Thứ Năm, 1 tháng 3, 2012

Đánh giá mức độ an toàn trong phá thai nội khoa


Background: The combination of Mifepristone with Misoprostol is the most widely used for medical abortion in early pregnancy. However, the doses and the time between the administration of mifepristone and misoprostol is still a matter of discussion. Method: a clinical trial involving 760 women undergoing an abortion at gestational age less than 50 days who received orally 600 mcg misoprostol 24 hours after taking 200 mg mifepristone by mouth. The rates of complete abortion, side effects and the  client acceptibility were evaluated. Results: A total of 14 cases was excluded from the full analysis of outcome because either they failed to attend their follow-up visit or they had not enough background information in their study forms. The rate of complete abortion was so high ( 94%). There were fewer ongoing pregnancies ( 3%) and retained placenta (3%) that needed surgical intervention. However, there were no significant differences of complete abortion rates among gestation age groups: < 35 days, 35-41 days, 42-49 days ( p= 0.453) as well as between nulliparous and parous women ( p= 0.681). The means of bleeding dusration was 9 4 days, with the amount of bleeding evaluated more than menstruation but no cases needed either emergancy intervention or transfussion. 100% of study participants had lower abdominal pain during treatment. The intensity of pain was 5.9 ± 2.7. There were only some cases requested painkillers. The incidence of other side effects were: diarrhoea (5%) , vomitting (12%) , nausea (15%) , headach ( 14%) and breast tendensy (9%). The reasons of choosing this method included: natural (96.14%), private (95.30%), safe (90.30%), modern (90.31%), convenient (85%) and less painful (61.7%). Among participants, 90% will apply this method again or introduce it to their families or friends if they have unwanted pregnancies. Conclusion: This regimen is effective, safe and convenient for aborted women at gestational age less than 50 days . Especially, it reduced the duration both of waiting abortion and treatment because of the shorter time between the administration of mifepristone and misoprostol.
Mở đầu: Mifepristone và Misoprostol rất thường được dùng trong chấm dứt thai kỳ sớm. Song liều dùng và khoảng thời gian giữa Mifepristone và Misoprostol hãy còn là đề tài của nhiều tranh cãi. Phương pháp: thử nghiệm lân sàng mở trên 740 phụ nữ phá thai với tuổi thai dưới 50 vô kinh được uống 600 mcg Misoprostol 24 giờ sau uống 200 mg Mifepristone. Tỉ lệ sẩy hoàn toàn cũng như các tác dụng phụ và mức độ chấp nhận phương pháp trị liệu được đánh giá trong kết quả nghiên cứu. Kết quả: tỉ lệ sẩy hoàn toàn 94%. Tỉ lệ thai tiếp tục phát triển hay lưu 3% và sót nhau 3%, các trường hợp này đòi hỏi phải hút buồng tủ cung. Thơi gian ra huyết trung bình là 9 4 ngày, mức độ ra huyết âm đạo thường nhiều hơn máu kinh nhưng không có trường hợp nào phải nhập viện cấp cứu hay truyền máu. 100% các trường hợp bị đau vùng hạ vị, tuy nhiên chỉ vài trường hợp cần sử dụng huốc giảm đau. Các tác dụng phụ khác như: tiêu chảy ( 5%), nôn ( 12%), buồn nôn ( 14%), nhức đầu (15%) và căng ngực (9%). Lý do chọn lựa phương pháp phá thai này: tự nhiên (96.14%), riêng tư (95.3%), an toàn (90.3%), hiện đại (90.31%), thuận tiện (85%) và ít đau (61.7%). Trong số các đối tưong nghiên cứu, 90% co rằng sẽ sử dụng phương pháp phá thai này hay giới thiệu cho nghười thân và bạn bè nếu họ mang thai ngoài ý muôn. Kết luận: Việc sử dụng 600 mcg misoprostol uống 24 giờ sau uống 200 mg mifepristone tỏ ra hiệu quả, an toàn và thuận tiện trong chấm dứt thai kỳ sớm ( dưới 50 ngày vô kinh). Ngoài ra, cách trị liệu này còn giảm được thời gian điều trị và nhất là thời gian chờ đợi sẩy thai do rút ngắn thời gian giữa dùng mifepristone và misoprostol..
Mở đầu
Việt nam là một trong những nước có tỉ lệ phá thai cao nhất không những trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương mà còn trên toàn thế giới. Theo thống kê của Cục Thống Kê Việt nam, tỉ lệ phá thai của Việt nam trung bình là 45/ 100 sanh sống và có khoảng 679,000 trường phá thai/ năm (3). Phá thai tại Việt nam hợp pháp từ năm 1945 vì được xem như một trong những phương cách khống chế sự gia tăng dân số của toàn xã hội. Tuy nhiên, phá thai ngoại khoa chỉ là phương pháp chọn lựa duy nhất mặc dù thủ thuật này có thể gây ra các tai biến và biến chứng ảnh hưởng nặng nề đến sức khoẻ sinh sản người phụ nữ như: thủng tử cung, nhiễm trùng, vô sinh ….
Từ những thập niên 80, sự ra đời của Mifepristone tỏ ra có hiệu quả trong việc chấm dứt thai kỳ không mong muốn dưới 63 ngày. Qua nhiều nghiên cứu ở các nước trên toàn thế giới, sự kết hợp giữa Mifepristone và Misoprostol tỏ ra có hiệu quả và thuận lợi khi chấm dứt thai kỳ sớm(1). Do đó, tại nhiều nước Châu Au và châu Mỹ, phương pháp phá thai này được nhiều phụ nữ chọn lựa hàng đầu khi muốn chấm dứt các thai kỳ không mong muốn sớm. Tại Việt nam, các nghiên cứu về phá thai nội khoa cũng đã được thực hiện từ những năm cuối thập niên 80, song do nguồn thuốc và giá thành thuốc hãy còn cao so với mức sống người Viêt nam nên phương pháp phá thai nội khoa chỉ mới dừng lại ở mức độ nghiên cứu. Đa số các nghiên cứu đều áp dụng công thức kết hợp giữa Mifepristone và Misoprostol, và kết quả nghiên cứu tỏ ra rất hứa hẹn. Tuy nhiên liều lượng của Mifepristone và Misoprostol, cũng như  thời gian giữa các lần dùng thuốc Mifepristone và Misoprostol cho đến thời điểm này vẫn còn nhiều tranh cãi (7).

Tổng quan tài liệu
Theo nghiên cứu của Hội đồng An độ về nghiên cứu Y khoa (4), khi sử dụng 200 mg Mifepristone uống và sau đó 48 giờ uống 600 mcg Misoprostol để chấm dứt thai kỳ không mong muốn dưới 56 ngày cho 440 phụ nữ, hiệu quả tránh sẩy thai hoàn toàn đạt 87.7%. Kết quả nghiên cứu của Sang GW và Cộng sự (5) ghi nhận khi chấm dứt thai kỳ sớm ( dưới 49 ngày VK), bằng 200mg Mifepristone và sau đó 48 giờ uống 600 mcg Misoprostol tỉ lệ sẩy thai hoàn toàn là: 94.6%, sẩy không tròn%: 2.7% và thai tiếp tục phát triển: 2%. Các tác dụng phụ chỉ nhẹ, thoáng qua và không cần điều trị.

Riêng bệnh viện Từ Dũ đã thực hiện hai nghiên cứu phá thai nội khoa năm 1987 và 1996 với phác đồ dùng 200 mcg Mifepristone và sau đó uống 400 mcg Misoprostol nhằm chấm dứt thai kỳ sớm dưới 49 ngày VK, hiệu quả sẩy thai hoàn toàn ghi nhận lần lươt là 96% và 87%.

Eric A. Schaff và cộng sự (2000) hiệu quả sẩy thai hoàn toàn đối với các thai kỳ dưới 56 ngày bằng 200 mg Mifepristone và sau đó đặt âm đạo 800 mcg Misoprostol 1, 2 và 3 ngày không có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê (7).
Phương pháp nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu: tìm ra một phác đồ phá thai nội khoa hiệu quả, an toàn và rút ngắn thời gian điều trị trong chấm dứt thai kỳ sớm dưới 50 ngày vô kinh.

Mục tiêu chuyên biệt: Đánh giá việc phối hợp giữa uống 200 mg Mifepristone và sau đó 24 giờ uống 600 mcg Misoprostol về:

· Hiệu quả sẩy thai hoàn toàn
· Tần suất xuất hiện các tác dụng phụ
· Mức độ chấp nhận của bệnh nhân khi chọn lựa phương pháp này

Thiết kế nghiên cứu: Thử nghiệm lâm sàng mở từ tháng 01/2003 đến 05/2003

Quần thể nghiên cứu: Phụ nữ có nhu cầu đình chỉ thai kỳ không mong muốn tại BV Từ Dũ

Đối tượng nghiên cứu: Phụ nữa có thai ngoài ý muốn dưới 49 ngày VK và có nhu cầu chấm dứt thai kỳ bằng thuốc tại khoa KHHGĐ Bệnh viện Từ Dũ

Tiêu chuẩn thu nhận đối tượng nghiên cứu:
Phụ nữ khoẻ mạnh, tuổi 18 trở lên
Có thai trong từ cung với tuổi thai dưới 50 ngày VK, có nhu cầu chấm dứt thai kỳ ngoài ý muốn và đồng ý sử dụng Mifepristone va Misoprostol để đình chỉ thai nghén.
Có địa chỉ liên lạc rõ ràng và chổ cư trú không cách xa Bệnh viện Từ Dũ quá 1 giờ di chuyển bằng phương tiện xe gắn máy.

Đồng ý tuân thủ lịch tái khám theo dõi của nghiên cứu và đồng ý can thiệp hút thai nếu phương pháp thất bại

Tiêu chuẩn loại trừ: bất thường về tâm thần, cơ địa dị ứng, bệnh lý mãn tính, hẹp 2 lá, tăng nhãn áp, huyết áp cao hay thấp, u xơ tử cung hay khối u buồng trứng, đang cho con bú, nghiện thuốc lá nặng…

Ngoài ra các đối tượng tham gia nghiên cứu nếu thiếu các dữ kiện cơ bản trong hồ sơ nghiên cứu sẽ bị loại trừ khỏi nghiên cứu trong giai đoạn phân tích số liệu.

Thủ tục thu nhận đối tượng nghiên cứu
Các đối tượng muốn tham gia nghiên cứu được hỏi tiền sử, bệnh sử, khám tổng quát , khám phụ khoa và siêu âm xác định tuổi thai nhằm loại trừ các tiêu chuẩn loại trừ khi thu nhận đối tượng nghiên cứu. Sau khi đã thoả hết các tiêu chuẩn, đối tượng nghiên cứu ký tên vào bản đồng ý tham gia nghiên cứu. Cán bộ nghiên cứu hướng dẫn cho đối tượng nghiên cứu lịch trình uống thuốc và cách tự theo dõi tại nhà, cũng như các tác dụng phụ có thể gặp. Đối tượng nghiên cứu được uống Mifepristone trước mặt cán bộ nghiên cưú, ngày giờ uống thuốc ghi chép cẩn thận vào hồ sơ nghiên cứu, sau đó được cấp 3 viên Misoprostol 200 mcg uống đúng 24 giờ sau tại nhà. Ngoài ra đối tượng nghiên cứu được cấp phiếu nhật ký để ghi lại các triệu chứng ra huyết âm đạo, đau bụng và các tác dụng phụ khác trong suốt thời gian điều trị. Đối tượng nghiên cứu được hẹn tái khám lại 2 tuần sau đó. Khi đó, được phỏng vấn, kiểm tra phiếu nhật ký, khám tổng quát và phụ khoa, siêu âm để đánh giá kết quả điều trị

Kết quả điều trị được đánh giá dựa vào lâm sàng và siêu âm, bao gồm: Sẩy thai hoàn toàn, sẩy không hoàn toàn ( Sót lại một phần thai hay tổ chức thai trong buồng tử cung), thai lưu, thai tiếp tục phát triển.
Kết quả
Nghiên cứu theo dõi 740 trường hợp phụ nữ đủ điều kiện chọn lựa phương pháp phá thai nội khoa từ tháng 12/2002 đến tháng 04/2003 tại khoa Kế hoạch hoá gia đình bệnh viện Phụ Sản Từ Dũ. Tuy nhiên chỉ có 726 trường hợp quay trở lại tái khám đầy đủ, có 6 trường hớp bị mất dấu ( 0.8%) và 8 trường hợp (1%)  bảng thu thập số liệu không hợp lệ để phân tích. Do đó, chúng tôi chỉ đưa vào phân tích 726 trường hợp. Chúng tôi sử dụng phần mềm Excell 2000 để vô số liệu và phân tích số liệu bằng phần mềm Stata 6.0. Trong 726 trường hợp phân tích, kết quả ghi nhận:

1. Đặc điểm dịch tể đối tượng nghiên cứu
Về đặc điểm dịch tể học của nhóm nghiên cứu, ( Bảng 1) các phụ nữ nghiên cứu có độ tuổi trung bình là 25.87  5.2 tuổi, trong đó 68% là những phụ nữ chưa sanh lần nào. Song về tiền căn phá thai, có đến 36.4% có ít nhất một lần đã phá thai (ít nhất là 1 và nhiều nhất là 5).

Không tôn giáo chiếm 51% trên tổng số các phụ nữ tham gia nghiên cứu, đa số các đối tượng nghiên cứu có trình độ học vấn từ trung học trở lên chọn lựa phương pháp phá thai mới này (62%), đặc biệt là nhóm đối tượng cán bộ công nhân viên nhà nước ( 39.94%) và học sinh sinh viên ( 14.64%) có xu hướng chọn lựa phương pháp phá thai nội khoa hơn phương pháp cổ điển là hút thai chân không
Bảng 1. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu

Ñaëc ñieåm

N = 726
%
Tuoåi ( Naêm) ( TB ± ÑLC)
25.87 ± 5.2
Chöa sanh
494
68%
Tieàn caên phaù thai
225
31%
Hoïc vaán toát nghieäp trung hoïc trôû xuoáng
504
69.42%

Về phương diện tuổi thai, các thai kỳ được đánh giá tuổi thai ngoài việc dựa vào ngày kinh cuối, chúng tôi còn căn cứ vào kết quả đo đạt của siêu âm: chiều dài tuí thai hay chiều dài đầu mông ( nếu đã có phôi). Tất cả siêu âm đều được thực hiện tại bệnh viện Từ dũ, nhằm thống nhất kết quả thu thập số liệu cũng như hạn chế các sai sót do thu thập số liệu. Trong nghiên cứu này, nhóm tuổi thai dưới 34 ngày tuổi so với ngày kinh chót chiếm 40.8%, nhóm tuổi thai 35-41 ngày: 49.94% và nhóm 42 –49 ngày: 9.26% .
Hiệu quả
Hiệu quả của phương pháp phá thai nội khoa này ghi nhận: sẩy hòan toàn chiếm tỉ lệ 93% trong tất cả các nhóm tuổi thai. Tỉ lệ thai tiếp tục phát triển là 3%, thai lưu là 0.0005%, sót nhau là 3%. Các trường hợp này đòi hỏi phải can thiệp hút thai chân không buồng tử cung kiểm tra và gữi giải phẩu bệnh lý, kết quả giải phẩu bệnh lý đều tương ứng với đánh gia lâm sàng. Xét theo từng nhóm tuổi thai, tỉ lệ sẩy thai hoàn toàn được ghi nhận là 94.93% ở nhóm thai dưới 34 ngày, 92.83% ở nhóm thai 35-41 ngày và 89.55% ở nhóm thai 42-49 ngày. Song, không có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê giữa các nhóm tuổi thai ( p = 0.453), cũng như không có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm con so và con rạ ( p = 0.681).

3. Ra huyết âm đạo
3.1 Thời điểm bắt đầu ra huyết âm đạo
Trong các đối tượng nghiên cứu, dấu hiệu ra huyết âm đạo thường xuất hiện vào ngày thứ 2 ( 94.97%) ( Ngày thứ nhất là ngày uống Mifepristone), hiếm các trường hợp triệu chứng ra huyết âm đạo xuất hiện muộn hơn ngày 3 và chỉ có 2 trường hợp trên tổng số 726 ( 0.003%) có thời điểm bắt đầu ra huyết âm đạo vào ngày thứ 7, tức 1 tuần sau uống Mifepristone. Tuy nhiên, không có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê giữa thời điểm bắt đầu ra huyết âm đạo và kết quả sẩy thai, sót nhau, thai lưu hay sót thai ( Chi 2 = 9.5390, p = 0.89)

3.2 Thời điểm sẩy thai (Ngày uống Mifepristone là ngày 1)
Trong số các trường hợp sẩy hoàn toàn và không hoàn toàn, kết quả nghiên cứu ghi nhận thời điểm sẩy thai sau uống Mifepristone đa số là ngày thứ 3 ( 93.78%)
Thời gian ra huyết âm đạo

Ra huyết âm đạo kéo dài trong phá thai nội khoa được hầu hết các tác giả nghiên cứu đánh giá là một trong những nhược điểm của phương pháp. Trong nghiên cứu này, chúng tôi ghi nhận: thời gian ra huyết âm đạo trung bình là  9 ± 4 ngày. Đa số cho rằng mức độ ra huyết âm đạo của phương pháp phá thai bằng thuốc này  cao hơn lượng kinh mỗi tháng (84.2%),. Tuy nhiên không có trường hợp nào phải nhập viên cấp cứu hay phải truyền máu.

4. Đau bụng
Đau bụng vùng hạ vị gặp ở 100% các bệnh nhân phá thai nội khoa trong nghiên cứu chúng tôi. Đau vùng hạ vị xuất hiện trung bình: 26 giờ ± 1.78 sau uống Mifepristone, sớm nhất là 21 giờ và muộn nhất là 49 giờ sau khi uống Mifepristone. Chúng tôi dùng thang điểm từ  0 đến 10 để đánh giá mức độ đau bụng, với 0 là không đau và 10 điểm là đau dữ dội. Kết quả nghiên cứu cho thấy mức độ đau bụng ở các bệnh nhân phá thai nội khoa trong nghiên cứu là 5.9 ± 2.7. Với công tác tư vấn trước phá thai tốt, đa số bệnh nhân chấp nhận triệu chứng đau bụng và không cần can thiệp. Trong nghiên cứu, có 14 trường hợp ( 3.8%) đòi hỏi can thiệp giảm đau bằng paracetamol hay ibuprofen.

5. Các tác dụng khácCác tác dụng phụ khác đươc ghi nhận trong nghiên cứu bao gồm ( Bảng 5) : Nôn ( 12%), buồn nôn ( 15%), nhức đầu ( 14%), tiêu chảy ( 5%), cảm giác căng ngực ( 9%). Tuy nhiên các triệu chứng này chỉ nhẹ thoáng qua và không phải điều trị hay nhập viện. Hầu hết các bệnh nhân có các tác dụng phụ của thuốc  trong nghiên cứu của chúng tôi không quá lo lắng và không đòi hỏi phải điều trị hỗ trợ vì đã được tư vấn rất tốt trước khi dùng thuốc.

6. Lý do chọn lựa phương pháp phá thai nội khoa và độ chấp nhận phương pháp
Đa số các đội tượng tham gia nghiên cứu chọn lựa phương pháp chấm dứt thai kỳ bằng nội khoa vì lý do: tự nhiên ( 96.14%), riêng tư ( 95.30%), an toàn ( 90.30%) và hiện đại, mới ( 90.31%). Tuy nhiên có 61.7% chọn lựa phương pháp này vi sợ đau khi làm thủ thuật hút thai dù đã có những phương pháp khống chế đau. Bên cạnh đó, 85% các đối tượng tham gia nghiên cứu cho rằng phương pháp phá thai nội khoa này là thuận tiện, vì có thể dùng thuốc tại nhà.Đánh giá về mức độ chấp nhận phương pháp, trong 726 đối tượng nghiên cứu, gần 90% chọn lựa phương pháp phá thai bằng thuốc này nếu bị mang thai ngoài ý muốn lại hay sẽ giới thiệu phương pháp này cho người thân và bạn bè neu họ có nhu cầu.
Bàn luận
Mặc dù nghiên cứu trên 726 đối tượng, song do nghiên cứu chỉ là thử nghiệm lâm sàng mở nên còn các mặt hạn chế do sai sót khi đánh giá kết quả nghiên cứu. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu cũng phần nào giải đáp được ẩn số về tính an toàn, hiệu quả của phương pháp phá thai nội khoa tại Việt nam nói chung và thành phố Hồ Chí Minh nói riêng, nhất là trước khi phá thai nội khoa được áp dụng rộng rãi hơn.

Trong nghiên cứu của chúng tôi, kết quả ghi nhận hiệu quả gây sẩy thai hoàn toàn của phác đồ này cũng khá tương hợp với những nghiên cứu phá thai nội khoa trước đây trên thế giới cũng như tại Việt nam. Theo nghiên cứu hội đồng nghiên cứu y khoa An độ, hiệu quả sẩy thai hoàn toàn của Mifepristone 200mg phối hợp 600mcg Misoprostol là 87.7%  (4)
Ngược lại, kết quả nghiên cứu của Eric A. Schaff  và CS, hiệu quả sẩy thai hoàn toàn của phương pháp phá thai dưới 56 ngày bằng 200 mg Mifepristone  theo sau 24 giờ  800mcg Misoprostol đạt 98% (2).

Tại Việt nam, chưa có nghiên cứu về khoảng cách dùng giữa Mifepristone và Misoprostol là 24g, song theo nghiên cứu tại Bệnh viện Hùng Vương, ghi nhận với việc dùng Mifepristone 200mg và đơn liều 400mcg Misoprostol 48g sau, để chấm dứt thai dưới 42 ngày, tỉ lệ thành công đạt 78.3%. Như vậy, phác đồ của chúng tôi tỏ ra rất hiệu quả và nhất là giảm được thời gian chờ đợi của bệnh nhân vì đa số tâm lý bệnh nhân bỏ thai thường rất mong muốn tiến trình chấm dứt thai kỳ càng nhanh càng tốt.
So sánh với một số nghiên cứu khác về phương diện các tác dụng phụ, chúng tôi ghi nhận đa số các tác dụng phụ của phương pháp điều trị trong nghiên cứu chúng tôi có tần sồ xuất hiện đề thấp hơn so với các nghiên cứu khác, ví dụ theo nghiên cứu Schaff E.A và cộng sự và hội đồng nghiênc ứu y khoa An độ, buồn nôn 41% và 25.7% so với nghiênc ứu chúng tôi là 15%; tiêu chảy: 24% & 4.8% so với 5% . Tuy nhiên một số tác dụng khác mà nghiên  cứu chúng tôi ghi nhận trong khi các nghiên cứu khác ít hay không đề cập đến như: nhức đầu ( 14%), căng ngực ( 09%)

Tác dụng phụ Từ Dũ Schaff EA &
CS (6) HĐNCYK
An độ (4)
Buồn nôn 114 ( 15%) 41% 25.7%
Nôn 94 (12%) 33% 6.8%
Nhức đầu 108 ( 14%)  
Tiêu chảy 42 (0.5%) 24% 4.8%
Căng ngực 68 (09%)
Kết luận
Qua nghiên cứu, chúng tôi rút ra được một số kết luận:
Với phác đồ phá thai nội khoa cho các thai kỳ dưới 49 ngày, bằng uống Mifepristone 200mg theo sau là uống 600mcg cách 24 giờ tỏ ra có hiệu quả cao ( 93%) Không có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê về hiệu quả sẩy thai hoàn toàn giữa nhóm con so và con rạ cũng như giữa các nhóm tuổi thai dưới 35 ngày, 35-41 ngày và 42-49 ngày. Thời gian ra huyết âm đạo trung bình là 9 ± 4 ngày và đau hạ vị luôn gặp trong các trường hợp phá thai nội khoa, tuy nhiên có những mức độ khác nhau tùy theo từng cơ địa.

Nếu áp dụng phác đồ phá thai nội khoa này, mỗi năm tại Từ dũ sẽ giảm can thiệp thủ thuật 43.96% đối với các thai kỳ dưới 7 tuần, và tất nhiên sẽ giảm rất nhiều các tổn thương về thể chất cũng như tinh thần cho các phụ nữ trong lứa tuổi sinh sản và do đó góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe sinh sản  ở Việt nam nói chung và thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.

Ngoài ra, kết quả nghiên cứu này góp phần giúp cho các nhà lâm sàng tự tin hơn khi áp dụng phương pháp điều trị mới và đồng thời tìm kiếm những phác đồ điều trị phù hợp hơn đối với phụ nữ Việt nam
Tuy nhiên, cũng cần phải thực hiện nhiều nghiên cứu hơn nữa về phá thai nội khoa nhằm tìm ra những phác đồ tối ưu đồng thời hạn chế những nhược điểm của phương pháp và rút ngắn thời gian điều trị và giảm chi phí điều trị.
Tài liệu tham khảo
1. Bachelot et col. (1992) Conditions for choosing between drug induced and surgical abortion: A report of 2000 consecutive cases. Hum. Reprod. 13, 2962 –2965.

2. Eric A schaff. Et col (2000) Vaginal Misoprostol Administered 1, 2, 3 days after Mifepristone for early medical abortion. JAMA 284(15); Oct8,2000.

3. MOH (2000), Reproductive health statistics

4. Sang GW et al. (2000). IndianCouncil of Medical Research (2000), A multi randomized comparative clinical trial of 200mg RU 486 single dose follwed by 600mcg oral PGE for termination of early pregnancy within 28 days of missed menstrual period, Contraception, 62(3), pp: 125-30.

5. Sang GW et col (1994), Termination of early pregnancy by two regimens of mifepristone with misoprostol and mifepristone with PG05 – a multicentre randomized clinical trial in China. Contraception Dec; 50(6): 501-10.

6. Schaff et al. (1999) low dose of mifepristone and misoprostol for abortion. Contraception, 59: 1-6.

7. Schaff et col. (2000) Vaginal misoprostol administered 1,2 3, days after mifepristone for early medical abortion. J. Am. Med. Assoc., 284, 1948-1953

8. Ulmann et al. (1992) Medical termination of early pregnancy with Mifepristone by a prostaglandin analogue. Act Obste, Gynecol Scand, 71: 278 - 283

Sẩy thai sớm và tự nhiên: có thể chỉ là biến cố, không nên lo lắng!

Em năm nay 28 tuổi, mới kết hôn, trễ kinh 2 tuần và có ra ít huyết, đi khám bác sĩ bảo có thai được 1cm, chưa hình thành phôi. Một tuần sau siêu âm lại không còn nữa. Vậy trường hợp của em có ảnh hưởng gì đến những lần mang thai sau không?
Em sợ lắm! Không biết có thể có con không? Hiện tại em đang dưỡng để chuẩn bị năm sau có thai, không biết có trục trặc gì không? Em mong được hướng dẫn để lần sau không sẩy nữa (Một bạn đọc).
- Mới trễ kinh 2 tuần và thấy ra máu, 1 tuần sau siêu âm chẩn đoán lại xác định phôi không còn nữa thì phôi đó có thể là bất thường. Khi sẩy thai, đôi khi trứng bị tống ra ngoài mà người phụ nữ không nhận thấy. Cần đưa cho thầy thuốc xem đã xảy ra cái gì để có thể phân tích mô xác định chắc chắn nguyên nhân sẩy thai (bệnh phẩm cần đưa đến thầy thuốc trong phạm vi 24 giờ sau khi sẩy), để phân biệt với chửa ngoài tử cung. Khi phân tích mô sẩy, có thể xác định đó là một “trứng rỗng” nghĩa là không có phôi, chứng tỏ sự thụ tinh cho trứng đã không có kết quả. Hình ảnh “trứng rỗng” (hay còn gọi là trứng sáng) có thể phát hiện được bằng siêu âm và thường dẫn đến sẩy thai tự nhiên.
Khoảng 50% những thai nghén chết sớm là do những vấn đề về gien hay nhiễm sắc thể của thai. Những vấn đề đó không phải là di truyền từ cha mẹ mà đúng hơn là do những sai sót xảy ra một cách ngẫu nhiên khi phôi phát triển. Khi sẩy do thiếu sót về gien thì phôi đó sẽ không bao giờ phát triển được.
Người ta chia sẩy thai thành 2 nhóm dựa theo thời điểm xảy ra sự cố: trong phạm vi 2 tháng rưỡi gọi là sẩy thai sớm và ngẫu nhiên (trường hợp nói trên) - sau 4 tháng thì gọi là sẩy thai muộn, cũng là bất thường và cần tìm ra nguyên nhân. Có điều lạ là rất ít trường hợp sẩy thai trong khoảng ngoài 2 tháng rưỡi và 4 tháng.
Nguyên nhân sẩy thai: Những bất thường ở trứng là những nguyên nhân chính của sẩy thai tự nhiên, bất thường ở nhiễm sắc thể (NST) chiếm đến 70% trường hợp sẩy thai, trong khi cả 2 bố mẹ đều có hành trang NST hay nhiễm sắc đồ hoàn toàn bình thường. Những bất thường này không chứng tỏ cha mẹ phải có bệnh hay có dị tật và có thể phòng tránh được, sẩy thai chỉ là một tai biến của sự thụ tinh do đó trứng bất thường đó đã bị loại bỏ một cách tự nhiên. Sự cố hay gặp này không phải là bệnh mà chỉ là sự điều chỉnh tự nhiên. Cũng có thể tái diễn sự cố không may mắn nhưng không nên thất vọng mà hãy kiên nhẫn chờ đợi.  
Sẩy thai không phải là biến cố hiếm gặp - có thai không có nghĩa là sẽ có con sau 9 tháng 10 ngày - bởi vì chỉ có loài người là loài duy nhất mà sự mang thai không phải chắc chắn sẽ dẫn đến việc sinh ra con. 
15% những phụ nữ chậm kinh 5-6 tuần và được xác định là có thai bằng siêu âm nhưng sau đó đã kết thúc bằng sự cố sẩy thai không vì một lí do rõ rệt nào. 
Nếu tính những thai nghén được xác định bằng phương pháp sinh vật (thử máu) sau khi chậm kinh 24-48 giờ thì số sẩy thai chiếm tỷ lệ 55%, như vậy là hơn 50% thai nghén không đi đến đủ tháng mà đã “hỏng” giữa đường vì những lí do hoàn toàn tự nhiên ở phụ nữ trẻ dưới 35 tuổi, càng nhiều tuổi thì nguy cơ sẩy thai càng tăng lên. Từ 35 đến 42 tuổi, tỷ lệ sẩy thai tăng từ 15 lên 30%. Với loại sẩy thai tự nhiên này, y học chưa có biện pháp gì để can thiệp. 
Sẩy thai bao giờ cũng được báo trước bằng dấu hiệu ra máu âm đạo - một dấu hiệu khiến người phụ nữ phải đi gặp thầy thuốc, chỉ có chẩn đoán siêu âm mới có thể phân biệt ra máu do sẩy thai với những loại ra máu khác. Nếu trứng đã phát triển to thì cần phải hút trứng để tránh mọi biến chứng do bị tắc lại trong tử cung (chảy máu và nhiễm khuẩn).
Sau bao lâu kể từ khi sẩy có thể có thai trở lại?
Những thông tin kể trên có thể giúp em hiểu là sau khi đã hết những xúc động do sẩy thai gây ra cho bản thân người phụ nữ cũng như cho cả cặp vợ chồng, nếu là sẩy thai sớm (trong phạm vi 2 tháng rưỡi) thì chờ có kinh trở lại nghĩa là sau vài tuần là có thể có cơ may thụ thai lần nữa. Không nên có lo lắng đến mức ám ảnh vì sẩy thai lần đầu nhiều khi chỉ là sự cố.
Nếu đã bị sẩy 2-3 lần thì nên có một thời gian chờ đợi (từ 6 tháng đế 1 năm) để được khám và làm các thăm dò kỹ hơn, tìm nguyên nhân.
BS ĐÀO XUÂN DŨNG
Chuyên khoa II, Sản phụ khoa

Các dấu hiệu bất thường của thai kỳ

Các dấu hiệu bất thường của thai kỳ

Đa số các bà mẹ mang thai và sinh nở an toàn, kể cả những bà mẹ có điều kiện sức khoẻ đòi hỏi cẩn trọng như nêu trên. Tuy nhiên, cũng có một số người (cả những người không ở trong các trường hợp đó) cần đến sự can thiệp của y tế. Các bạn cần biết các dấu hiệu bất thường để nếu gặp phải thì xử trí được kịp thời:
- Buồn nôn và nôn nặng, không ăn uống được: Có thể là nghén thông thường, nhưng cần điều trị để tránh suy dinh dưỡng. Ngoài ra, cũng có thể có nguyên nhân khác cần được xác định như thai đôi, chửa trứng.
- Ra máu: Các trường hợp ra máu nhẹ thường không có vấn đề lớn, nhưng vẫn cần đi khám ngay vì có khả năng là dấu hiệu rau tiền đạo, rau bong non, động thai, sẩy thai, chửa ngoài tử cung...
- Chất dịch âm đạo hôi, âm hộ ngứa nhiều: Có thể là dấu hiệu viêm nhiễm, cần được điều trị ngay. Nếu cần thiết, cả hai bạn sẽ được điều trị. Hai bạn cần kiêng giao hợp cho đến khi chữa khỏi, sau đó dùng bao cao su.
- Sâu răng, viêm lợi: Cần chữa ngay, tránh để nặng có thể nhiễm trùng toàn thân. Mẹ bé hãy ăn thêm những thức ăn có chứa canxi.
- Đi đái rắt và đau: Cần khám để điều trị ngay nếu viêm đường tiết niệu.
- Chân sưng, đau, kèm theo sốt: Có thể là viêm tĩnh mạch, cần điều trị.
- Phù nặng đột ngột (đặc biệt phù mặt, tay), đau đầu, chóng mặt, mờ mắt, nôn: Đây là dấu hiệu tiền sản giật. Mẹ bé cần được đưa ngay đến bệnh viện cấp cứu.
- Đau bụng kèm theo ra máu: Cần đưa đến bệnh viện ngay vì có thể là dấu hiệu sẩy thai hoặc tệ hơn là chửa ngoài tử cung, có thể nguy đến tính mạng.
- Mất các dấu hiệu thai nghén: Nếu người mẹ cảm thấy các dấu hiệu thai nghén vốn vẫn có tự nhiên mất đi thì nên đi khám, vì có khả năng thai không còn sống nữa.
  • Sẩy thai
Có nhiều trường hợp sẩy thai từ trước khi người phụ nữ biết mình thụ thai. Trứng và tinh trùng kết hợp, nhưng bị đào thải ngay, nên người phụ nữ vẫn hành kinh, không biết là mình sẩy thai. Cũng có nhiều trường hợp sẩy thai ta biết được, thường khá sớm, trong ba tháng đầu, nguyên nhân thường là phôi có bất thường về gen nên có thể ngừng thai nghén để không sinh ra một cá thể khuyết tật. Đây thực là một sự đào thải may mắn. Đa số các phụ nữ sẩy thai sớm sau đó lại mang thai và sinh nở an toàn.
Chỉ có một số ít trường hợp sẩy thai muộn trong tháng thứ tư hoặc tháng thứ năm. Nguyên nhân thường là do điều kiện sức khoẻ của người mẹ, tình trạng tử cung bất thường hoặc hở eo cổ tử cung, do sử dụng một loại thuốc có hại, tiếp xúc với chất độc, do người mẹ bị chấn thương nặng hoặc rau thai có vấn đề. Đa số các bà mẹ sau đó cũng lại mang thai, sinh nở an toàn, chỉ một số ít trường hợp cần sự can thiệp của bác sĩ chuyên khoa. Có một số ít trường hợp sẩy thai nhiều lần mà bác sĩ không điều trị được hoặc không tìm ra nguyên nhân.
Ra máu không phải lúc nào cũng là dấu hiệu động thai, sẩy thai, nhưng bất cứ khi nào có ra máu, dù là máu tươi hay sẫm màu cũng cần đi khám. Các bạn sẽ được những lời khuyên về dưỡng thai (thường là nằm bất động). Nếu thai đã sẩy (biểu hiện là ra máu kèm theo đau bụng dưới), người mẹ cần được điều trị ngay để đảm bảo không sót thai, sót rau và để chống ra máu kéo dài.
  • Chửa ngoài tử cung
Chửa ngoài tử cung là trường hợp trứng sau khi thụ tinh khong về được đến tử cung, phải làm tổ trong ống dẫn trứng (cũng có trường hợp nằm trong ổ bụng). Ống dẫn trứng không co giãn như tử cung nên khi thai lớn lên đến một mức độ nào đó thì ống dẫn trứng sẽ vỡ, nguy hiểm đến tính mạng của người mẹ.
Triệu chứng chửa ngoài tử cung là ra máu và đau bụng dưới. Người phụ nữ biết mình có thai (hoặc thấy chậm kinh) mà đau bụng và ra máu thì phải hạn chế vận động và đến bệnh viện ngay để chạy chữa kịp thời nếu là chửa ngoài tử cung. Nếu ống dẫn trứng vỡ thì thai phụ sẽ thấy đau đột ngột, ghê gớm, có thể nôn hoặc ngất, và cần được phẫu thuật ngay, có thể phải truyền máu nữa.
Việc có thai ngoài tử cung có thể xảy ra với bất cứ phụ nữ nào nhưng nguy cơ cao hơn ở những người đã từng bị bệnh lây qua đường tình dục hoặc đã từng phẫu thuật ống dẫn trứng.

“Cô gái 2 màng trinh” từ chối đóng phim sex

“Cô gái 2 màng trinh” từ chối đóng phim sex
(Dân trí) - Hazel Jones, người phụ nữ Anh 27 tuổi được biết đến từ giữa tháng 1/2012 do cấu tạo tử cung kỳ lạ mới đây đã từ chối lời mời đóng phim khiêu dâm với trị giá cát-xê lên tới... 1 triệu đô la Mỹ.
 

Hazel Jones.

Theo nguồn tin từ TMZ.com, nhà sản xuất phim “người lớn” - Steven Hirsch đã gửi đến Hazel bức thư với nội dung đại ý như sau:
 
“... Cô là một người phụ nữ kỳ lạ và tôi muốn gửi tới cô lời mời tham gia diễn xuất trong một sản phẩm phim sắp tới. Chúng tôi sẽ trả 1 triệu đô la nếu cô nhận lời”.
Nguồn tin cho biết thêm, Hazel có thể tùy ý chọn bạn diễn nếu đồng ý đóng phim.
69% trong tổng số 15.016 bạn đọc tham gia điều tra trên TMZ.com cho biết họ sẽ xem phim khiêu dâm nếu có Hazel đóng. Nhưng Hazel đã từ chối lời mời rất béo bở này.

Nhà sản xuất Steven Hirsch

Còn nhớ hồi tháng 1, cư dân mạng xôn xao về người phụ nữ có cấu tạo tử cung “triệu người có một”: 2 tử cung, 2 cổ tử cung và tất nhiên cả 2... cái ngàn vàng. Hiện tượng xảy ra khi một vách ngăn giữa hai ống cấu tạo nên tử cung lẽ ra phải tiêu biến thì vẫn “ở nguyên hiện trường”, hình thành nên 2 tử cung.

Lần đầu tiên Hazel phát hiện ra điều này là năm cô 18 tuổi, khi bạn trai của Hazel nhận thấy có gì đó thật “khác biệt”, gợi ý cô đi khám. Sau khi đã làm tất cả các xét nghiệm, bác sĩ kết luận về tình trạng của Hazel.
Hazel không lấy đó làm buồn rầu hay bối rối, thậm chí cô cho rằng thật kì diệu, và đồng ý chụp hình trên tạp chí Bizzare. “Đời người con gái chỉ có 1 lần thôi nhưng tôi thì có 2 cơ đấy!”. Hazel hiện vẫn đang có đời sống tình dục rất tốt với chồng của cô.

PHÁC ĐỒ ĐIỀU TRỊ THAI NGOÀI TỬ CUNG - Phác đồ điều trị Bv Từ Dũ

CHẨN ĐOÁN
Phụ nữ tuổi sanh đẻ có đau bụng hay ra huyết
- Nếu HCG dương tính và SA trong TC không có thai, ± u cạnh TC đều chẩn đoán thai ngoài TC.
- Thấy túi thai trong TC loại trừ thai ngoài TC, trừ trường hợp có kèm thai trong với thai ngoài TC (1/30.000).
- HCG thấp so với tuổi thai kèm với SA nghi ngờ, có thể nội soi chẩn đoán.
- Quyết định nội soi dựa trên:
+ yếu tố nguy cơ (bảng 1), tiền căn thai ngoài TC, thụ tinh trong ống nghiệm, phẫu thuật tai vòi, có vòng, có chóng mặt, . .
+ trên SA có khối cạnh TC nghi ngờ, có dịch ổ bụng.
Bảng 1. Các yếu tố nguy cơ thai ngoài TC
Yếu tố
Nguy cơ tương đối
Tiền căn TNTC
3,9
Phẫu thuật tai vòi
2,4
Hút thuốc
1,26 –2,42
Kích thích rụng trứng
1,66
Nhiễm Chlamydia
1,50
Có vòng
1,34
VMC cắt ruột thừa
1,25
ĐIỀU TRỊ
Nhằm 4 Mục Đích:
- Giải quyết khối TNTC
- Giảm tối đa tỉ lệ tử vong
- Ngừa tái phát TNTC
- Duy trì khả năng sinh sản
1. Thai ngoài tử cung vỡ có choáng:
- Hồi sức chống choáng tích cực:
- Truyền dịch, truyền máu hoặc dung dịch cao phân tử
- Vừa hồi sức vừa phẫu thuật:
- Chọn phương pháp kiểm soát chảy máu nhanh nhất.
- Cắt triệt để tai vòi để làm giảm tái phát
- Nếu TNTC đoạn kẽ, phải xén góc TC, khâu lại bằng chỉ catgut chromic 0 hoặc 1(0) hoặc chỉ Vicryl
- Đoạn sản nếu có chỉ định.
Thai ngoài TC vỡ nhưng chưa có dấu hiệu choáng có thể phẫu thuật nội soi.
2. Huyết tụ thành nang:
- Nếu khối huyết tụ nhỏ (≤ 8 cm): mổ nội soi.
- Nếu khối huyết tụ lớn (> 8 cm): mở bụng lấy khối huyết tụ.
3. Thai ngoài tử cung chưa vỡ:
- Mở bụng hoặc PT nội soi
- Nội soi khi không có chống chỉ định.
- Mở bụng khi có chống chỉ định của PT nội soi hoặc không có điều kiện nội soi
- Cắt tai vòi hoặc điều trị bảo tồn.
4. Thai trong ổ bụng
- Thai chết, phải phẫu thuật lấy khối thai ra.
- Thai sống, phẫu thuật ngay vì nguy cơ gây xuất huyết nội. Lúc mổ khi lấy nhau chỉ lấy phần dễ lấy, không cố gắng lấy phần dính chặt vào các cơ quan trong ổ bụng vì nguy cơ gây chảy máu nhiều. Phần nhau còn lại sẽ tự hủy không cần can thiệp, hoặc có thể dùng methotrexate để đẩy nhanh quá trình hủy nhau. Không dẫn lưu.

CHỐNG CHỈ ĐỊNH CỦA NỘI SOI TRONG TNTC

Hoang mang không biết có bị thai ngoài tử cung

Hoang mang không biết có bị thai ngoài tử cung

Không biết là em có thai chưa? Và liệu có thai ngoài tử cung không? Em rất hoang mang. Xin bác sĩ tư vấn và trả lời sớm cho em.
Bác sĩ ơi,
Em 25 tuổi, lấy chồng được 6 tháng rồi... Trước em có dùng thuốc tranh thai hàng ngày của N., mới ngưng thuốc khoảng 4 tháng. Sau khi em bỏ thuốc, kinh nguyệt lúc thì tháng rưỡi lúc thì 2 tháng (trước đây khi chưa uống thuốc cũng vậy).
Tháng này, em chậm kinh 12 ngày, người mệt mỏi, rất buồn ngủ, ngực căng. Siêu âm ngày 7/8 kết quả như sau:
- Tử cung hơi ngả sau, niêm mạc 14mm
- Phần phụ trái : bình thường
- Phần phụ phải: bình thường
- Buồng trứng có nhiều nang noãn nhỏ
- Túi cùng Douglas: có nhiều dịch (dày 6.5mm)
BS nói có khi em chửa ngoài tử cung và yêu cầu xét nghiệm máu thì bêta HCG là 23,6 UI/l. BS hẹn em 1 tuần sau khám lại.
Không biết là em có thai chưa? Và liệu em có thai ngoài tử cung không? Em chưa nạo phá thai bao giờ và BS cũng không nói em bị viêm nhiễm gì cả. Em rất hoang mang... Xin bác sĩ tư vấn và trả lời sớm cho em.
(ege rge - bupbekhong...@yahoo.com)
http://www.askamum.co.uk/upload/9292/images/woman-looking-worried-450.jpg
Ảnh minh họa
Trả lời:
Chào em,
Trước khi lập gia đình và sau khi ngưng thuốc ngừa thai dạng uống hàng ngày, kinh nguyệt của em không đều (1,5 – 2 tháng mới có một lần), nên khó xác định có thai dựa vào ngày kinh.
Các triệu chứng trễ kinh, mệt mỏi, rất buồn ngủ, ngực căng và chạm vào thì đau là những triệu chứng không đặc hiệu, chỉ gợi ý chứ chưa thể chẩn đoán chắc chắn là bạn có thai. Trễ kinh trên một người có kinh nguyệt không đều là một triệu chứng không đáng tin cậy.
Siêu âm có nội mạc tử cung dày, buồng trứng có nhiều nang noãn nhỏ, túi cùng Douglas: có nhiều dịch (dày 6,5mm), bêta hCG trong máu là 23,6 UI/l. Qua kết quả siêu âm không thấy túi thai trong lòng tử cung, nội mạc dày phù hợp với trễ kinh, túi cùng có dịch là một bất thường cần được theo dõi sát.
Xét nghiệm beta hCG trong máu là xét nghiệm định lượng và kết quả là chính xác, trừ trường hợp bạn có khối u chế tiết beta hCG. Nếu nồng độ hCG trong nước tiểu > 25 IU/L hay beta hCG trong máu > 5 mIU/ml được xem như là thử thai dương tính, như vậy xét nghiệm beta hCG của em là dương tính.
Nồng độ beta hCG thông thường tăng gấp đôi sau mỗi 2 ngày trong 40 ngày đầu tiên sau thụ thai. Nếu có nghi ngờ thì cần xét nghiệm beta hCG sau 2 ngày để xem nồng độ beta hCG tăng như thế nào. Nếu sau 7 ngày mới tăng gấp đôi và không thấy túi thai trong buồng tử  cung thì khả năng thai ngoài tử cung là rất cao.
Nếu nghi ngờ thai ngoài tử cung, em nên thử lại beta hCG sau 2 ngày, trường hợp siêu âm lại vẫn không thấy túi thai, sẽ làm tiếp nong và nạo lấy mẫu mô từ nội mạc tử cung cho thấy không có mô của thai hoặc nội soi ổ bụng là phương pháp quan sát trực tiếp có thể thấy được thai ngoài tử cung.
Do đó, em cần phải theo dõi sát ở bệnh viện sản khoa cho đến khi xác định có thai trong buồng tử cung. Nguyên nhân gây thai ngoài tử cung có rất nhiều, không phải chỉ hút nạo thai mới gây thai ngoài tử cung em nhé.
Thân mến!

Chửa ngoài tử cung

Chửa ngoài tử cung - chi tiết



Chửa ngoài tử cung là một cấp cứu phụ khoa hay gặp có thể gây nguy hiểm đến tính mạng , ngày nay chửa ngoài tử cung có xu hướng tăng lên ước tính tỷ lệ chửa ngoài tử cung chiếm khoảng 1,3 % số thai nghén.
http://thainghen.net

1- Định nghĩa :

Chửa ngoài tử cung là trường hợp trứng không làm tổ ở buồng tử cung mà trứng làm tổ ở bất kì nơi nào trên đường đi của nó .
Như vậy vị trí thường gặp là:

- Vòi trứng chiếm 95%
- Chửa trên bề mặt buồng trứng chiếm 3%
- Chửa trong ổ bụng chiếm 2%

2- Nguyên nhân :

- Do viêm nhiễm vòi trứng đặc biệt là viêm lòng vòi trứng làm chít hẹp vòi trứng
- Do vòi trứng dị dạng bẩm sinh (kém phát triển, quá dài hoặc túi thừa)
- Do khối u chèn ép vào vòi trứng, lạc nội mạc tử cung vào trong lòng vòi trứng Do tạo hình vòi trứng trong trường hợp chữa vô sinh ( nối hoặc thông vòi).
- Dính vòi trứng do hậu quả của của viêm tiểu khung
- Dụng cụ tử cung cũng làm tăng nguy cơ chửa ngoài tử cung .


Các vị trí di chuyển của trứng

3. Giải phẫu bệnh

3.1. Phân loại theo vị trí giải phẫu

_ Chửa ở vòi trứng hay gặp nhất :
+ Chửa loa vòi trứng chiếm khoảng 5 %
+ Chửa đoạn bóng vòi trứng chiếm khoảng 75-80 %
+ Chửa đoạn eo vòi trứng gặp khoảng 10 %
+ Chửa đoạn kẽ vòi trứng khoảng 2 %
_ Chửa ở buồng trứng ít gặp hơn chiếm khoảng 1% các trường hợp
_ Chửa trong ổ bụng chiếm khoảng 1 %
_ Chửa ống cổ tử cung chiếm khoảng 0,3 -0,5 %

3.2 Trứng có thể phát triển bất kỳ phần nào của vòi trứng

Gây ra chửa ngoài ở đoạn bóng , đoạn eo và đoạn kẽ của vòi trứng bởi vì trứng có xu hướng đào sâu để làm tổ, do vòi trứng không có lớp dưới niêm mạc . Lớp nguyên bào nuôI của trứng chế tiết men ăn mòn tổ chức xung quanh , xâm nhập phá huỷ tổ chức và phá huỷ lớp cơ của vòi trứng .

- Cấu trúc của lớp cơ vòi trứng gồm 2 lớp: lớp trong cơ vòng, lớp ngoài cơ dọc, niêm mạc lòng vòi được chụm lại có nhiều nếp. Lớp niêm mạc chỉ có 1 lớp TB có nhung mao và chế tiết, không có lớp dưới niêm mạc.

- Khi thụ tinh vùng niêm mạc vòi là nơi làm tổ của trứng, trứng làm tổ ở giữa 2 nếp niêm mạc của vòi trứng, nó bám vào niêm mạc vòi, lớp này rất nông, ít mạch máu nên các tế bào nuôi phát triển mạnh , chúng sẽ ngoạm vào niêm mạc vòi ăn sâu xuống lớp cơ vòi đục thủng vào các mạch máu, khối thai ngày càng lớn lên càng làm lớp cơ vòi trứng bị tổn thương.

3.3 Các thay đổi ở tử cung

- Niêm mạc tử cung vẫn tăng sinh chuyển thành màng rụng giống như ở trường hợp có thai bình thường, dưới tác dụng của nội tiết Ostrogen và Progesteron của rau thai thì màng rụng vẫn tăng sinh cho đến khi rau thai bị tách khỏi vì trứng hoặc bị thoái hoá không còn hoạt động thì lượng nội tiết giảm xuống, lúc này thì màng rụng trong buồng tử cung rụng xuống và bị đẩy ra ngoài thành từng mảnh làm người ta nhầm tưởng tới sảy thai.

- Kích thước tử cung cũng thay đổi cổ tử cung mềm ra thân tử cung to lên nhưng không tương ứng với tuổi thai

3.4 Tiến triển của chửa ngoài tử cung

_ Vỡ vòi trứng có thể gặp ở bất kỳ đoạn nào của vòi trứng , tuỳ theo vị trí trứng làm tổ , thời điểm vòi trứng bị vỡ có thể xẩy ra sớm hay muộn gây chảy máu ngập lụt vào ổ bụng Sẩy qua loa vòi trứng : trứng bong ra khỏi vòi trứng bị đẩy qua loa vòi vào ổ bụng hậu quả là trứng bị đẩy qua loa vòi sẩy vào ổ bụng.

_ Thể huyết tụ : từ chỗ trứng bị bong máu chảy rỉ rả qua loa vòi tích tụ lại thành khối máu tụ , khối máu tụ này được các mạc nối bao lại

_ Chửa trong ổ rất hiếm gặp có thể tiên phát hay thứ phát sau sẩy qua loa vòi đôi khi có trường hợp thai sống phát triển đến đủ tháng .
Triệu chứng

1-
Triệu chứng lâm sàng
Cơ năng

Trước hết phải có dấu hiệu có thai:

- Chậm kinh
- Nghén: Buồn nôn, nôn, vú căng, mệt mỏi,
- Thử thai: dương tính
Dấu hiệu ra máu âm đạo:

- Ra máu ít một
- Máu đỏ hoặc nâu, đen
- Kéo dài dai dẳng
- Khác với máu kinh
Đau bụng hạ vị

- Đau âm ỉ
- Có khi thành cơn
- Sau mỗi cơn thường kèm theo ra huyết âm đạo
Ngất:
là triệu chứng hay gặp nhưng ít có giá trị, thường do quá đau.

Thực thể
Đặt mỏ vịt:

- CTC tím
- Đóng kín
- Có ít máu đen từ lỗ cổ tử cung
Thăm bằng tay

- Cổ và thân tử cung mềm
- TC to hơn bình thường nhưng nhỏ hơn so với tuổi thai
- Có thể sờ thấy một khối cạnh TC với các tính chất : mềm, ranh giới không rõ, ấn vào thì bệnh nhân rất đau
- Túi cùng sau: nếu có máu chảy xuống thì ấn vào rất đau

2-
Triệu chứng CLS

Chẩn đoán có thai


- Que thử nhanh dương tính
- Định lượng hCG: nếu có thai bình thường thì lượng beta-hCG sẽ tăng gấp đôi sau 48h(2 ngày) song nếu là chửa ngoài TC thì beta-hCG tăng ít hoặc không tăng, thậm chí giảm đi.

Siêu âm thai


- Hình ảnh túi thai ngoài tử cung và không có trong tử cung. Bình thường khi nồng độ bta-hCG đạt 1000UI/l (một số nghiên cứu là 700) thì bắt đầu có thể thấy hình ảnh túi phôi trên siêu âm qua đầu dò âm đạo và siêu âm qua thành bụng khi beta-hCG trên 3000UI/l

- Các hình ảnh thấy trên siêu âm cho phép nghĩ tới chửa ngoài tử cung:
Không thấy hình ảnh túi thai trong buồng tử cung

Cạnh tử cung có một vùng âm vang thai : không đồng nhất, ranh giới rõ, kích thước từ 2-4cm

Dịch ở túi cùng đồ: trong trường hợp tử cung có rỉ máu
Một số trường hợp có thể thấy cả tim thai

Soi ổ bụng


- Là phương pháp cho phép chẩn đoán sớm ở những trường hợp khó ( lâm sàng và xét nghiệm đều không rõ ràng để cho phép chẩn đoán chửa ngoài tử cung)

- Hình ảnh thấy khi soi ổ bụng là một khối tím thẫm, căng phồng, có khi rỉ máu. Hình ảnh dồi lợn do khối thai đẩy phồng ống dẫn trứng lên.

Nạo, sinh thiết niêm mạc tử cung:
Mục đích để chẩn đoán phân biệt và chẩn đoán xác định xảy thai không hoàn toàn.

- Gửi giải phẫu bệnh không thấy hình ảnh gai rau, chỉ có hình ảnh màng rụng

- Xét nghiệm lại beta-hCG sau 24h thấy không giảm thì nghĩ nhiều tới chửa ngoài tử cung, nếu giảm trên 50% thì là xảy thai.

Chẩn đoán


Dựa vào

- Lâm sàng: triệu chứng cơ năng (có thai, ra máu) và khám thấy tử cung nhỏ, có khối cạnh tử cung.

- Cận LS:
Định lượng beta-hCG
Siêu âm thai

Chẩn đoán phân biệt


- Các bệnh có biểu hiện có thai

Thai chết lưu
Chửa trứng
Sảy thai
Có thai trong BTC + u xơ TC
Có thai trong BTC + đau bụng do sỏi niệu quản

- Viêm phần phụ:

U nang BT xoắn
Vỡ nang De Graff

- Bệnh nhiễm trùng ổ bụng

Viêm ruột thừa
Viêm phần phụ
Xử trí

Khi đã chẩn đoán được CNTC thì có hai hướng xử trí là Ngoại khoa và nội khoa

Ngoại khoa
Nguyên tắc chung:
Nếu chẩn đoán là CNTC thì nên mổ sớm để tránh tai biến vỡ khối chửa gây chảy máu ổ bụng
Cụ thể
- Có 2 phương pháp mổ: Nội soi và mổ mở (nếu có điều kiện về trang thiết bị và kinh nghiệm thì nên mổ nội soi

Kĩ thuật thực hiện:

a- Điều trị bảo tồn
Rạch dọc bờ tự do của vòi trứng – lấy khối chửa, tiến hành cầm máu và khâu lại vết rạch theo chiều ngang
Nếu vòi trứng đủ dài (≥ 24cm) thì cắt bỏ cả khối chửa, nối hai đầu vòi trừng theo phương pháp tận – tận bằng 1 lớp chỉ tiêu – mũi rời.
Sau mổ: theo dõi beta-hCG và chụp tử cung – vòi trứng kiểm tra lưu thông. Nếu hCG không giảm hoặc tăng lên cần phải kiểm tra lại.

b- Cắt đoạn vòi trứng
Cắt toàn bộ khối chửa cùng đoạn vòi trứng sau đó khâu đóng kín mỏm vòi trứng còn lại. Lưu ý để lại buồng trứng
Lau rửa sạch ổ bụng, đóng bụng 2 lớp, không cần dẫn lưu
Ở những phụ nữ luống tuổi, đã đủ con, sau khi cắt đoạn nên triệt sản bên đối diện vì khả năng bị lại khá cao

Nội khoa
Điều trị nội khoa (điều trị bảo tồn) Chỉ áp dụng chọn lọc cho một số ít đối tượng: phụ nữ trẻ chưa có con muốn bảo tồn vòi trứng, người không muốn phẫu thuật và tại cơ sở có đủ điều kiện điều trị NK
Chỉ định: beta-hCG dưới 5000UI/l
Siêu âm: khối chửa nhỏ hơn 3,5cm, cùng đồ ít dịch
BN đau ít
Phương pháp: tiêm 3 mũi Methotrexat
- Mũi đầu tiên: 50mg (tiêm bắp)
- Nằm tại viện theo dõi LS (dọa vỡ)
- Sau 5 ngày định lượng lại beta-hCG nếu giảm trên 30% là kết quả tốt---à tiến hành tiêm mũi thứ 2

- Thành công khi: (thường sau 3 tháng)
LS hết ra máu hết đau bụng
Beta-hCG giảm còn dưới 5 UI/l
- Thất bại: Biến chứng vỡ
Beta-hCG không giảm
Cần chụp vòi trứng kiểm tra s

Hiểu biết về hCG trong thời kì thai nghén

Hiểu biết về hCG trong thời kì thai nghén


hCG là một hormone được sản xuất trong quá trình mang thai. Dựa vào chỉ số hCG, bác sĩ có thể chẩn đoán người mẹ đã mang thai chưa, có mang thai ngoài tử cung hay không... thainghen.net





Quote:
Là 1 sialoglycoprotein có cấu trúc hóa học khá phức tạp, khá giống LH, FSH và TSH do tế bào lá nuôi bài tiết ngay sau khi có hiện tượng làm tổ của trứng. Nồng độ hCG tăng tối đa khoảng tuần thứ 8-9 sau đó giảm dần, đến tuần thứ 20 thì duy trì đến lúc đẻ
- Nồng độ hCG tăng lên gấp đôi sau mỗi 48-72h ở khoảng 85% thai phụ. Ở giai đoạn muộn hơn, (khi nồng độ hCG đã cao hơn trước), phải mất nhiều thời gian hơn để nó tăng gấp đôi (sau khoảng mỗi 96 giờ).

- Một thai kỳ có thể có nồng độ hCG thấp nhưng thai nhi vẫn hoàn toàn khỏe mạnh.

- Nồng độ hormone hCG được tính theo đơn vị milli-international units (đơn vị quốc tế) trên mỗi mili-lít (ký hiệu là mIU/ml).

- Nồng độ hCG thấp hơn 5mIU/ml được xem là âm tính đối với thai kỳ, nếu như nó cho kết quả trên 25mIU/ml thì được xem là dương tính.

- Chỉ một kết quả hCG duy nhất không cung cấp đủ thông tin cho bác sĩ để chẩn đoán tình hình sức khỏe của thai phụ. Khi có băn khoăn về sức khỏe của thai phụ, bác sĩ có thể sẽ cho thực hiện nhiều xét nghiệm hCG cách nhau 1-2 ngày để giúp chẩn đoán chính xác hơn.

- Không nên dùng nồng độ hCG để tính tuổi thai, do những con số này có độ thay đổi rất lớn.

- Có 2 loại xét nghiệm hCG thường gặp:

+ Xét nghiệm
Định tính:để tìm câu trả lời cho câu hỏi: "Có hCG hiện diện trong máu không?"

+ Xét nghiệm
định lượng: để tìm câu trả lời cho câu hỏi: "Lượng hCG trong máu là bao nhiêu?"

KẾT QUẢ

Nếu mực hCG thấp (so với bình thường)

Hàm lượng hCG khi không có thai luôn ở mức thấp, ngoài ra có những khả năng sau:


- Chửa ngoài tử cung.


- Có thể xảy thai hoặc thai chết lưu.


- Tính nhầm tuổi thai.


- Thai bị Down

Nếu mực hCG cao
(so với bình thường)Hàm lượng hCG ở mức cao, xảy ra một trong số những khả năng sau:

- Song thai / đa thai.


- Tính nhầm tuổi thai.


- Chửa trứng (thai trứng).


- Thai bị dị tật bẩm sinh ( hội chứng Edwards, Patau)

Nồng độ hCG khi không còn mang thai

Nồng độ hCG có thể quay trở lại bằng mức độ của những người không mang thai trong vòng từ 4-6 tuần, sau khi chấm dứt thai kỳ. Nồng độ này có thể khác nhau; chẳng hạn, tự nhiên sảy thai; nạo thai, phá thai hay sinh nở bình thường. Các bác sĩ thường sẽ tiếp tục theo dõi nồng độ hCG sau khi thai kỳ chấm dứt để bảo đảm chúng quay trở về <5.0.

Yếu tố ảnh hưởng đến hàm lượng hCG

Những loại thuốc chứa hCG sẽ ảnh hưởng đến mực hCG trong cơ thể. Những loại thuốc như kháng sinh, thuốc giảm đau, thuốc tránh thai không ảnh hưởng đến kết quả xét nghiệm hCG

Thứ Tư, 29 tháng 2, 2012

Phá thai bằng thuốc

PHÁ THAI BẰNG THUỐC ƯU ĐIỂM TỶ LỆ THÀNH CÔNG CAO
Phá thai bằng thuốc (PTBT) là một phương pháp phá thai rất phổ biến trên thế giới bởi nó an toàn cho chị em. Tuy nhiên trên thực tế, việc PTBT chưa thực sự mặn mà với chị em bởi những yếu tố về kinh tế cũng như những rắc rối mà họ có thể gặp phải.

Báo KH&DT đã có cuộc trao đổi với PGS.TS Nguyễn Đức Hinh (ảnh) - Phó Giám đốc Bệnh viện Phụ sản Trung ương xung quanh vấn đề này.

Tiện lợi, tỷ lệ thành công cao

So với việc can thiệp bằng thủ thuật thì PTBT được xem là tiện lợi, nhanh chóng; tránh được những tai biến rách hay nhiễm trùng tử cung... do việc phải đưa dụng cụ vào buồng tử cung. Đặc biệt, phương pháp này có tỷ lệ thành công khá cao khoảng 92% cho thai dưới 49 ngày tuổi.

Theo dự kiến, việc PTBT đang được nghiên cứu để kéo dài tới 63 ngày. Để phá thai dưới 49 ngày tuổi, cần có 2 loại thuốc kết hợp là Mifepristone và Misoprostol (Cytotec). Tuy chỉ là uống thuốc để gây sẩy thai tự nhiên, nhưng quy trình uống phải được quản lý chặt: Bệnh nhân sẽ uống viên đầu (Mifepristone 200mg) dưới sự giám sát của bác sĩ, 15 phút sau khi uống thuốc bệnh nhân mới được rời cơ sở y tế. Sau 48 giờ phải quay trở lại để uống tiếp 2 viên Misoprostol (mỗi viên 200mg) và phải ở lại bệnh viện khoảng 4 giờ để theo dõi.

Mặc dù việc lưu hành thuốc chỉ được phép trong các cơ sở y tế ở tuyến tỉnh và trung ương nhưng trên thực tế, người dân vẫn có thể mua được ở ngoài thị trường loại thuốc Misoprostol (Cytotec). Nếu chỉ dùng thuốc Misoprostol (Cytotec) thì sẽ phá thai từ 13 tuần tuổi.

Còn thuốc Mifepristone thì được quản lý chặt chẽ hơn, chỉ có trong bệnh viện (BV). Theo quy định trong quyển “Hướng dẫn chuẩn quốc gia về các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản“ từ năm 2002 đến nay vẫn còn giá trị: việc PTBT chỉ áp dụng cho thai dưới 49 ngày; chỉ được phép triển khai ở những BV tuyến trung ương, tuyến tỉnh và nhất thiết phải uống thuốc dưới sự hướng dẫn, giám sát chặt chẽ của bác sĩ ngay từ BV.

Tuy nhiên, hiện nay, không chỉ có các BV tuyến tỉnh và tuyến trung ương, mà còn có một số phòng khám tại Hà Nội và Hải Phòng thuộc Hội kế hoạch hóa gia đình (VINAFPA) cũng thực hiện việc phá thai này (theo dự án nghiên cứu phá thai). Trường hợp phá thai này áp dụng cho thai dưới 56 ngày tuổi.

... nhưng chị em không mặn mà

Mặc dù đây là một phương pháp rất tiện lợi, bớt ảnh hưởng nhiều tới sức khỏe của chị em so với biện pháp nạo hút, song trên thực tế, không phải ai cũng ưa thích. Lý do thứ nhất là tất cả những bệnh nhân khi dùng phương pháp này bao giờ cũng phải cam kết nếu thất bại, bắt buộc phải phá thai bằng hút, không được phép để lại, vì các thuốc phá thai này có nguy cơ gây dị dạng thai nhi.

Bên cạnh đó là vấn đề kinh phí. Nếu như một ca hút thai chỉ tốn khoảng 80 nghìn đồng thì việc PTBT sẽ phải mất từ 300 - 350 nghìn đồng. Đó cũng chính là lý do vì sao tỷ lệ sử dụng phương pháp PTBT chỉ chiếm từ 1/3 - 1/4 trường hợp đến phá thai tại BV.

Một vấn đề nữa là thời gian. Hút thai chỉ mất có 15 phút trong BV, trong khi uống thuốc phá thai thì phải đến BV 2-3 lần vì cần phải theo dõi kết quả sau khi uống thuốc. Hạn chế của PTBT còn là khách hàng lại phải chịu đau đớn trong một thời gian do thuốc gây ra hiện tượng sẩy thai tự nhiên.

Mặt khác, dù tỷ lệ tai biến do PTBT thấp hơn so với can thiệp bằng thủ thuật, nhưng không phải là không có. Tai biến thường gặp là xuất huyết ồ ạt sau khi uống thuốc, bắt buộc người sử dụng phương pháp này phải ở cách cơ sở y tế - nơi thực hiện PTBT - không quá 30 phút di chuyển. Hiện vẫn chưa có kết luận về sự ảnh hưởng của những trường hợp dùng quá nhiều thuốc phá thai.

Xu hướng thế giới hiện nay ngày càng nhiều người sử dụng PTBT, hạn chế phá thai bằng thủ thuật. Ở nhiều nước, người ta còn cho phép cả nữ hộ sinh cũng được thực hiện PTBT. Chính vì thế, Bệnh viện Phụ sản Trung ương đang đề xuất cho điều chỉnh “chuẩn quốc gia về các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản“ trong việc sử dụng PTBT. Cụ thể là BV tuyến huyện thực hiện PTBT dưới 49 ngày, tuyến tỉnh dưới 56 ngày và tuyến trung ương dưới 63 ngày. Còn việc nữ hộ sinh thì còn đang tranh luận.

  Đề tìm hiểu thông tin và được tư vấn chính xác :Bạn có thể đến Phòng  Khám  Đa Khoa Hữu  Nghị  Vệt Pháp Đt : 0466741651, mail : vietphapclinic@yahoo.com hoặc wsite : Vietphapclinic.com

Địa chỉ phá thai bằng thuốc

Phá thai 3 tháng đầu bằng thuốc (Mifepristone và Misoprostol)
Ảnh chỉ mang tính chất minh hoạ.

Khoa KHHGĐ
BV Từ Dũ

Phá thai ba tháng đầu bằng thuốc được thực hiện cho ai?

Phương pháp này được thực hiện cho những phụ nữ:
- Có thai 7 tuần tuổi trở xuống (tính từ ngày đầu tiên của kỳ kinh cuối cùng).
- Muốn chấm dứt thai nghén.

Phương pháp này có an toàn và hiệu quả không ?
- Phá thai bằng thuốc là phương pháp sử dụng thuốc để chấm dứt thai nghén một cách an toàn và tin cậy.

- Phương pháp này an toàn khi người cung cấp dịch vụ là các cán bộ y tế đã được đào tạo và có đủ kỹ năng thực hiện phương pháp phá thai này.

- Phá thai bằng thuốc có hiệu quả tới 96-99%.

Phương pháp này diễn ra thế nào?
- Nhân viên y tế sẽ thực hiện khám khung chậu.

- Nhân viên y tế sẽ hỏi bạn một số câu hỏi về sức khoẻ của bạn, giải thích về quá trình phá thai và tư vấn cho bạn về các biện pháp tránh thai.

- Bạn cần ký vào một bản cam kết phá thai.

- Sau đó nhân viên y tế sẽ đưa cho bạn một viên thuốc tên Mifepristone (Mifestad®200) để uống tại cơ sở. Mifepristone (Mifestad®200) sẽ làm thai bạn ngừng phát triển.

- Có thể bạn sẽ cảm thấy vẫn bình thường sau khi uống viên thuốc này nhưng cũng có thể thấy ra máu âm đạo.

- Bạn sẽ về nhà sau khi uống viên thuốc này.

- Bạn sẽ uống loại thuốc tiếp theo là Misoprostol: uống 2 viên Misoprostol sau khi uống Mifepristone 2 ngày. Bạn có thể quay lại cơ sở y tế để uống Misoprostol.

- Thông thường trong vòng 30 phút đến 4 giờ sau khi uống Misoprostol, bạn sẽ đau bụng, ra máu nhiều và ra máu cục khi thai được tống ra ngoài.

- Phần lớn phụ nữ ra máu như hành kinh trong vòng 10 ngày kể từ khi uống thuốc, tuy nhiên một số ít phụ nữ có thể ra máu nhẹ kéo dài hơn 1 tháng.

Có tác dụng phụ khác không?
- Bạn có thể thấy buồn nôn, tiêu chảy hoặc nôn mửa trong quá trình sảy thai. Những triệu chứng này gây khó bạn nhưng không phải là vấn đề bất thường và sẽ qua đi trong thời gian ngắn, không cần điều trị đặc biệt gì.

- Bạn sẽ được kê đơn thuốc giảm đau, như Paracetamol hoặc Ibuprofen để giảm cơn đau bụng.

- Bạn cũng có thể dùng chai nước nóng hoặc khăn ấm để chườm bụng.

- Bạn có thể thấy đau đầu và chóng mặt sau khi uống Misprostol. Hãy uống nhiều nước hoặc nước hoa quả - không uống cà phê hoặc rượu và uống thuốc giảm đau nếu cần thiết.

- Một số phụ nữ bị sốt trong vài giờ, đôi khi kèm theo ớn lạnh. Triệu chứng này sẽ nhanh chóng qua đi và không nguy hiểm.

Tôi phải làm gì khii thực hiện phương pháp này?
- Thay băng vệ sinh thường xuyên như trong kỳ kinh bình thường cho đến khi hết ra máu.

- Bạn có thể tắm bình thường.

- Bạn không cần ăn kiêng bất kỳ loại thức ăn nào.

Nếu phương pháp này thất bại thì sao?
- Thai nhi có thể bị khuyết tật nếu bào thai tiếp tục phát triển. Do đó, khi bạn đã dùng Mifepristone, bạn không thể giữ được thai nữa.

- Nếu phá thai bằng thuốc thất bại, cần tiến hành hút thai.

Có thể xảy ra tai biến không?

Phá thai ba tháng đầu bằng thuốc là thủ thuật an toàn hơn nhiều so với phương pháp nạo bằng thìa, tuy nhiên vẫn có một tỷ lệ nhỏ các tai biến có thể xảy ra.

Những tai biến nào có thể xảy ra?

Rất hiếm khi khách hàng gặp tai biến và biến chứng như:
- Ra máu quá nhiều cần phải hút thai bằng phương pháp hút chân không.
- Nhiễm trùng cần dùng thuốc kháng sinh.
- Ra máu quá nhiều gây mệt mỏi hoặc chóng mặt, cần tiếp máu.

Khi nào tôi nên quay lại cơ sở y tế?

Nếu bạn thấy:
- Đau bụng liên tục sau giai đoạn ra máu ban đầu.

- Ra máu âm đạo quá nhiều(mỗi giờ thấm hết 2 băng vệ sinh dày trong 2 giờ liền).

- Sốt 380C trở lên và kéo dài trên một ngày sau khi uống Misoprostol.

- Không ra máu trong vòng 24 giờ sau khi uống thuốc Misoprostol.

(Chú ý: có thể ra máu kéo dài trong vài tuần nhưng phải giảm dần về lượng)
- Quay lại khám kiểm tra trong vòng 2 tuần để khẳng định đã sảy thai hoàn toàn. Lần tái khám này là vô cùng quan trọng.

Tôi phải làm gì để tránh có thai ngoài ý muốn?

Phương pháp phá thai bằng thuốc sẽ chấm dứt thai nghén lần này nhưng bạn có thể có thai trong vòng 2 tuần sau đó nếu có quan hệ tình dục và không dùng biện pháp tránh thai. Vì vậy, bạn cần sử dụng một biện pháp tránh thai hiện đại để tránh có thai ngoài ý muốn.

Những biện pháp tránh thai hiện tại nào là phổ biến?

Nhân viên y tế sẽ cung cấp thông tin, giúp bạn lựa chọn và hướng dẫn bạn cách sử dụng một biện pháp tránh thai phù hợp.