Thứ Sáu, 27 tháng 4, 2012

Phá thai bằng thuốc nghe, không dùng các can thiệp của y học nghe có vẻ không đau đớn, nhưng thật sự phương pháp này có thật sự là an toàn?

Phá thai bằng thuốc nghe, không dùng các can thiệp của y học nghe có vẻ không đau đớn, nhưng thật sự phương pháp này có thật sự là an toàn?

Mifepristone là gì ?
Mifépristone là loại thuốc có tác dụng làm dừng lại quá trình sản sinh ra thứ hooc môn cần thiết để duy trì thai nghén, hay nói cách khác là thuốc phá thai được sử dụng dưới chỉ định của bác sĩ trong những trường hợp thực sự cần thiết. Thông thường, có hai hình thức dùng thuốc kích thích cho thai ra, hay còn gọi là phá thai, một là bằng phương pháp đặt thuốc ở âm đạo, hai là thuốc uống. Mifepristone là loại thuốc uống, đầu tiên thai phụ sẽ được cho uống một viên thuốc này, 24 h sau đó, thai phụ được chỉ định dùng kết hợp thêm 4 viên Misoprostol, một loại thuốc được dùng điệu trị bệnh liên quan tới dạ dầy, có tác dụng một cách gián tiếp làm sẩy thai. Đối với viên thuốc Misoprostol, người ta đặt viên thuốc vào trong miệng, ở vùng giữa nướu và má, cho thuốc tan từ từ chứ không uống một lần ngay. Misoprostol cũng có thể dùng qua cách đặt ở âm đạo.

Khi nào thì Mifepristone được chỉ định dùng ?

Phương pháp dùng thuốc uống này chỉ có thể được áp dụng trong khoảng thời gian muộn nhất là 63 ngày (chín tuần), tính từ ngày đầu tiên của kỳ kinh trước. Còn nếu dùng kết hợp với thuốc khác (Misoprostol) thì ở khoảng 7 tuần là muộn nhất. Ví dụ, một bạn gái bắt đầu kỳ kinh trước của mình ngày 1 tháng 5, mà sau đó bạn biết chắc là mình đã có thai, thì muộn nhất là khoảng ngày 4 tháng 7, thì bác sĩ có thể cho chỉ định dùng Mifepristone. Từ tuần tứ 9 trở đi, thai đã lớn, thuốc Mifepristone không được coi là phương pháp hiệu quả và an toàn nữa.

Ở Châu Âu, các bác sĩ không chỉ định dùng thuốc uống này một cách dễ dàng. Trong một số trường hợp cần thiết, ví dụ như thai ngừng phát triển từ những tuần đầu tiên, hay có thai ngoài ý muốn mà thai phụ thực sự muốn phá bỏ, thì bắt buộc họ phải chỉ định dùng thuốc để kích thích cho thai ra, nhưng chủ yếu vẫn là phương pháp dùng thuốc đặt ở âm đạo, kích thích các cơn co thắt tử cung. Tuy nhiên, cả hai cách phá thai là đặt thuốc ở âm đạo hay thuốc viên uống này không phải lúc nào cũng thành công như mong đợi, bởi vậy các bác sĩ coi đó như một phép thử thứ nhất, nếu không thành công thì vẫn phải áp dụng cách hút thai thông thường. Trong quá trình dùng thuốc phá thai, thai phụ được theo dõi liên tục.

Dùng thuốc Mifepristone để phá thai có an toàn ?

Phương pháp dùng thuốc phá thai không thể coi là an toàn khi bạn tự dùng thuốc mà chưa hiểu gì về nó và ngộ nhận rằng cứ thấy có ra máu sau khi dùng thuốc thì coi như thai đã được phá bỏ. Thực tế thì thai phụ có thể thấy mất máu, nhưng thai thì vẫn có nguy cơ bị sót lại, nhất là khi thai phụ không tái khám để biết kết quả. Bởi vậy việc tự ý dùng thuốc rất nguy hiểm đến tính mạng của thai phụ nếu gặp biến cố mất máu nhiều hoặc nhiễm trùng.

Mifepristone chỉ được coi là an toàn, khi bạn được bác sĩ chỉ định dùng và được theo dõi liên tục từ liều thuốc đầu tiên. Nếu như bạn được phép đem thuốc về để tự dùng ở nhà theo chỉ dẫn, thì bạn nên xem xét lại, nơi bạn ở có gần bệnh viện hay không, bên cạnh bạn có ai biết hay không, bạn cần cho ít nhất một người biết, phòng trường hợp không may có sự cố, bạn được cấp cứu kịp thời. Trong khi sử dụng thuốc Mifepristone mà thai phụ gặp những biểu hiện như buồn nôn, đau đầu, đau bụng quá dữ dội, sốt, tiêu chẩy, băng huyết ( máu ra quá nhiều, phải thay vài lần băng vệ sinh trong một giờ )… thì họ cần phải tới bệnh viện hoặc phòng khám đủ điều kiện để được điều trị gấp.

Sự thật về việc phá thai “chui”

Đối với một số người, phương pháp phá thai bằng thuốc trên nghe cũng chẳng có gì ghê gớm lắm, thậm chí có vẻ khá “ xuôi chèo mát mái” , rõ ràng đỡ kinh khiếp hơn là cái cảm giác phải vào bệnh viện hay một phòng khám tư nào đó, nơi có tiếng dao kéo xủng xoảng và cả những ánh mắt ghẻ lạnh. Thế nhưng thực tế việc tự ý phá thai mà không có sự theo dõi của bác sĩ, có êm xuôi như ta tưởng ? Hãy xem thống kê dưới đây.

Trên thế giới, mỗi năm có 46.000.000 lần phá thai, thì trong đó đến 20.000.000 trường hợp được thực hiện dưới hình thức “ chui”, hay còn được coi là bất hợp pháp, không an toàn. Theo thống kê của Tổ Chức Y Tế Thế Giới, trung bình, hàng năm có đến 80.000 trường hợp thai phụ chết do mất máu, tử cung bị tổn thương, do nhiễm trùng hay do những nguyên nhân khác phát sinh trong quá trình can thiệp nạo, phá thai.

Cuối cùng thì, thuốc phá thai cũng giống như thuốc lá, nó không được khuyến khích dùng và không được phép quảng cáo, chỉ khác nhau ở chỗ, hút thuốc lá, bạn còn có cơ hội bỏ nếu bạn muốn, còn sự cố trong việc tự ý phá thai bằng thuốc thì có thể nguy hiểm khôn lường, vì nó không cho bạn cơ hội sửa sai. Ở Châu Âu, bạn không thể mua được thuốc này từ hiệu thuốc mà phải có sự thăm khám và chỉ định của bác sĩ.
Có một câu nói không bao giờ là cũ : “ Phòng bệnh hơn chữa bệnh” .

Bạn thân mến!
Phá thai bằng thuốc chỉ được áp dụng với những trường hợp thai dưới 7 tuần và đặc biệt phải có sự thăm khám, chỉ dẫn của bác sĩ và tỉ lệ thành công của nó là 90%. Phá thai bằng thuốc hạn chế được các bất lợi hay tai biến có thể gặp trong phá thai thủ thuật, ví dụ như tai biến sốc do thuốc gây mê, gây tê, tổn thương đường sinh dục (thủng tử cung sau nạo hút ), nhiễm trùng… Thai phụ sẽ cảm thấy tự nhiên hơn, giống như tiến trình sảy thai tự nhiên, do đó áp lực tâm lý sẽ nhẹ nhàng hơn.
Tuy nhiên, nó cũng có những điều cần phải lưu ý:
· Dị ứng với thuốc:có thể nhẹ như nổi mề đay, mẩn ngứa hoặc nặng như khó thở, choáng, tụt huyết áp.

· Không áp dụng được đối vói các thai phụ đang mắc các bệnh nội khoa nặng, đang tiến triển .

· Một số ít trường hợp có tình trạng ra máu nhiều khi vào kỳ kinh kế tiếp, đôi khi cần phải nhập viện điều trị.

Ngoài ra phá thai bằng thuốc đòi hỏi thai phụ phải tuân thủ lịch tái khám, nhằm đảm bảo chắc chắn thai đã chết và đã được tống xuất hoàn toàn, không có tình trạng sót thai hay sót nhau dẫn đến tình trạng ra máu dây dưa có thể làm thai phụ bị thiếu máu và nhiễm trùng.
Để được tư vấn, hỗ trợ trực tiếp từ chuyên gia, bạn vui lòng liên hệ theo số 0466741651
Chúc bạn sức khỏe tốt!

Một số điều cần lưu ý về bệnh viêm họng mãn tính

Một số điều cần lưu ý về bệnh viêm họng mãn tính

Viêm họng mạn tính là viêm mạn tính niêm mạc họng rất hay gặp. Người bệnh thường cảm thấy khô họng, nóng rát trong họng hoặc có cảm giác ngứa họng, vướng họng nhất là khi ngủ dậy, phải cố khạc đờm, đằng hắng để làm long đờm, đờm dẻo và đặc thường tăng lên khi nuốt, ho nhiều vào ban đêm hay khi lạnh. Khi uống rượu, hút thuốc lá nhiều, nói nhiều, triệu chứng trên càng trở nên rõ rệt. Thường các viêm họng mạn tính sẽ lần lượt qua các giai đoạn xuất tiết, quá phát và teo nếu để kéo dài không điều trị.
hong hat Một số điều cần lưu ý về bệnh viêm họng mãn tính

Nguyên nhân

Bệnh viêm họng mạn tính do rất nhiều nguyên nhân gây ra:
*Cơ địa: Bệnh thường xảy ra ở những người có niêm mạc họng yếu ớt về chức năng.
*Môi trường: Là những nguyên nhân ngoại lai rất quan trọng, như:
- Bụi, khói, hóa chất, hơi nóng (ô nhiễm không khí ở các thành phố công nghiệp, trong các nhà máy, lò sát sinh, bếp ăn…).
- Những khác biệt liên tục và lớn về nhiệt độ, ẩm độ trong không khí (gây ra bởi máy điều hòa nhiệt độ…).
*Thói quen: Hút thuốc lá, uống rượu quá độ, thường làm việc trong những môi trường kín, nhiều khói thuốc…
*Những bệnh gây nghẹt mũi như dị ứng mũi xoang, viêm xoang, lạm dụng thuốc nhỏ mũi, những bệnh tích dạng khối u chiếm chỗ trong vòm mũi họng, trong mũi như sùi vòm họng, sự tồn tại của túi Thornwald, đuôi cuốn mũi dưới quá phát, polyp mũi buộc bệnh nhân phải thở bằng miệng đều dễ dàng gây viêm họng mạn. Viêm họng mạn cũng là hậu quả của bệnh viêm xoang mủ mạn tính, do mủ từ trong xoang liên tục chảy xuống họng từ cửa mũi sau.
*Các răng sâu là những ổ nhiễm trùng thường trực cũng là một nguyên nhân quan trọng.
*Những nguyên nhân khác bao gồm rối loạn nội tiết (tình trạng mãn kinh, nhược giáp), thiếu vitamin A, những rối loạn toàn thân (suy thận, tim, tiểu đường, suy hô hấp, viêm phế quản mạn tính), cơ thể suy nhược do những bệnh mạn tính khác.

Triệu chứng

Viêm họng mạn tính biểu hiện dưới ba dạng chính: Viêm họng xuất tiết, viêm họng mạn tính quá phát hay viêm họng hạt và viêm họng mạn tính thể teo. Gọi là viêm họng mạn tính để phân biệt với các dạng viêm họng mạn tính khu trú trên vài phần của họng như viêm amiđan, VA. Trẻ em, thanh niên, người trung niên thường bị dạng xuất tiết hay dạng hạt, còn người cao tuổi thường bị dạng teo.
Những triệu chứng mà bệnh nhân than phiền đều tương tự nhau trong các thể bệnh. Bệnh nhân thường có cảm giác vướng, nghẹn như có khối lạ trong họng, phải khạc nhổ liên tục; Ho từng cơn, đàm nhớt đặc quánh; Họng bị khô, đau họng hay nuốt đau. Các triệu chứng này rất rõ rệt vào buổi sáng, lúc mới thức dậy. Bệnh diễn biến từng đợt, không kèm theo những rối loạn toàn thân hay sốt nếu không bị bội nhiễm bởi vi trùng hay siêu vi. Trong bệnh viêm họng hạt, cảm giác vướng họng là nổi bật, có khi bệnh nhân đi khám bệnh vì tưởng rằng mình bị hóc xương. Cảm giác này gây buồn nôn, làm bệnh nhân dễ dàng nôn mửa với những kích thích nhẹ như chải răng vào buổi sáng, thậm chí có khi chỉ yêu cầu há miệng to cũng khiến bệnh nhân bị ói. Với thể teo, cảm giác khô trong họng làm bệnh nhân khó chịu nhất, phải khạc nhổ liên tục với đàm nhớt đặc quánh, thậm chí có cả những vảy mủ khô. Ðộng tác khạc nhổ làm tổn thương niêm mạc họng – vốn đã mong manh – gây chảy máu. Chính những vệt máu trong đàm này đã làm nhiều bệnh nhân sợ bị lao phổi hay ung thư.
Dù bệnh không nguy hiểm nhưng việc khịt mũi, khạc nhổ, ho khan liên tục sẽ làm bệnh nhân bựïc mình, cáu gắt, lo lắng, giảm năng suất làm việc, nhất là khi bị mất ngủ vì cảm giác ngộp thở về đêm.
Khi khám họng, trong thể viêm họng mạn tính xuất tiết, niêm mạc thành sau họng đỏ, nhiều tiết nhầy, lổn nhổn những hạt nhỏ, đó là những nang lympho ở thành họng bắt đầu to ra. Trong thểâ viêm họng hạt, niêm mạc thành sau họng dày lên và sần sùi, trên đó có những hạt to nổi lên riêng rẽ hay từng khúm. Các hạt này có màu từ đỏ tươi đến đỏ xám. Ðặc biệt, xung quanh hạt có những tĩnh mạch tân sinh giãn rộng. Các hạt này thường được bao phủ bởi một lớp tiết nhầy đặc quánh, trong suốt hay đục lờ. Trong những đợt viêm cấp, có thể có những đốm mủ màu trắng hay vàng bẩn bám trên các hạt. Nặng hơn, các nang lympho quá phát thành những dải sùi, đỏ, chạy dọc theo hai trụ sau của amiđan, còn gọi là các trụ giả. Các trụ giả này là nguyên nhân chính gây ngứa và vướng trong họng, kích thích bệnh nhân khạc nhổ và ho khan.
Còn ở thể teo, niêm mạc họng và các nang lympho bị xơ hóa, hạt và nẹp biến mất. Niêm mạc họng thoái hóa mỏng, màu trắng bệâch. Tiết dịch ít và quánh. Trong thể nặng, niêm mạc họng như bị bao phủ bởi một lớp vảy khô.

Điều trị

Viêm họng hạt được coi là một bệnh khó điều trị dứt điểm. Các phương pháp điều trị tích cực như đốt lạnh (dùng nitơ lỏng), khí dung kháng sinh tại chỗ… không cho kết quả lâu dài. Để giảm bớt triệu chứng và đề phòng những đợt cấp hoặc biến chứng, nên áp dụng một phương pháp đơn giản mà hiệu quả: súc họng bằng nước muối loãng.
Nước muối để ngậm cần có độ mặn tương đương với nước canh và ấm hơn thân nhiệt vài độ (nhất là về mùa lạnh) để gây giãn mạch, tăng tuần hoàn tại chỗ, khiến bạch cầu đến đây nhiều hơn. Nên pha sẵn nước muối mặn đựng vào chai, khi súc họng thì pha thêm nước nóng để có độ mặn và độ nóng cần thiết.
Trước tiên, cần súc sạch khoang miệng bằng nước muối đã pha trong khoảng 30 giây. Nếu cảm thấy miệng chưa thật sạch thì làm thêm một lần nữa rồi mới súc họng. Xúc họng khoảng 3-4 lần nữa với nước muối mới, cho đến khi họng không còn cảm giác vướng víu nữa.
Cứ 3 giờ súc họng một lần. Nếu họng đang viêm cấp, khoảng cách giữa hai lần súc họng có thể gần hơn. Điều quan trọng nhất là phải nhớ súc họng trước và sau khi ngủ. Với người hay đi tiểu đêm, cần phải súc họng cả trong những lần thức giấc này.
Kết quả của việc súc họng nước muối sẽ được thấy rõ sau khoảng vài ngày, đặc biệt đối với những bệnh nhân đang ở đợt cấp. Việc điều trị kháng sinh phối hợp là điều không cần thiết đối với viêm họng mãn. Nhưng nếu đang có đợt cấp thì kháng sinh sẽ là cần thiết.
BS Vũ Nhất Minh
    Vậy cách tốt nhất đề chữa bệnh là hạn chế các yếu tố thuận lợi làm cho viêm họng phát triển như: môi trường ô nhiễm, ăn ở kém vệ sinh; tránh tiếp xúc với các nguyên nhân gây dị ứng; đeo khẩu trang khi đi ra ngoài, xúc họng nước muối sinh lý 9%, giữ ấm vùng cổ, ngực; tránh nằm máy lạnh quá lâu….Ngoài việc súc miệng bằng nước muối, có thể ngậm chanh với muối; gừng với muối; quất với đường phèn hoặc mật ong…
    Khi đã bị viêm họng nặng, phải dùng đến kháng sinh thì bạn phải nghiêm túc điều trị đúng chỉ định của bác sĩ.

Điều trị bệnh viêm họng cấp tính

Điều trị bệnh viêm họng cấp tính

Điều trị bệnh viêm họng cấp, cần điều trị triệu chứng là chính. Bệnh nhân cần súc miệng họng thường xuyên. Khi có biến chứng, phải dùng kháng sinh theo đúng chỉ định của bác sĩ.
p125131 Điều trị bệnh viêm họng cấp tính

Viêm họng cấp tính là loại bệnh khá phổ biến, thường xuất hiện với các bệnh viêm VA, viêm amiđan. Nguyên nhân có thể do vi khuẩn (phế cầu, liên cầu hoặc các vi khuẩn khác sẵn có ở họng) hay virus cúm, sởi…
Bệnh thường khởi phát đột ngột, người bệnh sốt cao 39-40 độ C, nuốt đau, rát họng. Lúc đầu, bệnh nhân thấy khô nóng trong họng, dần dần thành cảm giác đau rát, tăng lên khi nuốt, khi ho và khi nói. Người bệnh thấy đau lên tai và đau nhói khi nuốt. Các triệu chứng kèm theo là sụt sịt, tắc mũi và chảy nước mũi nhày, tiếng nói khàn nhẹ và ho khan. Hai amiđan viêm to, trên bề mặt amiđan có chất nhày trong, có khi có bựa trắng như nước cháo phủ trên bề mặt, hạch cổ bị sưng.
Bệnh thường diễn biến trong 3-4 ngày, nếu sức đề kháng tốt, bệnh sẽ lui dần, các triệu chứng trên sẽ mất đi rất nhanh. Nếu có bội nhiễm có thể, bệnh nhân có thể gặp các biến chứng như viêm tai, viêm mũi, viêm phế quản…
Về điều trị, chữa triệu chứng là chính. Cần dùng thuốc hạ sốt khi bệnh nhân sốt cao. Chống đau họng bằng cách súc họng hằng ngày bằng nước muối loãng. Trẻ em bôi họng bằng glyxerin borat 5%, nhỏ mũi bằng thuốc argyrol 1%. Dùng kháng sinh khi có biến chứng như viêm thận, viêm khớp, viêm phế quản, viêm tai giữa… Nếu bị viêm họng cấp tái phát nhiều lần kèm theo có anbumin trong nước tiểu, nên cắt amiđan.
Để dự phòng, nên nhỏ mũi bằng dầu gô-mê-non hoặc tỏi pha loãng khi xung quanh có nhiều người viêm họng.
TS Nguyễn Thị Ngọc Dinh, Sức Khỏe & Đ

Các bệnh trẻ em hay mắc trong mùa lạnh

Các bệnh trẻ em hay mắc trong mùa lạnh

GiadinhNet - Khi thời tiết chuyển sang mùa mưa lạnh ẩm thấp, trẻ em rất dễ bị cảm mạo, viêm họng, viêm phổi, phế quản, amiđan, sốt xuất huyết...
Cha mẹ cần chăm sóc con tốt trong mùa này, cần giữ ấm và vệ sinh răng miệng sẽ giúp trẻ tránh được các bệnh về đường hô hấp, truyền nhiễm.
 
Ảnh minh họa
1 Cảm mạo thường biểu hiện dưới dạng dị ứng mũi. Trẻ hắt hơi thành cơn dài liên tục, kèm theo chảy nhiều nước mũi trong và lỏng, không sốt. Có thể dùng một số thuốc chống dị ứng thông thường như Phenergan, Chlopheniramin, Theralen... trong vài ngày là hết.
2 Viêm mũi: bệnh xuất hiện sau khi bị nhiễm lạnh, có triệu chứng ngứa lỗ mũi khiến trẻ hay dụi tay lên mũi và chảy nước mũi nhiều, có thể sốt hoặc không. Ở trẻ còn bú, khi bị viêm mũi thường gây khó chịu, ngủ không yên giấc, nghẹt mũi gây thở khò khè, thường phải thở bằng miệng và phải ngưng lại nhiều lần để thở khi bú. Hiện tượng viêm mũi tái đi tái lại nhiều lần có thể là dấu hiệu của bệnh V.A, Amiđan.
3 Viêm xoang: thường xảy ra sau những bệnh về mũi như sổ mũi mùa, nghẹt mũi, viêm mũi. Nhức đầu là biểu hiện nổi bật trong viêm xoang. Ngoài ra người bệnh còn bị nghẹt mũi, nước mũi đặc, cần được chụp phim để xác định tình trạng xoang bị viêm.
4 Viêm họng cấp: Triệu chứng đầu tiên là đau họng khi nuốt, kèm theo sốt, khàn tiếng. Nguyên nhân gây bệnh là loại vi khuẩn liên cầu tan máu beta nhóm A. Bệnh có thể gây đau khớp, biến chứng dẫn đến bệnh thấp tim ở trẻ em.
 
5 Viêm amiđan: Trẻ bị viêm amiđan cấp sẽ sốt cao từ 39-40 độ C, đau họng, khó nuốt, chảy nước miếng nhiều, mệt mỏi, biếng ăn, biếng chơi. Viêm amiđan cũng rất dễ gây biến chứng nếu không được điều trị đúng.
6 Viêm phế quản: Nhiều trường hợp trẻ chỉ sổ mũi trong, ho nhẹ vài cái, vẫn chơi, ăn uống bình thường. Nếu tình trạng này kéo dài, không điều trị đúng, trẻ dễ dẫn đến biến chứng bội nhiễm vi trùng gây viêm phế quản - viêm phổi rất nguy hiểm.
7 Bệnh suyễn (hay còn gọi là hen phế quản): Thường gặp ở trẻ có cơ địa dị ứng như có bệnh chàm, nổi mề đay, ngứa... Khó thở là biểu hiện điển hình, khó thở khi thở kéo dài làm phập phồng cánh mũi, gây co kéo hõm ức, tiếng thở khò khè, môi tím. Nhiều trường hợp trẻ khó thở cấp tính cần được xử trí và cấp cứu kịp thời.
8 V.A - sùi vòm: Đây là bệnh phổ biến ở trẻ em từ 3-7 tuổi. V.A là nơi sản xuất ra kháng thể chống lại vi trùng xâm nhập vào cơ thể, đồng thời cũng là nơi tập trung vi trùng nếu không còn khả năng tiêu diệt. Trẻ viêm V.A thường gầy yếu, kém nhanh nhẹn, chảy nước mũi thường xuyên, ban đầu là nước mũi trong sau đục mủ vàng hoặc xanh, bị nóng sốt vặt kèm ho nhiều, trong tai có thể chảy mủ, ngáy to khi ngủ do mũi bị nghẹt và phải thở bằng miệng. Ngoài ra, viêm V.A khiến trẻ dễ bị suy dinh dưỡng.
9 Sốt xuất huyết: Bệnh do muỗi truyền, có thể xuất hiện quanh năm, nhưng phát triển mạnh vào mùa mưa, không khí ẩm thấp. Bệnh hay gặp ở trẻ em, đặc biệt là dưới 10 tuổi. Biểu hiện của bệnh là sốt cao đột ngột và liên tục (39-40 độ C) trong vòng 2-4 ngày, có thể xuất hiện dấu xuất huyết dưới da mọc thành từng đám rải rác, có thể xuất huyết ở niêm mạc miệng, đi đại tiện ra phân máu...
 
Các biểu hiện bệnh ở trẻ cần đặc biệt được lưu ý để kịp thời chữa trị. Đặc biệt, khi trẻ đang sốt cao liên tục, đột nhiên nhiệt độ hạ thấp, lờ đờ, chân tay lạnh là biểu hiện của sốc cần được xử trí cấp cứu kịp thời. Nếu nghi ngờ trẻ bị sốt xuất huyết, tuyệt đối không cho trẻ dùng thuốc hạ sốt loại Aspirin vì dễ làm tăng nguy cơ chảy máu, nên cho uống thuốc giảm sốt loại Paracetamol rồi nhanh chóng chuyển ngay tới bệnh viện kịp thời.
 
10 Tiêu chảy: Tiêu chảy mùa đông thường do rotavirus gây ra, thường gặp ở trẻ em và chỉ kéo dài trong 3 - 7 ngày. Trẻ bị bệnh có các biểu hiện sốt nhẹ, quấy khóc, hơi mệt, nôn, tiêu chảy... Nếu không điều trị kịp thời bằng cách bù dịch sẽ xuất hiện triệu chứng mất nước, nguy hiểm đến tính mạng. Bệnh dễ phát sinh thành dịch do nguy cơ lây chéo cao. Tình trạng lây chéo không chỉ xảy ra ở bệnh viện mà còn xảy ra ở gia đình. Điều quan trọng nhất khi trẻ bị tiêu chảy mùa đông là phải bù điện giải cho trẻ, tốt nhất là bằng nước oresol, tuyệt đối không dùng kháng sinh. Khi trẻ bị tiêu chảy, vẫn phải cho trẻ ăn uống bình thường, không kiêng khem.
 
Phòng bệnh tiêu chảy cho trẻ trong mùa lạnh quan trọng nhất là đảm bảo vệ sinh và dinh dưỡng trong khẩu phần ăn để trẻ đủ sức chống đỡ bệnh, cơ thể chóng phục hồi, không bị suy sụp vì thiếu dinh dưỡng sau tiêu chảy.
 
11 Quai bị: Bệnh quai bị hay còn gọi là bệnh viêm tuyến mang tai truyền nhiễm thường xuất hiện khi thời tiết chuyển sang mùa lạnh và thường gia tăng cùng với các bệnh lây lan qua đường hô hấp. Bệnh chủ yếu lây lan qua đường nước bọt bắn ra khi nói chuyện hoặc ho.
Khi mắc bệnh quai bị, trẻ thường xuất hiện các triệu chứng như sốt, sưng quai hàm và đau một hoặc nhiều tuyến nước bọt, thường là tuyến nước bọt mang tai, đôi khi là tuyến dưới lưỡi hoặc tuyến dưới hàm trên. Bệnh này không gây đau đớn nhưng khá nguy hiểm. Nó có thể gây nên các biến chứng nguy hiểm như viêm tinh hoàn (thường là một bên) đối với trẻ em trai; viêm buồng trứng đối với trẻ em gái và có thể dẫn tới vô sinh.
 
12 Ho gà: Ho gà là bệnh nhiễm khuẩn đường hô hấp cấp tính, hay xảy ra nhất trong mùa đông xuân và thường gặp ở trẻ dưới 5 tuổi. Nếu không được điều trị kịp thời, bệnh nhân có thể tử vong do suy hô hấp, hay để lại những biến chứng nặng dẫn đến viêm não.

Triệu chứng ho gà ở trẻ em rất dễ nhận biết, nhưng cũng có trường hợp chẩn đoán lại rất khó khăn, nhất là ở trẻ sơ sinh hoặc trẻ nhỏ dưới 6 tháng chưa được tiêm phòng. Tuy nhiên, cha mẹ có thể căn cứ vào một số triệu chứng sau để nhận biết cơn ho của trẻ: Ở giai đoạn đầu, bệnh thường biểu hiện bằng ho nhẹ.
 
Sau 7-10 ngày, ho sẽ nặng dần theo từng cơn và kéo dài cả vài tháng nếu không điều trị. Trong thời kỳ này trẻ có những cơn ho kéo dài, ho rũ rượi không ngừng đến nôn oẹ, khiến người bệnh bị chảy nước mắt, nước mũi. Sau cơn ho làm trẻ đỏ bừng mặt hay tím tái cả người do bị suy hô hấp, bệnh nhân có thể chết vì bị ngẹt thở. Cuối mỗi cơn ho thường có tiếng rít, xuất hiện nhiều đờm dãi.
 
Đặc biệt trẻ sơ sinh bị ho gà thường rất nặng nề. Nhiều bệnh nhi ho nhiều đến mức chảy cả máu mắt. Phần lớn trẻ ho gà bị chết là do suy hô hấp, không đủ ôxy. Ngoài ra, ho gà có thể gây các biến chứng viêm phổi, xuất huyết kết mạc, thiếu ôxy não, biến chứng viêm não... nếu không được điều trị kịp thời.
 
13 Thấp tim (thấp khớp cấp biến chứng vào tim): Là bệnh hay gặp ở trẻ em trên 5 tuổi và người trẻ tuổi. Thời tiết lạnh, ẩm là nguyên nhân khiến liên cầu khuẩn phát triển, gây nên viêm họng, sau đó tiến triển thành viêm đường hô hấp trên. Loại liên cầu khuẩn này kích thích cơ thể sản xuất ra các kháng thể gây ảnh hưởng đến tim, khớp, thần kinh và gây nên bệnh thấp tim.
 
Biểu hiện của bệnh: trẻ bị sốt, đau họng, ho, tiếp đến là sưng, nóng các khớp, đặc biệt là sưng khớp gối, khớp khuỷu và chạy từ khớp này sang khớp khác. Sưng khớp và khớp di chuyển từ khớp này sang khớp khác là một yếu tố quan trọng để nhận biết nguy cơ bị thấp tim ở bệnh nhân. Khi trẻ có những dấu hiệu trên, phải đưa trẻ đến viện ngay để được chẩn đoán, điều trị kịp thời.
 
Biện pháp phòng bệnh cho trẻ:

Cần chủng ngừa cho trẻ đầy đủ theo chương trình quy định.

Chăm sóc trẻ chu đáo, tránh nhiễm lạnh do mưa, giữ ấm, tránh gió lạnh về chiều.

Vệ sinh ăn uống, vệ sinh răng miệng thường xuyên cho trẻ để tránh nhiễm trùng. Rửa tay sạch sẽ, không cho trẻ mút tay, ngoáy mũi.

Bố trí phòng ở thoáng mát, sạch sẽ, tiêu diệt muỗi, thông thoát nước tốt, tránh để nước đọng vũng tạo môi trường ẩm thấp.

Theo dõi và đi khám bệnh sớm, tránh để bệnh tiến triển gây biến chứng nguy hiểm.

Trẻ tiếp xúc sớm với vi khuẩn làm giảm nguy cơ hen suyễn

Trẻ tiếp xúc sớm với vi khuẩn làm giảm nguy cơ hen suyễn

Nghiên cứu của các nhà khoa học Australia , được công bố trên tạp chí New England Journal of Medicine, cho biết những đứa trẻ ở nông thôn ít bị hen suyễn hơn những đứa trẻ sống ở thành phố.
 Trẻ tiếp xúc sớm với vi khuẩn làm giảm nguy cơ hen suyễn
Giáo sư, tiến sỹ Peter Sly, thuộc Viện nghiên cứu nhi khoa Queensland, cho biết các nhà khoa học đã tính toán lượng vi khuẩn và nấm lấy ra từ bụi trong phòng ngủ của trẻ và cho rằng trẻ em nên giành thêm thời gian chơi đùa ngoài trời.
Ông chỉ rõ việc tiếp xúc với các sản phẩm vi khuẩn, đặc biệt là từ động vật và các hoạt động liên quan đến nông nghiệp, sẽ giúp rèn luyện hệ miễn dịch với những gì cần bỏ qua trong môi trường và giúp cơ thể bảo vệ trước sự phát triển của bệnh dị ứng và hen suyễn.
Ngược lại, những đứa trẻ ở thành phố không được tiếp xúc với những loại vi khuẩn như vậy.
Tuy nhiên, tiến sỹ Sly cho rằng phát hiện trên không có nghĩa là sống ở tất cả các khu vực ở nông thôn đều có lợi

Phòng chống bệnh viêm phế quản phổi ở trẻ

Phòng chống bệnh viêm phế quản phổi ở trẻ

Thời tiết đang thất thường là điều kiện thuận lợi gia tăng các bệnh đường hô hấp. Đặc biệt ở các tỉnh miền Trung đang phải gánh chịu đợt mưa lũ ngập lụt kéo dài, môi trường sống ẩm thấp là nguyên nhân dẫn đến rất nhiều bệnh mà trẻ em hay mắc phải. Trong đó phải kể đến bệnh viêm phế quản phổi. Đây là một bệnh cấp tính, diễn biến nhanh và rất nặng.
a01viem phe quan phoi2 Phòng chống bệnh viêm phế quản phổi ở trẻ
Hàng năm trên thế giới có đến 4-5 triệu trẻ em dưới 5 tuổi tử vong vì bệnh này, nhất là ở các nước chậm phát triển. Tại Việt Nam, bệnh viêm phế quản phổi khá phổ biến, tỉ lệ tử vong cao, đặc biệt là ở trẻ dưới 5 tuổi.
Trẻ dưới 1 tuổi, trẻ đẻ non, đang mắc các bệnh khác như cảm cúm, sởi… rất dễ mắc viêm phế quản phổi. Tác nhân gây bệnh ban đầu là virut, sau bội nhiễm vi khuẩn hoặc do cả hai. Vi khuẩn thường gặp nhất là phế cầu khuẩn, H. influenzae rồi đến tụ cầu khuẩn, liên cầu khuẩn.
Viêm phế quản phổi là tổn thương viêm cấp diễn lan toả cả phế nang, mô kẽ lẫn phế quản, thường do các tác nhân virut khởi đầu, sau đó bội nhiễm vi khuẩn hoặc do cả hai.
Bệnh nhân có tiền sử nhiễm khuẩn nhẹ đường hô hấp trên như ho, sổ mũi rất dễ bị viêm phế quản phổi. Bệnh viêm phế quản phổi giai đoạn khởi phát trẻ chỉ bị sốt nhẹ, người mệt mỏi, quấy khóc, ăn kém. Ở giai đoạn toàn phát trẻ sốt cao hoặc có thể lại bị hạ nhiệt độ, ho khan, chảy nước mũi và bắt đầu xuất hiện đờm. Lúc này, trẻ thấy khó thở, cánh mũi phập phồng, thở nhanh. Đối với trẻ sơ sinh, trẻ đang tuổi bú có những triệu chứng lâm sàng rất sơ sài nhưng bệnh thường rất nặng vì thế các dấu hiệu trướng bụng, da xanh tím, giảm trương lực cơ hoặc sốc, sùi bọt mép… là phải cho trẻ tới trung tâm y tế ngay.

Điều trị:

Dùng kháng sinh có thể uống, tiêm (theo chỉ dẫn của bác sĩ) nhưng tốt nhất nên dùng dưới dạng siro và nên cho trẻ uống trước khi bú, khi ăn như thế tránh để trẻ bị kích thích tiêu hoá gây nôn trớ thức ăn. Đối với trẻ sơ sinh, trẻ từ 2 tháng tuổi trở xuống nên đưa trẻ tới bệnh viện để có điều kiện chăm sóc, điều trị tích cực hơn.
Chăm sóc trẻ bị viêm phế quản phổi, nên chăm sóc và phòng bệnh cho trẻ ngay từ giai đoạn đầu để tránh khi các dấu hiệu bệnh toàn phát, trẻ bị nặng hơn sẽ khó chữa, thậm chí sẽ dẫn tới tử vong. Ngay từ khi có thai, các bà mẹ nên tuân thủ đúng chế độ để tránh trường hợp sinh non, trẻ sẽ nhẹ cân. Bởi vì, những đứa trẻ này khi sinh ra dễ mắc các bệnh nhiễm khuẩn, đặc biệt là viêm phế quản phổi. Thực hiện tốt các chế độ vô khuẩn khi đỡ đẻ và chăm sóc trẻ sơ sinh. Đảm bảo môi trường ở sạch sẽ, thoáng mát, cho trẻ bú mẹ nhiều hơn, nếu trẻ không tự bú thì phải vắt sữa ra bình, cốc hoặc cho trẻ ăn sữa ngoài nếu mẹ không có sữa. Bên cạnh đó, việc bù lại lượng nước đã mất do sốt cao, nôn trớ, tiêu chảy bằng cách cho trẻ uống nhiều nước hơn (tốt nhất cho uống oresol) là việc làm cần thiết. Không nên chườm ấm hay chườm lạnh, tránh làm tăng nhu cầu ôxy. Bị viêm phế quản phổi, trẻ bị ho sẽ rất rát cổ, làm dịu họng trẻ bằng cách cho trẻ dùng nước quất, lá hẹ, hấp với mật ong, (cả 3 thứ đó cho vào chén, hấp cách thuỷ). Khi trẻ phải sử dụng kháng sinh dứt khoát phải tuân thủ chỉ định và hướng dẫn của bác sĩ. Để đảm bảo chế độ dinh dưỡng, các bà mẹ vẫn duy trì chế độ ăn bình thường cho con (bú mẹ, ăn sữa bằng thìa cốc nếu trẻ không bú được, ăn tăng cường nếu trẻ trong thời kỳ ăn dặm…) cho ăn thức ăn lỏng, uống đủ nước (hoa quả, dung dịch oresol). Khi trẻ sốt cao trên 38o5, phải hạ nhiệt bằng paracetamol.

Phòng bệnh:

Viêm phế quản phổi được phát hiện sớm và điều trị tích cực thì sau vài ngày trẻ sẽ đỡ và khỏi hẳn bệnh. Tuy nhiên, việc chăm sóc sau khi khỏi bệnh rất quan trọng phòng tránh việc tái phát bệnh. Lúc này nên giữ ấm, giữ vệ sinh cơ thể trẻ, cho trẻ ở trong phòng sạch sẽ, thoáng mát, bảo đảm ăn đủ dinh dưỡng cho trẻ. Nếu thời tiết chuyển mùa đột ngột phải giữ ấm cho trẻ, không nên để trẻ ngấm ngược nước tiểu, mồ hôi vì thế cần phải thay tã lót ngay khi bị ướt. Nếu trẻ hay bị viêm họng, viêm amidan thì phải điều trị triệt để, dứt điểm. Trong khi trẻ bị viêm phế quản phổi, bố mẹ không hút thuốc lá trong nhà, tránh cho trẻ ra ngoài vì bụi và các ô nhiễm khác khiến bệnh sẽ nặng hơn.
ThS. Lê Hưng
    Chú ý- Vì bệnh này có những dấu hiệu tương tự với các bệnh đường hô hấp khác, do đó rất dễ nhầm lẫn. Các bậc cha mẹ cần chú ý, khi thấy trẻ có các dấu hiệu sau cần gnhi ngờ là bệnh viêm phế quản phổi ở trẻ em: Ho, sốt mũi có dịch màu vàng, xanh sốt cao 39-40 độ C, thở nhanh, có các dấu hiệu viêm phế quản nặng (bỏ ăn, bỏ bú, rên, rút lõm lồng ngực, li bì)…
    - Khi nghe phổi thấy có ran ẩm nhỏ hạt, đo nồng độ oxy ở máu giảm nghĩa là bệnh đã rất nặng. Đặc biệt nguy hiểm ở trẻ sơ sinh và trẻ suy dinh dưỡng nặng vì triệu chứng không rầm rộ nhưng bệnh lại rất nặng và tỉ lệ tử vong rất cao.
    - Đối với trẻ sơ sinh thường trẻ có cơn tím tái khi gắng sức (bú, khóc, ho…) đặc biệt trẻ hay sùi bọt. Nhịp thở có thể nhanh trên 50-60 lần/phút. Đối với trẻ suy dinh dưỡng nặng, khi mắc bệnh này, thường nhiệt độ không cao, trẻ thường có rối loạn nhịp thở, thỉnh thoảng có cơn ngừng thở ngắn, nhịp thở nhanh so với lứa tuổi.

DỊCH TỂ HỌC VÀ VIỆC PHÒNG NGỪA NHIỄM VIRUS VIÊM GAN B: CHÚNG TA ĐANG Ở ĐÂU ?

DỊCH TỂ HỌC VÀ VIỆC PHÒNG NGỪA NHIỄM VIRUS VIÊM GAN  B: CHÚNG TA ĐANG Ở ĐÂU ?
1. Việc thực hiện đầy đủ chương trình tiêm chủng rộng khắp cho trẻ em đã giảm nhiều nguy cơ của tỉ lệ người mang bệnh mạn tính. Rồi sau đó nó sẽ làm giảm tỉ lệ bệnh gan mạn tính và ung thư gan nguyên phát HCC (HCC: hepatocellular carcinoma)
2. Chương trình tiêm chủng hiện tại không đạt  được một sử kiểm soát hiệu quả đối với việc nhiễm virus  viêm gan B. Sự thất bại của chủng ngừa có thể xảy ra ở những đứa trẻ được sanh bởi những bà mẹ có nồng độ virus trong máu cao hay lây nhiễm khi mang thai. 1. Những cá thể có tổn thương miễn dịch cũng có thể không đáp ứng với vaccin và dễ bị nhiễm viêm gan virus B ở thời kỳ sau việc chủng ngừa vaccin xin phổ biến.
3. Những đột biến sẽ biểu hiện sau khi thực hiện chương trình tiêm chủng phổ biến; tuy nhiên, điều đó thì không gây nên một ảnh hưởng báo động tại thời điểm hiện nay.
4. Do không tăng nguy cơ của nhiễm viêm gan virus B mạn ở những trẻ em có miễn dịch phù hợp, nên chương trình tiêm chủng hỗ trợ phổ biến không có chỉ định. Tuy nhiên, những liều hỗ trợ có thể đem đến một nồng độ tương xứng bởi vì đặc tính quên của miễn dịch.
Qua hình minh họa này chúng ta thấy địa phương có tỉ lệ nhiễm siêu vi B cao thì tỉ lệ ung thư gan nguyên phát cao
I.CHƯƠNG TRÌNH TIÊM CHỦNG MỞ RỘNG CHO TRẺ EM
Chương trình tiêm chủng quốc gia một cách phổ biến viêm gan virus B rộng khắp toàn quốc lần đầu tiên cho trẻ em đã được thực hiện ở Đài Loan vào tháng 7, 1984. việc chủng ngừa bao gồm cả những trẻ mới sinh có mẹ mang HBsAg từ tháng 7, 1984 đến tháng 6 năm 1986, áp dụng cho tất cả những trẻ mới sinh từ tháng 7 năm 1986, và sau đó đến những trẻ trước khi đến trường từ tháng 7 năm 1987 đến tháng 6 năm 1988. Nó đã được mở rộng hơn nữa đến những trẻ em đã đến trường, trẻ thiếu niên, và sau đó áp dụng cho cả người trưởng thành từ 1988 đến 1990. Từ 1991, chương trình tiêm ngừa ghi nhận những trẻ em tiểu học đã được theo dõi và những em không chủng ngừa hay những em không chủng ngừa đầy đủ được chủng ngừa HBV lại. Trước tháng 7 năm 1992, 4 lần của vắc xin có nguồn gốc huyết thanh (Hevac B; Pasteur Me rieux, Lyon, Pháp, hay …, vắc xin viêm gan B Lifeguard; Hsin- Chu, Đài Loan) được sử dụng ở thời điểm 0, 1, 2 và 12 tháng tuổi. Sau tháng 7 năm 1992, ba liều vắc xin tái tổ hợp H-B – Vax II (5 cmg/ 0,5 ml; Merck Sharp & Dohme, Rahway, NJ) hay Engerix- B (20 cmg/ 1 ml; SmithKline Beecham, Rixensart, Bỉ) được sử dụng tại thời điểm dưới 1 tuần tuổi, 1 tháng và 6 tháng. Thêm vào đó là miễn dịch chủ động của vắc xin HBV, miễn dịch thụ động với globulin miễn dịch viêm gan virus B (HBIG) có thể trung hòa HBV bị lây truyền từ mẹ sang trong giai đoạn sinh. HBIG 0,5 ml (100 IU) phải dùng trong 24 h sau sinh. HBIG được dùng trong 24h sau sinh đối với trẻ sơ sinh bị viêm gan virus B có kháng nguyên e dương tính (HBe Ag) hay mức độ cao HBsAg (nồng độ qua lại > 1:1256 bởi kiểm tra hemagglutination thụ động đảo ngược) mà những bà mẹ mang khi bắt đầu của chương trình này.
Ba phương pháp chính về miễn dịch phòng bệnh phổ biến được dùng trên toàn thế giới hiện nay, phụ thuộc vào tỉ lệ nhiễm HBV và các nguồn kinh phí của các nước. (1) những phụ nữ mang thai không được sàng lọc về HBsAg và HBeAg huyết thanh. Tất cả những đứa trẻ được nhận 3 liều (tại thời điểm 0, 1 và 6 tháng tuổi) vắc xin HBV tái tổ hợp. Đây là một chương trình cung cấp một hiệu quả vừa phải với một chi phí thấp. Thái Lan là một nước có tỉ lệ nhiễm viêm gan virus B thấp/ vừa phải, là một thí dụ cho việc áp dụng kế hoạch này. (2) những phụ nữ mang thai đã được sàng lọc về huyết thanh HBsAg. Những đứa trẻ có mẹ ở nguy cơ cao với HBeAg (+) được nhận HBIG trong 24h sau sinh cộng thêm việc chích ngừa vắc xin. Tất cả trẻ em được n hận 3 liều (lúc 0, 1, và 6 tháng tuổi)vắc xin HBV tái tổ hợp. Tất cả những vắc xin và HBIG dùng cho những trẻ em được sự chi trả bởi chính phủ. Kế hoạch này bảo vệ giá trị sàng lọc HBeAg ở người mẹ nhưng gia tăng sự đắt tiền của HBIG mà nó thì đắt hơn nhiều so với vắc xin. Kế hoạch này được áp dụng thích hợp ở Mỹ, nơi là một đất nước giầu có với tỉ lệ mắc HBsAg thấp. (3) Để giảm giá tiền, HBIG được dùng đối với những trẻ em sơ sinh có mẹ có cả HBsAg và HBeAg dương tính ở Đài Loan. Điều này là do Đài Loan là vùng dịch tể cao và tỉ lệ mang HBsAg ở phụ nữ có thai thì cao khoảng 15%. Kế hoạch này chỉ đem lại một miễn dịch thụ động cho những đứa trẻ có mẹ có lượng virus cho máu cao, và kế hoạch này đang đem lại dần dần sự tự chuyển biến tốt lên đến hiện nay.
Một yếu tố nguyên tắc cho một chương trình tiêm chủng thành công là tỉ lệ được chích ngừa. Chúng tôi xem tỉ lệ được chích ngừa vắc xin là tỉ lệ phần trăm trẻ em nhận đủ 3 liều hay nhiều hơn vắc xin HBV. Tiền sử chích ngừa được xác minh bởi việc kiểm tra thẻ chích ngừa, tiểu sử lấy từ cha mẹ, và những ghi chép từ trung tâm sức khỏe, Đài Loan thông qua những phương cách trên và những kiểm tra tỉ mỉ bởi hệ thống sức khỏe cộng đồng nên tỉ lệ chích ngừa đủ vắc xin HBV thì cao khoảng 97% vào thời điểm hiện nay. Sự thay đổi trong tương lai của vùng châu Á Thái bình dương có thể nâng quỹ kinh phí đủ để tài trợ cho chương trình tiêm chủng vắc xin rộng khắp cho các trẻ em và giữ tỉ lệ chích ngừa ở tỉ lệ cao.
II.TÁC ĐỘNG CỦA CHƯƠNG TRÌNH TIÊM CHỦNG PHỔ BIẾN
Theo sau việc thực hiện thành công lần đầu tiên trên thế giới về chương trình tiêm chủng vắc xin HBV phổ biến cho các trẻ em ở Đài Loan 20 năm trước, chúng tối đã thực hiện những điều tra dịch tể học về huyết thanh để đánh giá sự bảo vệ lâu dài có đủ không đối với vắc xin HBV và để đưa ra những hành động phù hợp cho các kế hoạch phòng ngừa trong tương lai. Những nghiên cứu này đã được thực hiện mỗi 5 năm từ 1984, trước cả khi bắt đầu chương trình vắc xin phổ biến cho trẻ em. Những maker huyết thanh của HBV, bao gồm kháng nguyên bề mặt viêm gan virus B (HBsAg) và kháng thể đối với HBsAg (anti- HBs) và kháng nguyên lõi (anti- HBc), được kiểm tra từ những trẻ sơ sinh đến người trưởng thành dưới 30 tuổi trong mỗi nghiên cứu. Kết quả theo nhóm tuổi đã được đánh giá bằng cách so sánh những kết quả của cùng nhóm tuổi tại những thời kỳ khác nhau giữa những nghiên cứu 1984, 1989, 1994, 1999, và 2004.
Tỉ lệ huyết thanh HBsAg giảm từ khoảng 10% đến 0,6% ở những trẻ em dưới 15 tuổi tại thành phố Taipei trong suốt 2 thập niên qua. Những tỉ lệ huyết thanh dương tính đối với HBsAg, anti- HBs và anti- HBc là 1,2%, 50,5% và 3,7%, ở những trẻ được sinh ra sau chương trình vắc xin (< 20 tuổi) vào năm 2004.
Tỉ lệ nhiễm toàn bộ (ví dụ cả nhiễm mạn tính và cấp tính và được xác định bằng anti- HBc dương tính) đã giảm. Huyết thanh dương tính đối với anti- HBc đã giảm từ 38% xuống còn 16% và thậm chí sau này còn giảm xuống 4,6% ở những trẻ em được kiểm tra 15 năm sau chương trình. Chương trình vắc xin đã thật sự giảm cả sự truyền nhiễm trong quá trình sinh đẻ và sự lây nhiễm ngang của HBV.
Một nghiên cứu phối hợp rộng khắp toàn quốc được thực hiện ở Đài Loan để điều tra quy luật nhiễm HBV ở những suy gan nặng nề (FHF: fulminant hepatic failure) của trẻ em sau khi thực hiện việc tiêm chủng HBV phổ biến. Trẻ em một tháng tuổi đến 15 tuổi và được chẩn đoán là FHF từ 1985 đến 1999. Nhiễm HBV (HBsAg và/ hay IgM anti- HBc huyết thanh dương tính) được ghi nhận là 46% trong tất cả những trường hợp FHF. Tỉ lệ mắc tự nhiên trung bình của FHF ở trong giai đoạn 1985 đến 1999 là 0,053/ 100.000 trong nhóm này và 1,29/100.000 ở những bệnh nhân này mà dưới 1 tuổi. Xấp xỉ 61% của tất cả các trường hợp FHF là < 1 tuổi, trong đó 74% của những bệnh nhân bị FHF có HBV dương tính đã được tiêm chủng. Trong 15 năm đầu của việc tiêm chủng phổ biến, HBV đã trở nên một nguyên nhân hiếm của FHF ở trẻ em > 1 tuổi nhưng vẫn là một nguyên nhân có ý nghĩa gay FHF ở những trẻ nhỏ (< 1 tuổi). FHF liên quan đến HBV có xu hướng phát triển ở những trẻ được sinh ra ở những bà mẹ mang HBsAg và có HBeAg âm tính; những đứa trẻ này không nhận được HBIG theo chương trình tiêm chủng ở Đài Loan. Tỉ lệ tử vong ở những trẻ em FHF đã giảm từ 5,1/ 100.000 ở những trẻ được sinh ra trước chương trình tiêm chủng xuống còn 1,71/ 100.000 ở những trẻ sinh sau chương trình tiêm chủng ở Đài Loan.
Để đánh giá hiệu quả của chương trình trong việc diễn tiến của ung thư gan nguyên phát (HCC), chúng tối đã nghiên cứu tỉ lệ mắc HCC ở trẻ em ở Đài Loan từ 1981 đến 1994. Tỉ lệ mắc bệnh tự nhiên trung bình của HCC ở trẻ em từ 6 đến 14 tuổi đã giảm từ 0,70/ 100.000 trẻ từ giữa năm 1981 đến 1986 xuống còn 0,57 từ giữa 1986 đến 1990 và xuống còn 0,36 từ giữa 1990 đến 1994 (P< 0,01). Tỉ lệ mắc HCC ở trẻ em từ 6 đến 9 tuổi giảm từ 0,52/ 100.000 ở những trẻ sinh từ giữa 1974 và 1984 xuống còn 0,13 ở những trẻ sinh giữa 1984 và 1986 (P< 0,001). Sau cùng, chúng tôi mở rộng đến giai đoạn sau đến năm 2000. Tỉ lệ mắc HCC trên 100.000 trẻ em giảm từ 0,54 xuống còn 0,20 ở những trẻ được sinh trước và sau chương trình tiêm chủng vắc xin (R.R.= 0,36). Điều này đã xác minh việc tiêm chủng vắc xin HBV phổ biến đã giảm được tỉ lệ mắc HCC ở trẻ em.
III.VIỆC THẤT BẠI CỦA TIÊM CHỦNG
Tình trạng HbsAg của người mẹ dương tính đã được tìm thấy ở 89% những cá thể có huyết thanh dương tính với HbsAg được sanh sau chương trình tiêm chủng. HbsAg của người mẹ được tìm thấy dương tính ở 97% ở những trẻ bị FHF có nhiễm HBV. Mặc dù thành công trong việc tạo miễn dịch đối với viêm gan virus B, nhưng HCC ở trẻ em vẫn không có khả năng được loại bỏ hoàn toàn bởi chương trình tiêm chủng phổ biến. Việc truyền nhiễm HBV từ mẹ sang con thì là một yếu tố quan trọng của việc phát triển HCC. Điều này đã được chứng minh bằng tỉ lệ rất cao HbsAg huyết thanh dương tính ở những đứa trẻ của chúng tôi bị HCC (97%) và mẹ của chúng (96%).
Một lượng virus cao trong máu người mẹ có thể là một nguyên nhân cho việc thất bại của vắc xin, đặc biệt đối với việc lây truyền trong quá trình sanh đẻ. Một vài nghiên cứu trong quy mô nhỏ đã thử hủy bỏ việc lây truyền từ mẹ sang con bằng cách sử dụng những chất chống virus ở tam cá nguyệt thứ ba của thai kỳ. Tuy nhiên, kết quả thì không chắc được giải quyết. Nó cũng đem rất nhiều tranh cãi do đưa cho một phụ nữ có thai một loại thuốc không được chứng minh an toàn. Một vấn đề khác là chúng tôi không có khả năng xác định được “lượng virus máu cao”. Thế nào là mức báo động về lượng virus trong máu của người mẹ để nguy cơ đứa trẻ mới sinh dễ có khả năng bị trở thành là một người mắc bệnh mạn tính? Khi chúng tôi thiết lập được một mức báo động về lượng virus trong máu của sản phụ thì chúng tôi sẽ xử lý chúng như thế nào? Những câu hỏi then chốt này vẫn chưa có được trả lời tại thời điểm này.
Những trẻ mới sinh có kháng nguyên HbsAg trong máu thì được coi như đã bị nhiễm trong thời gian mang thai. những đứa trẻ này được sinh ra ở những bà mẹ với lượng virus trong máu cao, nó được đại diện bằng HbeAg dương tính. Từ 1984 đến 1993, 665 trẻ mới sinh được sinh ra từ những bài mẹ mang HbeAg dương tính đã được tuyển chọn cho nghiên cứu về sau. Những đứa trẻ mới sinh ra này đã được kiểm ntra HbsAg ngay sau sinh, trước khi sử dụng HBIG. Tất cả những đứa trẻ mới sinh được nhận HBIG trong 24 h sau sinh cộng thêm vắc xin viêm gan virus B theo sau. Vẫn có 2,4% (16/665) cá thể có huyết thanh dương tí với HbsAg lúc sanh, và tất cả đều bị nhiễm HBV mạn tính. Kế hoạch phòng bệnh bằng miễn dịch hiện tại không bảo vệ hoàn toàn cho những trẻ có nguy cơ cao đối với việc nhiễm từ trong tử cung mẹ (trong quá trình mang thai) và hậu quả là luôn nhiễm HBV mạn tính.
Tỉ lệ hiện hành và ý nghĩa thống kê lâm sàng của đột biến ở chuỗi xác định (amino acids 121 -149) của HbsAg thì chưa được hiểu rõ, đặc biệt ở thời đại sau tiêm chủng. Có thể một chương trình tiêm chủng phổ biến đã trở nên một động lực đẩy cho một đột biến như thế biểu hiện không? Chúng tôi đã nghiên cứu những đột biến này ở những đứa trẻ mang HbsAg trước và những trẻ 5 tuổi, 10 tuổi, 15 tuổi sau thời kỳ tiêm chủng vắc xin phổ biến ở Đài Loan. Tỉ lệ hiện hành của đột biết chuỗi xác định ở những trẻ HBV- DNA dương tính là 7,8% (8/103) vào 1984, đã gia tăng có ý nghĩa thống kê lên 19,6% (10/51) vào năm 1989, đỉnh của nó là 28,1% (9/32) vào năm 1994, và vẫn tồn tại là 23,1% (3/13) vào năm 1999; nó thì cao hơn ở những trẻ được tiêm chủng đầy đủ so với những trẻ không được tiêm chủng (15/46 so với 15/53; p< 0,001). Tuy nhiên, số lượng đột biến gây ra ở trẻ em từng nghiên cứu thì là ổn định ở giai đoạn đầu từ 5- 10 năm nhưng giảm từ 10- 15 năm sau tiêm chủng vắc xin. Những đột biến còn lại có xu hướng xảy ra thường xuyên hơn ở vùng với vị trí ưa nứơc hơn (140- 149) ở những trẻ đã tiêm chủng nhiều hơn những trẻ không tiêm chủng với sự gây nhiễm khác nhau. Một chuỗi xác định thay đổi thì có một cơ hội thuận lợi cho việc gây ra sự thất bại miễn dịch ở trẻ em nhưng không đe doạ đối với những kế hoạch tiêm chủng vắc xin HBV hiện nay.
Một nhóm khác những cá thể, những trẻ dễ bị thất bại trong việc tiêm chủng là những trẻ đã bị tổn thươg hệ miễn dịch. Thí dụ, những bệnh nhân chạy thận nhân tạo (renal dialysis), những bệnh nhân ung thư máu (leukemia) đang điều trị hoá chất, những bệnh nhân đã ghép với việc dùng thuốc ức chế miễn dịch trong thời gian dài. Tất cả những trẻ này cần một phương pháp mạnh hơn và kiểm soát kỹ về nồng độ kháng thể của chúng thậm chí với sự bao quát của chương trình tiêm chủng thích hợp ưu tiên.
IV.VIỆC HỖ TRỢ CÓ CẦN THIẾT KHÔNG?
Thế nào là sự bảo vệ bền vững của chương trình tiêm chủng vắc xin HBV ở trẻ em phổ biến? Một liều nhắc lại thì cần thiết không? Chúng tôi đã đo lường anti- HBc, HbsAg, và nồng độ anti- HBs trước và sau liều hỗ trợ 15 năm sau khi tạo miễn dịch ở trẻ em lần đầu tiên với những vắc xin HBV có nguồn gốc huyết thanh ở 2 cohort của những trẻ em 15 tuổi. Nhóm A bao gồm 78 trẻ, những trẻ được sinh ra với những bà mẹ mang HbeAg dương tínhvà đã có được mức bảo vệ phát triển của anti- HBs (>= 10 mIU/ml). Nhóm B bao gồm 113 trẻ, gồm những trẻ có nồng đồ anti- HBs sau tiêm chủng không được biết. Anti- HBs không được tìm thấy ở 29,9% ở nhóm A và 62,4% ở nhóm B (p< 0,001). Sau một liều nhắc lại của vắc xin HB, 2,7% ở nhóm A và 3,3% ở nhóm B vẫn còn anti- HBs âm tính. Một liều nhắc lại đã làm tăng đáp ứng huyết thanh ở hầu hết các cá thể thậm chí cả 15 năm sau khi đã được tiêm chủng.
Đáp ứng miễn dịch đối với một vắc xin hỗ trợ HBV đã được đánh giá ở 872 học sinh trung học, những trẻ có huyết thanh âm tính. Nồng độ anti- HBs và xét nghiệm đánh dấu miễn dịch qua enzym để phát hiện HbsAg đặc hiệu, những tế bào đơn nhân tiết ra interferon- (NFN- ) hay interleukin (IL)- 5 đã được đo 4 tuần sau khi có liều hỗ trợ. Sau khi hỗ trợ, anti- HBs vẫn không phát hiện thấy ở 28,7% (158/551) cá thể đã được tiêm chủng vắc xin HB đủ 4 liều lúc còn nhỏ. Chúng tôi ước đoán có 10,1% trong tổng dân số đã mất vắc xin HB của họ- việc đáp ứng của liều hỗ trợ cần cần bàn bạc. HbsAg đặc hiệu, những tế bào đơn nhân tiết IFN- hay IL-5 vẫn âm tính ở 27,2% cá thể (25/92) sau khi tiêm hỗ trợ.
Tuy nhiên, không có sự gia tăng HbsAg huyết thanh dương tính ở những tuổi khác nhau trong cùng những nhóm tuổi được sanh sau chương trình tiêm chủng vắc xin có ngụ ý là không có nguy cơ gia tăng việc nhiễm HBV mạn tính theo tuổi. Hơn nữa những nghiên cứu trước đây đã chứng minh rằng nguy cơ để trở thành người mang mầm bệnh mạn tính sau khi nhiễm HBV thì giảm một cách ấn tượng theo tuổi: 25% ở những trẻ em trước khi đi học và 2,7% ở những sinh viên đại học. Tất cả những dữ liệu trên cho thấy rằng một liều vắc xin hỗ trợ phổ biến có thể không cần thiết sau khi đã tiêm chủng ban đầu.
V.SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NHỮNG VẮC XIN MỚI
Bổ sung cho những vắc xin có nguồn gốc từ huyết thanh và những vắc xin tái tổ hợp có nguồn gốc từ men đã có sẵn trên thị trường, có nhiều vắc xin mới đang trong phát triển: bao gồm như sau: (1) những vắc xin tiền S/S có nguồn gốc từ tế bào CHO hay nguồn gốc từ men: những báo cáo đầu tiên cho thấy một triển vọng những kết quả, đặc biệt đối với những người đáp ứng thấp hay không đáp ứng với những vắc xin hiện nay. (2) vắc xin từ DNA: điều này có thể không chỉ phát triển để gia tăng tính sinh kháng thể mà còn dùng cho điều trị. (3) tạo miễn dịch bằng đường uống: như một phương pháp tạo ra loại vắc xin dễ sử dụng hơn. Nhưng kết quả hiện nay cho thấy nó không được hiệu quả như việc tiêm chủng thường quy. Tuy nhiên, điều này là một vấn đề được xem xét. (4) nhiều vắc xin khác. Những vắc xin mới này có mục đích tạo tính kháng nguyên nhiều hơn để khắc phục vấn đề đối với những người không đáp ứng và những cá thể bị tổn thương miễn dịch. Cho đến nay, vẫn chưa có những ứng dụng với phạm vi rộng cho những vắc xin mới này.
VI.KẾT LUẬN
Tiêm chủng HBV phổ biến đem lại sự bảo vệ trong thời gian dài đến 20 năm, và một việc nhắc lại hỗ trợ phổ biến thì không có chỉ định đối với những người tiêm chủng vắc xin HBV ban đầu trước tuổi trưởng thành. Việc truyền từ mẹ sang con là nguyên nhân đầu tiên đối với việc thất bại của chủng ngừa vắc xin và cần khắc phục trong những chương trình tiêm chủng vắc xin trong tương lai. Điều này có thể bao gồm một kế hoạch sử dụng immunoglobulin viêm gan virus B thích hợp cho những trẻ nhỏ có nguy cơ cao và đòi hỏi cả những cố gắng giảm thiểu sự không đáp ứng. Sựi biểu hiện của đột biến tự nhiên không đưa ra bất cứ một nguy cơ gia tăng nào về việc nhiễm mạn tính tại thời điểm này. Thế hệ mới của những vắc xin chủng ngừa HBV thì có khả năng tính kháng nguyên cao hơn những vắc xin hiện nay và thuận lợi cho những người không đáp ứng tốt với những vắc xin hiện nay.

Năm 2050, bùng nổ số lượng bệnh nhân mất trí nhớ

Năm 2050, bùng nổ số lượng bệnh nhân mất trí nhớ

Thế giới hiện chi hơn 600 tỷ USD/năm để chữa trị cho những người mắc bệnh mất trí nhớ (ảnh minh họa)
(VOV) - Con số những người bị bệnh mất trí nhớ trên toàn thế giới sẽ tăng gấp ba vào năm 2050, từ 36 triệu lên đến hơn 115 triệu người.
Đó là số liệu vừa được đưa ra trong báo cáo mới nhất của WHO và Hội Nghiên cứu về Alzheimer quốc tế. Theo hai tổ chức này, bệnh mất trí nhớ ảnh hưởng tới người dân trên toàn cầu, trong đó có hơn một nửa đang sống tại những nước có thu nhập trung bình và thấp. Số liệu báo cáo của WHO chỉ ra rằng, thế giới hiện chi hơn 600 tỷ USD/năm để chữa trị và chăm sóc cho những người mắc bệnh mất trí nhớ và dự kiến trong tương lai không xa con số này sẽ còn tăng cao.
Ông Marc Wortmann, Giám đốc Điều hành Hội Nghiên cứu về Alzheimer quốc tế cho biết: “Hiện nay, trên thế giới, cứ mỗi 4 giây lại có 1 trường hợp mắc bệnh mất trí nhớ mới. Cách đây 10 năm, phải 7 giây mới có một trường hợp mắc bệnh này, điều này chứng tỏ số người mắc bệnh mất trí nhớ trên toàn cầu đang gia tăng nhanh chóng. Nhìn vào viễn cảnh năm 2050, có thể mỗi một giây đồng hồ sẽ có một người mắc bệnh  này. Do đó chúng ta cần phải hành động, cần làm điều gì đó để ngăn chặn dịch bệnh này”./.
Phương Anh/VOV-Trung tâm tin
(Theo VOA)

Những loại thuốc nào dùng chữa nhiệt miệng?

Những loại thuốc nào dùng chữa nhiệt miệng?

Có rất nhiều thuốc chữa nhiệt miệng dù không thể chữa khỏi hẳn, việc điều trị vẫn có thể giúp giảm bớt triệu chứng, giảm khả năng tái phát và kéo dài thời gian không bị bệnh.
Loét miệng aphthe (hay dân gian thường gọi là “nhiệt miệng”) là bệnh thường gặp. Tuy bệnh không nguy hiểm nhưng nó làm cho bệnh nhân đau đớn và ảnh hưởng đến sinh hoạt, ăn uống.
Loét aphthe là một bệnh không lây truyền, thường gặp ở phía trong miệng. Hiện nay, nguyên nhân gây bệnh chưa được biết rõ, tuy nhiên, các nhà nghiên cứu có đề cập đến vấn đề môi trường và di truyền, nhưng chưa được chứng minh. Ngoài ra, chấn thương miệng, rối loạn nội tiết do chu kỳ kinh nguyệt, stress, uống thuốc (bao gồm các thuốc kháng viêm như ibuprofen và các thuốc beta-blocker như atenolol), dị ứng với thực phẩm (chocolat, cà chua, hạt dẻ, các loại thực phẩm có vị chua như dứa và các chất bảo quản thực phẩm như benzoic acid và cinnamaldehyde), sử dụng kem đánh răng có chứa sodium lauryl sulfate, thiếu sắt, folic acid, hoặc vitamin B12, một số bệnh ở đường tiêu hóa… cũng được coi là yếu tố nguy cơ gây bệnh.
Điều trị loét aphthe
Dù không thể chữa khỏi hẳn nhưng việc điều trị vẫn có thể giúp giảm bớt triệu chứng, giảm khả năng tái phát và kéo dài thời gian không bị bệnh. Có thể sử dụng một số thuốc sau đây:
Nitrate bạc: Bôi trực tiếp lên tổn thương. Đã có những nghiên cứu ngẫu nhiên về hiệu quả của thuốc. Thuốc làm bớt đau ngay sau khi bôi và lành thương tổn trong vòng 3 - 5 ngày. Nhiều bệnh nhân không thích cảm giác nóng miệng sau khi bôi thuốc nhưng rất hài lòng khi hết đau hoàn toàn sau vài giờ.
Debacterol là phức hợp phenol sulfonate với sulfuric acid có tác dụng tương tự nitrate bạc. Đây là một hình thức đốt tiêu hủy vết loét bằng hóa chất. Cảm giác đau hầu như giảm ngay và vết thương sẽ lành sau 3 - 5 ngày. Thuốc bán theo toa và chỉ được dùng bởi nha sĩ hoặc bác sĩ. Thuốc chỉ được bôi 1 lần mỗi ngày.
Thuốc chỉ cung cấp theo toa bác sĩ nếu bệnh nhân chưa bớt sau khi sử dụng các thuốc thông thường:
Kem bôi có chứa triamcinolone acetonide: Thuốc được bôi ngày 3 lần, tốt nhất là sau bữa ăn chính và trước khi đi ngủ.
Amlexanox (aphthasol): Bôi ngày 4 lần, sau khi ăn và trước lúc ngủ. Chưa có nhiều bằng chứng về khả năng nhanh chóng làm giảm đau và lành loét của thuốc.
 Dung dịch tetracycline (achromycin, nor-tet, panmycin, sumycin, tetracap) dùng súc miệng có thể giúp giảm đau và lành loét nhanh chóng. Tuy nhiên, thuốc không giúp ngăn ngừa tái phát. Khi dùng quá 5 ngày, thuốc có thể gây kích ứng và tạo điều kiện cho nấm phát triển.
 Gel lidocaine: Gel 2% lidocaine bôi chỗ loét ngày 4 lần. Tránh nuốt thuốc sau khi bôi và không nên dùng quá 4 lần mỗi ngày để tránh độc tính.
Dung dịch sucralfate (thường được dùng trong loét tiêu hóa): Còn ít nghiên cứu liên quan đến việc sử dụng sucralfate cho loét aphthe. Thường dùng bằng cách ngâm 1 viên thuốc vào 5-10ml (1-2 muỗng cà phê) nước. Bôi đều dung dịch lên niêm mạc miệng, để thuốc thấm vài phút rồi nhổ ra. Thực hiện 4 lần trong ngày.
Có thể dùng bổ sung nếu cơ thể người bệnh thiếu hụt folic acid, sắt hoặc vitamin B12. Cần uống nhiều tháng để tình trạng cải thiện.
 Chlorhexidine (cyteal, eludril): Dung dịch súc miệng sát khuẩn giúp mau lành loét.
Corticosteroid: Đối với trường hợp thật nặng, bác sĩ có thể xem xét cho dùng corticosteroid đường uống sau khi cân nhắc giữa lợi ích và tác hại. Tác dụng phụ của thuốc bao gồm tăng cân, suy giảm miễn dịch, xương giòn dễ gãy, tăng tiết acid dẫn đến loét dạ dày…
Thalidomide (thalomid): Trường hợp bị bệnh rất nặng, bác sĩ có thể xem xét dùng thalidomide. Tuy nhiên do gây ra nhiều tác dụng phụ, thuốc chỉ được FDA chấp thuận sử dụng cho loét aphthe nặng ở bệnh nhân HIV dương tính.
Các thuốc có tiềm năng điều trị khác: Gồm các thuốc đã được dùng trong nhiều thử nghiệm như colchicine, pentoxifylline (trental), interferon, cimetidine (tagamet), clofazimine (lamprene), các tác nhân đối kháng TNF-a, infliximab (remicade), etanercept (enbrel), levamisole (ergamisol) và dapsone. Một số thuốc trong danh sách dài trên đây khá đắt tiền, gây nhiều phản ứng phụ nhưng lại chưa cho thấy hiệu quả rõ rệt.
Lưu ý: Để loại trừ các bệnh khác có triệu chứng giống loét aphthe, bệnh nhân cần đi khám bệnh ngay nếu: đó là đợt phát bệnh đầu tiên và chưa chắc chắn về mặt chẩn đoán; đau ngày càng nhiều và không kiểm soát được; bệnh nhân có tiêu chảy (có thể người bệnh đã mắc một bệnh hệ thống như bệnh Crohn hoặc bệnh viêm loét đại tràng); có những ổ loét ở vị trí khác ngoài miệng (có thể bệnh nhân đã mắc một bệnh hệ thống như hội chứng Behcet hoặc một bệnh lây truyền qua đường tình dục);  đối với các vết loét kéo dài trên 3 tuần.
Làm gì để phòng bệnh?
Nên tránh tất cả những nguyên nhân có thể gây chấn thương, dù rất nhẹ ở miệng như dùng bàn chải đánh răng hoặc các loại thức ăn cứng; tránh stress; không dùng kem đánh răng có chứa sodium lauryl sulfate nếu thường xuyên bị loét aphthe; không nên nói chuyện khi đang nhai; sửa chữa lại các bề mặt răng không đều; các yếu tố nội tiết đôi khi có thể kích hoạt một đợt bùng phát loét aphthe ở giai đoạn trước khi có kinh. Dùng thuốc tránh thai uống có thể giúp ích; bổ sung vào khẩu phần nếu bệnh nhân thiếu sắt, folic acid hoặc vitamin B12, tuy nhiên trong đa số thường hợp, điều này cũng không cải thiện tình trạng tái phát./.
Theo SKĐS

Bé bị tưa lưỡi: Làm gì đây?

Bé bị tưa lưỡi: Làm gì đây?

Bệnh nấm lưỡi (thường gọi tưa lưỡi) là bệnh hay gặp ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ.
Bệnh do nấm Candida albicans gây nên. Đây là một loại nấm men thường có trong khoang miệng của trẻ. Khi trẻ vệ sinh răng miệng không tốt, loại nấm này bắt đầu sinh sôi nhanh chóng và gây bệnh.
Biểu hiện nấm lưỡi ở trẻ
Biểu hiện bệnh bắt đầu là những chấm trắng nhỏ xuất hiện ở phía trên đầu lưỡi, sau đó lan rộng thành mảng trắng trên mặt lưỡi. Nếu để lâu, nấm sẽ ăn loang khắp lưỡi, làm mất vị giác, khiến trẻ biếng ăn, đau đớn, khó bú, bỏ bú và quấy khóc. Nếu nấm mọc dày có thể lan vào đường thở gây viêm phổi, nấm phổi, lan xuống dạ dày gây tiêu chảy rất nguy hiểm.
Nguyên nhân khiến cho loại nấm này phát triển nhanh thường do trẻ nhỏ không uống nước tráng miệng sau khi bú hoặc ăn bột xong. Ở trẻ lớn không đánh răng sau khi ăn, hay ăn ngọt, ăn đêm khiến cho nấm có môi trường thuận lợi để phát triển gây bệnh. Những trẻ bị HIV, ung thư… có sức đề kháng kém cũng thường bị nấm lưỡi rất nặng. Một số gia đình thường sử dụng corticoid đường hít cho trẻ hen suyễn, thuốc độc tế bào trong bệnh ung thư, dùng thuốc kháng sinh phổ rộng thường xuyên làm cho hệ cân bằng vi sinh trong cơ thể bị ảnh hưởng nghiêm trọng tạo điều kiện cho nấm lưỡi phát triển.
Dùng thuốc chữa tưa lưỡi
Khi bị nấm lưỡi, nếu ở mức độ nhẹ, có thể dùng nước muối để súc miệng hằng ngày hoặc dung dịch iod povidin 1% để súc miệng hoặc dùng gạc mềm tẩm dung dịch đó lau miệng và lưỡi cho bé.
Ngoài ra, có thể dùng các thuốc chữa nấm như nystatin. Đây là thuốc kháng nấm tác dụng rất tốt thường dùng khi bị nấm lưỡi. Nystatin hầu như không độc ở tất cả các lứa tuổi, kể cả trẻ nhỏ suy yếu và ngay cả khi dùng kéo dài vì thuốc không đi vào máu. Dùng thuốc này bằng cách rơ ở miệng cho trẻ thường đều trị trong 7 ngày. Cũng có thể dùng dạng viên bao đường nystatine 500.000 đơn vị để pha thuốc nước đủ dùng cho 1 lần. Cách pha là lấy một phần năm viên thuốc pha với 1ml nước muối sinh lý (NaCl 0,9%) hoặc nước nấu chín để nguội rồi dùng gạc sạch quấn quanh ngón tay trỏ rơ lưỡi và nơi có nấm mọc.
Loại thứ hai là miconazol - một thuốc imidazol tổng hợp có tác dụng chống nhiều loại nấm, trong đó có Candida albicans. Miconazol dùng bôi tại chỗ dưới dạng gel rơ miệng nồng độ 2%. Không dùng thuốc này khi trẻ bị dị ứng với miconazol, trẻ có bệnh về gan, trẻ không thể nuốt. Khi dùng, thuốc có thể gây rối loạn tiêu hóa như buồn nôn, nôn hoặc đôi khi tiêu chảy, viêm gan, mẩn ngứa... Mặc dù dùng tại chỗ nhưng vẫn có một lượng thuốc nhất định đi vào máu nên cần thận trọng khi trẻ đang dùng nhiều loại thuốc vì có thể xảy ra tương tác. Khi dùng ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, cần phải thận trọng để chắc chắn rằng gel không làm tắc nghẽn cổ họng, do đó nên chia tổng liều hằng ngày thành những liều nhỏ hơn và theo dõi trẻ để tránh nghẹt thở.
Nếu việc dùng thuốc rơ miệng và chống nấm bằng các thuốc trên không khỏi thì phải dùng thuốc kháng nấm toàn thân. Một số thuốc chống nấm đường uống có tác dụng ức chế sinh tổng hợp ergosterol của màng tế bào nấm. Cho trẻ uống fluconazole hoặc itraconazole.
Chú ý không nên cậy những chấm trắng trên lưỡi trẻ vì sẽ gây chảy máu, dẫn đến nhiễm trùng. Không sử dụng mật ong, nước vắt chanh để bôi lên lưỡi có thể gây nguy hiểm cho trẻ. Do bệnh dễ tái phát nên sau khi hết triệu chứng vẫn phải tiếp tục rơ cho trẻ ít nhất 2 ngày, phải phối hợp vệ sinh răng miệng. Không nên cho trẻ bú hay ăn uống trong vòng 20 phút sau khi rơ miệng. Dùng gạc sạch thấm nước muối 0,9% lau lưỡi cho bé mỗi ngày, sau khi ăn cần được uống hoặc súc miệng bằng nước lọc. Trẻ lớn hơn thì dùng kem đánh răng dành riêng cho bé. Các bà mẹ cần lưu ý không tự ý sử dụng thuốc khi chưa có ý kiến bác sĩ và không nên nghe theo lời mách bảo của người khác rồi làm theo khiến cho bệnh không những không khỏi mà còn có thể dẫn đến tai biến nguy hiểm./.
Theo Sức khoẻ và Đời sống