đây.

NGUY CƠ SINH CON BỊ DỊ TẬT BẨM SINH

DTBS là tất cả những bất thường về hình thái, cấu trúc, sinh hóa xuất hiện trong đời sống cá thể có nguyên nhân từ trước khi sinh ra. Dị tật bẩm sinh không những mang lại cuộc sống kém hạnh phúc cho người dị tật mà còn mang đến sự đau buồn cho gia đình và xã hội cần phải quan tâm nhiều, tạo điều kiện trợ giúp.

Các yếu tố nguy cơ của việc sinh con bị DTBS:

1- Tuổi của người mẹ mang thai.

Có rất nghiều nghiên cứu đã chứng minh tuổi mẹ càng cao thì khả năng sinh ra đứa con bị DTBS càng lớn. Mốc để bạn xác định xem mình có nằm trong nhóm nguy cơ đó không là mốc 35 tuổi. Khi vượt quá 35 tuổi thì nguy cơ sinh con DTBS của bạn tăng theo cấp số nhân. có 30-40% số trẻ bị Down do các bà mẹ trên 35 tuổi sinh ra.

2- Tiền sử gia đình

Nhiều bệnh, tật bẩm sinh là do di truyền, do vậy nếu bạn hoặc chồng bạn có người thân trong gia định mắc bệnh dị tật bẩm sinh như bệnh Down, bệnh chậm phát triển trí tuệ... thì bạn hoặc chồng bạn hoặc cả hai nên đi làm xét nghiệm di truyền tại các trung tâm để xác định xem chồng hay vợ có mang "gen bệnh" hay không.

Hiện nay kĩ thuật hiện đại cho phép xác định được rất nhiều bệnh di truyền. Ở Hà Nội có các trung tâm tư vấn và chẩn đoán trước sinh như Bệnh viện Phụ sản Trung Ương, Phụ sản Hà Nội, Khoa di truyền Đại học Y Hà Nội...

Và khi đã có thai, bất kì ở tuổi thai nào, bạn phải đến các trung tâm như thế để làm sàng lọc và xét nghiệm giúp khẳng định con bạn có bình thường hay không. Xét nghiệm sàng lọc thường rẻ nhưng chỉ chính xác khoảng 70% trong khi xét nghiệm di truyền có thể lên tới 99% do áp dụng công nghệ và kĩ thuật cao.

Hãy đến để được tư vấn cẩn thận hoặc có thể liên hệ trao đổi với chúng tôi, hoàn toàn miễn phí!!!

3- Tiền sử mang thai chết lưu và xảy thai.

Nếu bạn từng bị thai chết lưu hoặc bị xảy thai thì khả năng sinh con bị DTBS là rất lớn bởi DTBS là nguyên nhân lớn nhất gây xảy thai và thai chết lưu. Theo WHO, phần lớn thai bị DTBS chết trong giai đoạn bào thai, một phần chết khi sinh ra và một phần rất nhỏ có thể sống được và chưa tới 1% có thể sống bình thường.

Việc bạn cần làm, cũng giống như trường hợp trong gia đình có người bị DTBS là hãy đến các trung tâm chẩn đoán trước sinh để làm sàng lọc và chẩn đoán.

4- Bị ốm trong khi mang thai.

Người ta quan tâm nhất tới thời điểm 3-4 tháng đầu vì đó là thời điểm mà bào thai đang hình thành các cơ quan tạo nên cơ thể hoàn chỉnh. Bị cúm hay sởi trong giai đoạn này rất nguy hiểm, khả năng sinh con DTBS cao. Tuy nhiên không phải loại cúm nào, loại sởi nào cũng gây bất thường cho thai. Do vậy, điều cần làm là bạn đến bệnh viện sản hay các trung tâm có khả năng khám, xét nghiệm chẩn đoán loại virus, chẩn đoán bệnh, Bác sĩ sẽ cho bạn biết nguy cơ là bao nhiêu phần trăm. Từ đó mới có thể biết là bạn có tiếp tục mang thai bình thường hay cần phải làm xét nghiệm thêm để chẩn đoán hay phải phá bỏ thai. VD: với bệnh rubella( sởi Đức) thì hầu như bạn phải phá bỏ thai.

Ngoài ra còn phải kể tới tình trạng tiếp xúc với các chất độc hại như thuốc trừ sâu, diệt cỏ, chất độc màu da cam, các loại thuốc sử dụng trong quá trình mang thai. vì hạn chế của bài viết nên có lẽ tôi sẽ đề cập thêm về vấn đề này trong bài viết sau.

Nỗi ám ảnh về dị tật bẩm sinh

Nỗi ám ảnh về dị tật bẩm sinh



Với các bác sĩ sản khoa, việc đỡ đẻ ra những đứa trẻ không bình thường, dị dạng, vẫn luôn là nỗi ám ảnh cho nhiều năm về sau. thai nghén .net


Nhiều năm vẫn còn ám ảnh với những dị dạng thai

Trước những năm 2002, khi việc chẩn đoán bằng hình ảnh thông qua siêu âm chưa phát triển, thì việc đỡ đẻ cho những ca dị dạng thai là rất nhiều. Một trong những loại dị dạng thai hay gặp nhất là trẻ bị bệnh Down, với tỉ lệ 700 bà mẹ mang thai, có một bà mẹ đẻ ra con bị Down. Đây là bệnh lý “khó chịu” nhất vì đứa trẻ vẫn có thể sống bình thường, sống lâu, nhưng khả năng tư duy thì hoàn toàn không có. Điều này là thực sự đáng tiếc, là gánh nặng cho cả gia đình và xã hội.


BS Trần Danh Cường đang hướng dẫn cho các sinh viên cách phát hiện dị tật thai nhi.

Ngoài ra, những dị dạng thai khủng khiếp, ám ảnh các bác sĩ nhiều năm về sau là những hình hài không trọn vẹn, những “quái thai” như thai vô sọ (toàn bộ vùng chỏm mọc tóc trống hơ trống hoác, để lộ cả não bộ), thai mất một phần não… Những đứa trẻ này vẫn có thể sống vài tuần thậm chí vài tháng nhưng phần lớn bị gia đình bỏ lại bệnh viện, không dám đưa về nhà.

BS Trần Danh Cường, Trưởng khoa Sản 1 (Bệnh viện Phụ sản TW) không thể nào quên được một lần mổ đẻ cho thai phụ bị suy thai: “Những năm 90, khi tôi còn ở nội trú, có một sản phụ mang thai 35 tuần, nhập viện trong tình trạng suy thai, buộc phải mổ gấp. Nhưng khi chúng tôi mổ ra thì đứa trẻ đó như một cục thịt, chân tay rất ngắn, người rất to. Đó là một cục thịt thì đúng hơn, vì cứ lủn củn, chân tay ngắn bất thường, người cứ gãy khắp nơi, từ xương sườn đến xương sống đều bị gãy. Đúng là chúng tôi bị ám ảnh với trường hợp này”.


Các bác sĩ sản khoa cũng gặp rất nhiều dị dạng thai khác như thoát vị rốn, cong vẹo cột sống, thoát vị cột sống, não úng thủy, môi hở, não thoát ra ngoài, tim nằm ngoài lồng ngực, khối u to tướng nằm trong mồm làm biến dạng cả khuôn mặt…


Gánh nặng của những dị dạng thai này là các bác sĩ không được phép quyết định kết thúc các cuộc sống tội nghiệp đó, trong khi phần lớn các cha mẹ không chịu nhận con, buộc bệnh viện phải nuôi dưỡng để sau đó chuyển về các trung tâm bảo trợ xã hội.


Có thể phát hiện sớm dị dạng thai từ tuần thứ 12


Hiện nay, với phương pháp siêu âm, những dị dạng thai như thế này có thể được phát hiện sớm, từ quý 1 của quá trình thai nghén, để gia đình có thể quyết định việc đình chỉ quá trình thai nghén.

Việc phát hiện sớm những dị dạng thai để có thể có quyết định đúng đắn ngay ở quý I của thai kỳ, là những nỗ lực mà các bác sĩ sản khoa đang cố gắng làm. Theo BS Cường, hiện nay, ngoài kỹ thuật siêu âm, việc xét nghiệm nước ối cũng đem lại nhiều kết quả khả quan, phát hiện những dị tật thai nhi từ rất sớm.

“Nếu là phương pháp siêu âm, toàn bộ quy trình chẩn đoán làm từ cuối quý I, đầu quý II. Bác sĩ siêu âm từ đỉnh đầu đến gót chân của em bé, từ bên ngoài đến bên trong, từ mắt mũi đến môi, mồm miệng, cẳng chân cẳng tay, đùi, cột sống, thành bụng, lồng ngực, cấu trúc tim, não, phổi, thận… đến chức năng tim thận, phổi. Sâu hơn nữa là chức năng của hệ thống tuần hoàn. Ở thai 12 tuần, khi siêu âm có thể phát hiện được 3 dị dạng lớn của hệ thống thần kinh như không có sọ, không có xương sọ…


Nếu siêu âm khi tuổi thai từ 21 đến 24 tuần, bác sĩ có thể chẩn đoán sớm hơn các bệnh như thoát vị rốn, khe hở thành bụng, thoát vị cột sống, thoát vị não, dãn não thất, dị dạng tim…. Vì lúc đó thai đủ lớn, nước ối đủ nhiều, cơ quan em bé khá hoàn thiện, đầy đủ hệ thống tim mạch, thần kinh…” – BS Cường khả quan cho biết về kỹ thuật phát hiện dị dạng thai sớm.


Phương pháp thứ 2, có thể nói là đơn giản nhưng hiệu quả cực cao là xét nghiệm nước ối của thai. Theo BS Cường, nước ối có chứa tế bào bong của em bé, như da miệng, cơ quan sinh dục, tiết niệu… Các bác sĩ sẽ lấy nước ối từ 17, 18 tuần, làm nuôi cấy để phân tích tế bào em bé, xem cấu trúc nhiễm sắc thể, xem có bị dị dạng hay không như hội chứng Down…


“Việc siêu âm thai từ tuần 12, xét nghiệm nước ối, đã có thể phát hiện được thai có dị dạng hay không, có nên duy trì quy trình thai nghén hay không, dị dạng đó có sửa chữa được hay không… Do đó, mục tiêu của chúng tôi là làm càng sớm càng tốt. Nhưng không thể sớm quá vì sai số lớn, và cũng đừng hi vọng là kết quả đúng 100%. Nhưng theo kinh nghiệm của tôi thì siêu âm, chẩn đoán dị dạng thai dẫn tới phải đình chỉ thai nghén là phần lớn tương thích. Nghĩa là đình chỉ thai và khi đưa thai nhi ra thì đúng như dự đoán” - BS Cường khẳng định.


Ai nên sàng lọc trước sinh?
Sẽ thật đáng tiếc nếu dị dạng thai chỉ được phát hiện khi quy trình thai nghén đã 34, 35 tuần. Lúc này các bác sĩ hầu như không làm được gì.

Muốn đình chỉ quy trình thai nghén, các bà mẹ nằm trong nhóm nguy cơ cao cần làm các biện pháp sàng lọc trước sinh trước thời điểm 20 tuần.

Theo BS Cường, nhóm nguy cơ cao là nhóm các bà mẹ đã có tiền sử mang thai bất thường, từng đẻ thai dị dạng, gia đình có người bị bệnh liên quan đến nhiễm sắc thể, những người trong gia đình có bệnh lý chuyển hóa.


Phụ nữ quá nhiều tuổi, từ 35 tuổi trở lên mới sinh con; Phụ nữ làm trong môi trường có nguy cơ ảnh hưởng tới sự phát triển của em bé như từ trường cao, phóng xạ cao, hóa chất độc hại cao (như mực in, dầu bong…); phụ nữ sống trong vùng phơi nhiễm chất độc da cam.


Với những phụ nữ mang thai khi siêu âm thai có khoảng sáng sau gáy rộng, tối thiểu từ 2,5cm trở lên cũng cần phải tham gia chẩn đoán trước sinh.

Có 3 nguyên nhân gây ra dị dạng thai
Do di truyền dẫn tới bộ nhiễm sắc thể của thai bị thừa, thiếu, mất đoạn, chuyển đoạn nhiễm sắc thể. Có thể do bố mẹ bị bệnh truyền sang cho con, hoặc do quá trình phân chia của phôi, trứng noãn… gây ra đột biến gen.
Bệnh Down là bệnh do rối loạn thừa nhiễm sắc thể và có thể phát hiện sớm từ tuần thứ 12.

Nguyên nhân thứ hai là các bất thường về hình thái diễn ra trong quá trình phân chia, hình thành các bộ phận trong cơ thể. Ví dụ như thiếu ngón, thừa ngón, xuất hiện trong quá trình phát triển của phôi, xuất hiện trong quá trình 12 tuần đầu tiên của thai nghén.
Có những trường hợp xảy ra muộn hơn nếu là các cơ quan nội tạng. Khả năng phát hiện trong 12 tuần đầu tiên là khó.

Nguyên nhân thứ 3 gây dị dạng thai là do môi trường. Môi trường trong buồng tử cung không có hoặc ít nước ối dẫn tới thai cử động không tốt, gây ra mặt lệch, chân khoèo, không đủ chỗ để thai cử động dẫn tới biến dạng.

Đến nay, Việt Nam đã có Trung tâm chẩn đoán trước sinh với một hội đồng gồm 15 bác sĩ sản, nhi, tim mạch, di truyền, sinh hóa, giải phẫu bệnh. Trung tâm họp 1 tuần 1 lần. Các bác sĩ sẵn sàng tư vấn đề gia đình hiểu và bình tĩnh đón nhận sự việc, thảo luận với gia đình về các nguy cơ để đi đến quyết định có dừng việc thai nghén hay không.

Nhiễm virut cự bào khi mang thai - Nguy cơ tiềm ẩn cho thai nhi

Nhiễm virut cự bào khi mang thai - Nguy cơ tiềm ẩn cho thai nhi




Nhiễm virut cự bào (cytomegalovirus, viết tắt CMV) khi mang thai ít được biết đến nhưng lại khá phổ biến và thực sự tiềm ẩn nhiều nguy hiểm cho thai nhi. Loại virut này ít lây nhiễm nhưng đặc biệt hay gặp ở trẻ nhỏ. Vì thế, những phụ nữ làm công việc tiếp xúc nhiều với trẻ cần rất thận trọng. Nếu như thực hành vệ sinh đối với mọi người là cần thiết để phòng ngừa nhiễm khuẩn, trước tiên là cúm và viêm đường ruột thì đối với phụ nữ mang thai lại càng khẩn thiết. Khi mang thai, một số nhiễm khuẩn có thể nghiêm trọng không chỉ cho người mẹ mà cho cả thai và nhiễm CMV là một trong số nhiễm khuẩn cần đặc biệt quan tâm. thai nghén .net



CMV thuộc họ virus Herpes, gần với Herpes simplex (gây chốc mép, mụn giộp sinh dục), virus Epstein-Barr và virus gây thuỷ đậu/zona. Đó là những virut có khả năng phát ra những đợt nhiễm khuẩn nhưng thường không bộc lộ mà tồn tại dai dẳng, mai phục bên trong các tế bào. Thông thường, người nhiễm CMV cảm thấy có sốt, nhức đầu, mỏi mệt... những triệu chứng này không có gì đặc hiệu cho nên dễ bị bỏ qua.

Tuy nhiễm CMV không nghiêm trọng lắm đối với người trưởng thành có sức khoẻ tốt nhưng với phụ nữ mang thai lại có thể là một tai hoạ, nhất là khi bị nhiễm lần đầu ở 3 tháng đầu của thai nghén, khi đó thai phơi nhiễm với nhiều nguy cơ tổn thương nặng cho não, chậm phát triển tâm trí, điếc, một loạt những bệnh do nhiễm CMV...

Khi mẹ bị bệnh lại không bộc lộ bất cứ triệu chứng gì, đôi khi chỉ có vài triệu chứng như sốt, viêm gan, sưng hạch. 80% người trưởng thành được kháng thể bảo vệ nhưng sự miễn dịch từ người mẹ truyền cho trước đây không tạo ra được sự bảo vệ hoàn toàn, 5% phụ nữ không được bảo vệ có nguy cơ bị nhiễm virut này khi mang thai.



Đối tượng nào dễ bị nhiễm CMV?

Virut lây nhiễm qua dịch cơ thể (nước mũi, nước bọt, nước mắt, tinh dịch, nước tiểu, máu...) nhưng không mấy lây lan, chỉ có nguy cơ cao khi tiếp xúc lặp đi lặp lại với virut. Vì thế, phụ nữ thường xuyên tiếp xúc với trẻ (làm việc tại các nhà trẻ, các bảo mẫu...) và lại đang mong có con rất dễ bị phơi nhiễm CMV.

Các triệu chứng ở trẻ khi bị nhiễm CMV

Trẻ luôn gặp sự cố về phát triển, dị tật thường gặp nhất là viêm màng mạch - võng mạc, não nhỏ, hở hàm ếch, điếc và hàm nhỏ. Thể nhiễm khuẩn huyết với những rối loạn về thần kinh và chức năng gan (vàng da, gan lách to, chấm xuất huyết trên da, viêm phổi, thiếu máu...) là thể nặng nhất. Nếu trẻ sống sót được thì cũng có nhiều di chứng nặng nề (não nhỏ, co giật, điếc, mù bẩm sinh, chậm phát triển về trí tuệ và vận động...). Cũng có những thể tiềm ẩn khác chỉ thể hiện muộn sau này với chứng chậm phát triển về tâm trí và vận động hay điếc.

Chẩn đoán bệnh dựa chủ yếu vào sự phát hiện các globuline miễn dịch M (IgM) đặc hiệu bằng phương pháp huỳnh quang miễn dịch. Những kháng thể này không phải bao giờ cũng có trong những trường hợp bị nhiễm lần đầu và có thể tồn tại trong nhiều tháng. Tìm thấy trong máu và nước tiểu những tế bào lớn với nhân và nguyên sinh chất có chứa các thể lạ.


Ước tính rằng có đến 50% phụ nữ mang thai có kết quả huyết thanh âm tính với CMV, nghĩa là chưa từng phơi nhiễm với virut này. Theo Cơ quan Quản lý y tế Pháp, khoảng 0,6 - 1,4% phụ nữ mang thai bị nhiễm CMV lần đầu nhưng may mắn là 72% số trẻ sinh ra không thể hiện triệu chứng. Rất cần tránh bị nhiễm CMV khi mang thai vì nguy cơ lây lan cho thai khoảng từ 30 - 50%.

Thai bị nhiễm CMV thông qua tuần hoàn mẹ - nhau thai. 4 - 27% phụ nữ có CMV trong đường sinh dục. 1% trẻ sơ sinh bình thường nhưng đã có virut trong nuớc tiểu.

Khi người mẹ bị nhiễm CMV lần đầu thì 50% trẻ cũng bị nhiễm, trong số đó 15% thể hiện bệnh cảnh nặng.


Có cần sàng lọc kiểm soát những phụ nữ có nguy cơ cao không?


Vì các triệu chứng không bộc lộ cho nên nhiễm CMV dễ bị bỏ qua. Không thể tầm soát cho dân số nói chung, cũng như cho dân số có nguy cơ (các cô nuôi trẻ và người đang độ tuổi sinh sản) mà chủ yếu là nhận diện những phụ nữ có test huyết thanh âm tính bằng cách lấy máu để định lượng nồng độ kháng thể chống CMV (IgM). Tuy nhiên, test này không xác định được chính xác thời điểm bị lây nhiễm và nếu test huyết thanh cho kết quả dương tính cũng không thể phân biệt được nhiễm khuẩn đã có trước đây (không có nguy cơ gì đặc biệt) với nhiễm lần đầu, nguy hiểm cho thai nếu người phụ nữ có thai. Hiện nay, nếu phát hiện có nhiễm CMV khi có thai thì cần chọc hút thăm dò nước ối, nếu kết quả bình thường thì khuyến cáo theo dõi tích cực bằng siêu âm, nếu có dấu hiệu nghi ngờ trên hình ảnh siêu âm thì có thể phải chấm dứt thai nghén tuỳ theo từng trường hợp.

Hiện cũng không có vaccin và liệu pháp đặc hiệu cho nhiễm CMV, vì thế đã hạn chế việc phát hiện hàng loạt sự nhiễm virut này trong cộng đồng (một liệu pháp với kháng sinh valaciclovir đang thử nghiệm để chữa nhiễm CMV trong tử cung).

Nâng cao hiểu biết về vệ sinh cộng đồng để chống nhiễm CMV

Hiện nay, phòng ngừa nhiễm CMV bằng tuyên truyền, giáo dục và thực hành những biện pháp vệ sinh nghiêm ngặt vẫn là 2 biện pháp chủ yếu, đặc biệt với nhóm dân số có nguy cơ. Phụ nữ có thai và tiếp xúc thường xuyên với trẻ dưới 3 tuổi cần thực hành một quy chế như sau: Không tiếp xúc với dịch cơ thể tiềm ẩn virut, nhất là nước bọt, nước mắt và nước tiểu; Rửa tay thường xuyên, nhất là sau khi thay đồ cho trẻ; Không dùng thìa chung với trẻ khi ăn; Không dùng chung đồ vệ sinh với trẻ (xà phòng, nước thơm...); Không hôn khi trẻ đang có dãi hay đang khóc.

BS. Xuân Án

Sàng lọc dị tật bẩm sinh bằng sử dụng các marker có trong máu mẹ

Sàng lọc dị tật bẩm sinh bằng sử dụng các marker có trong máu mẹ

Phương pháp sàng lọc bằng sử dụng các marker có trong máu mẹ (còn gọi là sàng lọc huyết thanh mẹ hay sàng lọc huyết thanh) được sử dụng từ những năm 1980, cho đến ngày nay đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. thai nghén .net !



Sau phát hiện ra AFP thì beta-hCG và free beta-hCG là mốc quan trọng. Hiện nay có 5 marker hay được dùng là AFP, beta-hCG, uE3, PAPPA-A và inhibin-A. Mỗi chất có vai trò khác nhau trong việc phát hiện DTBS, sử dụng đơn độc có hiệu quả không cao bằng việc kết hợp các marker. Khi kết hợp lại chúng ta có các biện pháp sàng lọc huyết thanh như: Double test, Triple test, Quadrupt test, Combine test và Intergrated test. Thời gian tiến hành ngày càng thực hiện sớm hơn, với Quad test và Combine test thì có thể tiến hành ngay từ quý I của thai kì, tuần thứ 9 hoặc 10.

Sàng lọc huyết thanh tiến hành đơn giản, ít tốn kém, độ nhạy cao. Với Double test và Triple test có thể phát hiện được từ 60-70%, Combine test và Intergrate test thì có thể tới hơn 80%.

Sàng lọc huyết thanh kết hợp với các biện pháp sàng lọc khác mang lại kết quả tốt hơn so với chỉ sàng lọc huyết thanh đơn thuần.


Sơ đồ tóm tắt lịch sử sàng lọc huyết thanh



Các biên pháp đều tiến hành ở quý 1 và 2 của thai kì và hầu hết đều có kết hợp với yếu tố tuổi mẹ. Anh Quốc được xem là nước đi đầu trong nghiên cứu các xét nghiệm sàng lọc trước sinh. Trước khi Integrated test ra đời, Double test, sau đó là Triple test là xét nghiệm được ưa chuộng tại Châu Âu. Tại Pháp, cho đến hội nghị về chẩn đoán trước sinh 2002, vẫn còn nhiều bàn cãi về việc có nên chuyển chương trình tầm soát dùng Tripple test trong Trimester II sang các test ở giai đoạn sớm hơn không.

Cho đến 1995, tại Mỹ, Double test, Triple test hay AFP sử dụng đơn độc được sử dụng trên nhiều labo xét nghiệm khác nhau. Tiếp sau đó, Quadruple test được lựa chọn sử dụng do độ phát hiện khá cao. Sau nhiều công bố về hiệu quả của Integrated test, rất nhiều quốc gia trên thế giới đang sử dụng test này để sàng lọc phát hiện sớm thai bất thường bẩm sinh.

Sàng lọc Dị tật bẩm sinh (quái thai) bằng siêu âm thai

Sàng lọc Dị tật bẩm sinh (quái thai) bằng siêu âm thai

Siêu âm thai được Ian Donald Glasgow thực hiện lần đầu tiên năm 1958, sau đó được phát triển bởi nhiều tác giả như Durkan và Russo (1966), Kohrn (1967), Campbell (1968)… Ngày nay siêu âm được phát triển và ứng dụng trong rất nhiều trong lĩnh vực nghiên cứu và chẩn đoán trước sinh. thai nghén .net !


Nuchal translucency: độ mờ (dày) da gáy

Người ta sử dụng siêu âm thai ở 3 tháng đầu để phát hiện sự tăng KSSG của thai và có thể phát hiện một số bất thường hình thái của thai. Nhưng các bất thường hình thái của thai thường được phát hiện vào Quý II của thai kì thậm trí đến tận quý III của thai kỳ..

Để xác định chính xác nguyên nhân gây bất thường di truyền thì người ta tiến hành các xét nghiệm di truyền. Trong những trường hợp này siêu âm đóng vai trò là sàng lọc để tìm nguy cơ cao, thấp cho bất thường di truyền.

Giá trị của siêu âm trong sàng lọc và chẩn đoán dị tật bẩm sinh là rất lớn, chi phí cho mỗi lần siêu âm không quá đắt, có thể chỉ định siêu âm thường quy phát hiện dị tật bẩm sinh cho tất cả các bà mẹ mang thai ngay từ giai đoạn sớm của thai kì.

Nguyên nhân gay dị tật bẩm sinh

Các chất này rất đa dạng, nhưng phần lớn là các chất kích thích, được giới chuyên môn gọi bằng cái tên teratogens như hóa chất, các chất gây ô nhiễm có trong môi trường mà sản phụ tiếp xúc hay sử dụng trong thời kỳ mang thai.
1. Rượu
Rượu được xếp đầu danh sách các hợp chất teratogens bởi nó có tác động rất lớn đối với bào thai. Trước tiên, làm cho trẻ chậm phát triển tâm thần, gây dị tật bẩm sinh, đầu nhỏ, mặt nhỏ và nhiều dị tật khác trên khuôn mặt và ở tứ chi, trẻ sinh thiếu cân, thiếu tháng và rất nhiều tác động tiêu cực đến quá trình phát triển của trẻ. Vì mối nguy hiểm này mà khi mang thai người mẹ hãy tránh xa rượu.
2. Nicotin
Nicotin là hóa chất dễ gây nghiện có nhiều trong thuốc lá. Khi người mẹ hút thuốc, nicotin ngấm vào máu, qua nhau thai đi vào bào thai và nếu thời gian phơi nhiễm nicotin càng lâu thì em bé cũng mắc chứng nghiện, tạo ra nhiều hậu quả nghiêm trọng như suy hô hấp do thiếu oxy, bào thai phát triển không bình thường, chậm lớn, phát sinh tình trạng đẻ non, nhẹ cân khi sinh và nhiều hậu quả lâu dài khác khi trẻ trưởng thành.
Khi mang thai không được sử dụng thuốc lá và rượu
3. Cocaine và amphetamin
Đây là nhóm thuốc kích thích thần kinh, gây ảnh hưởng trực tiếp đến các tế bào thần kinh. Nếu lạm dụng có thể tạo các khối u nang trong não của trẻ, tăng khuyết tật khi sinh, thai chết lưu và trẻ sinh ra dễ mắc chứng nghiện, phát triển hành vi khác thường, trí não trẻ phát triển kém, ngỗ ngược và nhiều ảnh hưởng khác đến tâm tính khi trưởng thành.
4. Các loại virút
Một số loại virút dưới đây được xem là rất nguy hiểm cho phụ nữ giai đoạn mang thai như virút gây bệnh sởi Đức hay còn gọi là rubella, virút cytomegalovirus (CMV), virút gây bệnh herpes và varicella zoster virút (VZV). Đây là 4 loại virút phụ nữ mang thai và trẻ sơ sinh có rủi ro lây nhiễm cao thậm chí có tới 90% số trẻ sinh nhiễm vi rút CMV mà không hề có bất kỳ dấu hiệu thể hiện ra bên ngoài. Thủ phạm gây nhiều mối nguy như khuyết tật tim bẩm sinh, điếc, mù ở trẻ nếu nhiễm virút rubella, gây kém phát triển não, vôi hóa trong não, mù điếc nếu nhiễm CMV và virút herpes hoặc mắc bệnh viêm phổi nếu nhiễm virút VZV. Phụ nữ trước khi mang thai cần tư vấn bác sĩ phương pháp phòng ngừa hoặc tiêm phòng vắc-xin nếu được phép.
5. Khuẩn gây bệnh giang mai
Khuẩn giang mai thường lây lan qua đường tình dục, đây là loại khuẩn cực nhỏ hình xoắn ốc, có tên là Treponemes. Nếu không được điều trị bệnh giang mai có thể phát triển qua 3 giai đoạn lâm sàng gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ sản phụ lẫn trẻ sơ sinh. Đối với người mẹ nó sẽ đi vào dòng máu sau đó truyền sang cho trẻ, gây sảy thai, thai chết lưu hoặc chết trong vòng vài ngày sau sinh. Nếu qua khỏi sẽ mắc phải nhiều bệnh nan y trong đó có bệnh viêm màng não, viêm da và một số bệnh bẩm sinh. Bởi vậy khi mang thai người mẹ phải điều trị dứt điểm căn bệnh này hoặc không nên mang thai khi đang mắc bệnh.
6. Toxoplasma
Toxoplasma là động vật nguyên sinh đơn bào, nó có thể gây nhiễm trùng các loại động vật. Mèo được xem là động vật trung gian gây lan truyền Toxoplasma mạnh nhất ngoài ra có thể bị mắc bệnh do ăn uống không hợp vệ sinh, không đun sôi, nấu chín, có thói quen ăn thịt sống… Nếu trong giai đoạn mang thai bị nhiễm Toxoplasma có thể gây sảy thai, thai chết lưu, trẻ kém phát triển cả về thể chất lẫn tinh thần, nếu nặng có thể gây liệt não mù bẩm sinh.
7. Các loại thuốc nhóm X
Cũng theo FDA, phụ nữ mang thai không nên dùng các loại thuốc nhóm X bởi rủi ro gây quái thai rất cao. Trong nhóm thuốc này có Thalilomide dùng để chữa an thần và chống nôn nên được người ta lạm dụng, đặc biệt là chữa bệnh “ốm nghén”. Hiện tượng thường thấy là trẻ sinh ra có tứ chi phát triển không bình thường. khuyết tật nội tạng và phát triển méo mó khuôn mặt. Năm 1960 người ta đã rút thuốc này khỏi thị trường, thậm chí năm 2005 ở Anh người ta còn dựng tượng đứa trẻ bị dị tật do người mẹ dùng Thalilomide để cảnh báo mọi người hãy tránh xa loại thuốc này. Ngoài Thalilomide trong nhóm thuốc nói trên còn có thuốc tránh thai, thuốc chữa bệnh sinh sản, thuốc điều trị bệnh trứng cá, thuốc chống ung thư và chữa bệnh động kinh.
8. Các loại loại thuốc nhóm D
Các loại thuốc nhóm D (Category D.Dry) đã được Cục Quản lý và Thực phẩm – Dược phẩm Mỹ (FDA) cấm không dùng cho phụ nữ khi mang thai vì nó có thể gây hiện tượng quái thai.
9. Các loại hóa chất
Trong nhóm hóa chất, thủy ngân hữu cơ (mythyl mercury) được xem là nguy hiểm nhất đối với quá trình phát triển của bào thai, bởi nó gây ảnh hưởng tới hệ thống thần kinh, chậm phát triển tâm thần. Nặng có thể gây mù mắt, hợp chất này có trong cá, trong nguồn nước và khi người mẹ dùng, các chất độc này sẽ truyền sang cho đứa trẻ. Tiếp đến là nhiễm độc chì, sử dụng liều iốt kali quá lớn (có trong xirô chống ho, thuốc uống để chẩn đoán X-quang). Nhiễm độc PCB (Polychlorinated biphenyls) có trong các sản phẩm giặt, xà phòng, bảo quản thực phẩm… Để hạn chế khuyết tật khi sinh thì nên sống trong môi trường trong lành, không nên ăn cá nhiễm thủy ngân, nguồn nước ô nhiễm cũng như hoa quả nhiễm độc hoặc có chứa hàm lượng hóa chất cao.
10. Bức xạ ion hóa
Bức xạ ion hóa (Ionizing radiation) là mối nguy hiểm rất lớn đến sức khỏe sinh sản. Theo đó người mẹ chỉ cần tiếp xúc trong thời gian ngắn có thể dẫn đến tình trạng phát triển trí não bất thường, chậm phát triển tâm thần, gây bệnh bạch cầu ở trẻ sơ sinh. Nên thận trọng, kỹ thuật chẩn đoán bằng X-ray có mức độ bức xạ nhỏ, nhưng quét vi tính (CT) thì chỉ một lần quét có mức bức xạ cao gầp 10 lần khám X – quang, vì vậy khi mang thai nên hạn chế các thủ thuật này.
theo Sức khỏe đời sống