Thứ Bảy, 26 tháng 5, 2012

Kết quả hiện có từ các nghiên cứu quan sát cho thấy mối liên quan mạnh giữa việc cắt bao qui đầu và ngăn ngừa nhiễm HIV, đặc biệt là trong nhóm nguy cơ cao. Tuy nhiên, do những hạn chế vốn có của nghiên cứu quan sát, các kết quả này không thể xem như một kết luận. Rất cần có những thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên để đánh giá hiệu quả của can thiệp cắt bao qui đầu trên sự lây truyền HIV.

Đánh giá thực tế của Morrison C và Robert S

1. TÓM TẮT CHỨNG CỨ


Tài liệu liên quan
:: Tổng quan Cochrane
:: Khuyến cáo lâm sàng
Về tác giả
:: Morrison C và Salata R

Tổng quan này đánh giá các chứng cứ về hiệu quả của cắt da qui đầu trong phòng ngừa nhiễm HIV qua quan hệ tình dục khác giới ở nam. Các tác giả không tìm thấy thử nghiệm lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên về vấn đề này. Vì vậy, tổng quan này chỉ dựa trên 34 nghiên cứu quan sát, gồm có 5 nghiên cứu đoàn hệ, 4 nghiên cứu bệnh chứng và 25 nghiên cứu cắt ngang có đề cập đến vấn đề này. Khoảng phân nửa các nghiên cứu tiến hành trên đối tượng người bình thường (n=16) và phân nửa còn lại trên đối tượng nguy cơ cao (n=18). Cả 5 nghiên cứu đoàn hệ (1 trên dân số chung, 4 trên nhóm nguy cơ cao) cho thấy hiệu quả bảo vệ (của việc cắt da qui đầu), với 3 trong số đó cho kết quả có ý nghĩa thống kê. Các kết quả từ 15 nghiên cứu cắt ngang và 1 nghiên cứu bệnh chứng trên dân số chung là không đồng nhất. Tuy vậy, kết quả, sau khi được hiệu chỉnh, cho thấy có mối liên hệ mạnh. Ở nhóm nguy cơ cao, tất cả những nghiên cứu cắt ngang và bệnh chứng cho thấy hiệu quả bảo vệ của việc cắt da qui đầu, với phần lớn các nghiên cứu (8 cắt ngang và 2 bệnh chứng) cho kết quả có ý nghĩa thống kê. Các tác giả kết luận rằng với những nghiên cứu hiện tại cho thấy có “mối liên hệ chặt chẽ về mặt dịch tễ” giữa cắt da qui đầu và nhiễm HIV, nhưng do nhược điểm về mặt thiết kế của nghiên cứu quan sát nên các bằng chứng không đủ mạnh để cho thấy mối liên quan nhân quả. Do đó, rất cần có những thiết kế thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên để đánh giá về vấn đề này. Khả năng thực hiện việc cắt da qui đầu là một can thiệp vượt quá phạm vi của tổng quan này.
Chiến lược truy tìm tài liệu trong tổng quan này là toàn diện và thích hợp: những dữ liệu khác nhau đã được tìm kiếm và không có giới hạn về ngôn ngữ. Người phê bình không thể liên lạc được hết với các tác giả của các bản tóm tắt hội thảo và do đó có những sai lệch do xuất bản (những nghiên cứu không tìm được sự khác biệt ít có khả năng được xuất bản hơn). Những nhà phê bình độc lập đã áp dụng những tiêu chuẩn thu nhận và loại trừ rõ ràng để chọn lựa những nghiên cứu cho tổng quan này và có hai nhà tổng kết nghiên cứu chuyên làm công tác trích xuất dữ liệu một cách độc lập để đảm bảo tính chính xác khi thu thập dữ liệu.
Có sự chọn lựa thích hợp các kết cục nghiên cứu cũng như chiến lược phân tích tổng thể. Người phê bình đã quyết định không làm phân tích meta vì tính không đồng nhất của kết quả trong các nghiên cứu. Thay vào đó, họ sử dụng phân tích phân tầng theo loại nghiên cứu (ví dụ đoàn hệ, cắt ngang) và xa hơn là phân tầng theo dân số nghiên cứu (dân số chung và dân số nguy cơ cao). Họ cũng xét đến tác động của phương pháp cắt da qui đầu và sử dụng các kết quả hiệu chỉnh hơn là sử dụng kết quả thô. Nhiều cách tiếp cận số liệu đã được áp dụng để có được những thông tin quan trọng này (ví dụ cắt da qui đầu có hiệu quả bảo vệ mạnh hơn trong nhóm nguy cơ cao so với nhóm dân số chung). Tiếc thay, do tính hạn chế của các thiết kế nghiên cứu, họ đã không thể báo cáo rạch ròi về hiệu quả của cắt da qui đầu về: sự lây truyền HIV-1 và HIV-2, tỉ suất mới mắc/tần suất của HIV, hoặc tình trạng công bố của các nghiên cứu. Họ đã tiến hành đánh giá chất lượng các nghiên cứu một cách cẩn thận để xác định các nguồn có thể gây nhiễu. Điều này giúp người phê bình trình bày kết quả phân tích phân tầng về tác dụng của cắt da qui đầu bằng cách nghiên cứu chất lượng từng thiết kế nghiên cứu.

2. KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG CHO NHỮNG CƠ SỞ CÓ NGUỒN LỰC HẠN CHẾ

2.1. Tầm quan trọng của vấn đề

Ước tính có khoảng 40 triệu người trên thế giới đang sống chung với HIV/AIDS; 70% những người ngày sống ở vùng hạ Sahara, Châu Phi (1). Vào cuối năm 2003, đã có 5 triệu trường hợp nhiễm mới và 3 triệu trường hợp tử vong có liên quan đến HIV/AIDS trên toàn cầu (1). Ở nam giới trưởng thành, 70% nhiễm HIV là qua giao hợp đường âm đạo (2). Do đó, những yếu tố hỗ trợ sự lây nhiễm HIV-1 ở nam giới là điểm đặc biệt quan trọng và cũng giải thích cho tỷ lệ lây nhiễm thấp ở nữ giới.
Cắt da qui đầu có liên quan đến giảm nguy cơ lây nhiễm một số nhiễm trùng lây qua đường tình dục (NTLQĐTD), nhất là các trường hợp có vết loét sinh dục (3, 4, 5). Một nghiên cứu gần đây cho thấy cắt da qui đầu có làm giảm nguy cơ nhiễm HPV dương vật và ung thư cổ tử cung ở bạn tình nữ (6). Trên thế giới, ở các vùng có điều kiện hạn chế thì tần suất lưu hành các NTLQĐTD cũng như nhiễm HIV-1 cao, trong khi đó tỷ lệ cắt da qui đầu nam lại thấp (8). Những nghiên cứu ở vùng hạ Sahara Châu phi, cũng như ở Nam và Đông Nam Á cho thấy tần suất trong khu vực của HIV-1 có liên quan đến “tập tục” cắt da qui đầu; những nước có tỉ lệ nam giới được cắt da qui đầu thấp hơn 20% thì có tần suất lưu hành HIV cao hơn gấp vài lần so với những nước có hơn 80% nam giới được cắt da qui đầu (9, 10). Ở những nước đã phát triển thì không thấy có mối liên hệ giữa việc cắt da qui đầu và tần suất lưu hành HIV, việc này có thể do nam giới bị nhiễm HIV có liên quan nhiều hơn đến tiêm chích ma túy hoặc qua giao hợp đường hậu môn, là những đường lây nhiễm mà da qui đầu có vẻ không có ảnh hưởng (11).
Một số cơ chế sinh học đã được đưa ra nhằm giải thích vì sao sự hiện diện của da qui đầu lại có mối liên quan đến việc dễ bị nhiễm HIV-1. Những cơ chế này gồm có môi trường dễ bị viêm do mất sự toàn vẹn của niêm mạc hoặc do tăng tụ tập lymphocyte; trầy xước nhiều trong khi giao hợp cũng là ngõ vào của HIV-1; sự hiện diện của một môi trường thuận lợi cho virus sống sót và những khác biệt của các tuyến được phơi bày trên một dương vật đã so với chưa được cắt da qui đầu.

2.2. Khả năng ứng dụng vào thực tế

Đã có những dữ liệu đủ cho các nhà tổng quan có thể đánh giá mối liên hệ nhân quả giữa cắt da qui đầu với phòng ngừa nhiễm HIV-1, do đó, việc ứng dụng kết quả này là khá quan trọng. Cần tiếp tục thực hiện nhiều những thử nghiệm ngẫu nhiên tại Châu Phi, nơi có tần suất lưu hành cao HIV-1 và NTLQĐTD, cũng như là nơi có đa số nam giới không cắt da qui đầu (8, 9, 10). Những kết quả này có thể hoặc không thể ứng dụng ở những nơi khó khăn khác trên thế giới, vì có những khác biệt về mức độ lưu hành của HIV-1 và NTLQĐTD cũng như khả năng thực hiện việc cắt da qui đầu có thể gặp phải những rào cản nhất định về luân lý và tín ngưỡng. Thêm vào đó, tổng quan các nghiên cứu quan sát lại không nói rõ là cắt da qui đầu được thực hiện ở lứa tuổi nào của người đàn ông. Những thử nghiệm ngẫu nhiên đang được tiến hành về việc cắt da qui đầu có vẻ như chú trọng đến nam giới trên 15 tuổi (15 – 49 và 18 – 24 tuổi). Xét về mặt phòng ngừa nhiễm HIV-1 và NTLQĐTD thì hiệu quả can thiệp của cắt da qui đầu nam ở độ tuổi từ 20 trở lên có thể không cao như là ở độ tuổi nhỏ hơn, trước độ tuổi bắt đầu có hoạt động tình dục. Những dữ liệu hiện thời không thể cho chúng ta biết được về bất cứ tác dụng không tốt của việc cắt da qui đầu (như chảy máu, đau, nhiễm trùng, làm hẹp lỗ niệu đạo, hoặc bệnh lý liên quan). Tỷ suất giá cả-ích lợi của cắt da qui đầu hiện thời cũng không rõ vì chi phí chưa được ghi nhận trong các báo cáo.
Các nghiên cứu dịch tễ và sinh thái được tổng kết ở đây không thống nhất khi đề cập đến khả năng chấp nhận của việc cắt da qui đầu. Có nhiều thái độ đối với việc cắt da qui đầu, bao gồm những vấn đề phức tạp có liên quan đến tập tục văn hóa, tín ngưỡng và thực hành (12, 13). Đa số những nghiên cứu được công bố đề cập đến khả năng chấp nhận của việc cắt da qui đầu đều được tiến hành ở Đông và Nam Phi (12, 14). Khả năng chấp nhận ở một phần thế giới đang phát triển có thể không giống nhau; những nghiên cứu ở phần khác của Châu Phi, Nam Á và Trung Quốc cần xác định xem liệu cắt da qui đầu có thể được bộ phận dân chúng không cắt da qui đầu chấp nhận hay không.

Khả năng tiến hành can thiệp

Rõ ràng là việc triển khai cắt da qui đầu tại những nơi có điều kiện khó khăn là trở ngại quan trọng nhất dù can thiệp này chắc chắn có thể giảm nguy cơ lây nhiễm HIV-1. Những vấn đề sẽ phải đối mặt chính là: sự chấp nhận, cũng như tình trạng giáo dục/ sự nhạy cảm của cộng đồng, giá cả so với hiệu quả ở những điều kiện vượt ra ngoài khung cảnh các cuộc nghiên cứu, việc cung cấp trang thiết bị thích hợp và đào tạo cán bộ y tế cũng như tính an toàn khi thực hiện cắt da qui đầu. Chủ đề liên quan đến khả năng chấp nhận của cắt da qui đầu đã được bàn luận ở phần trên, nhưng không thể đánh giá thấp khả năng này nếu như muốn triển khai thành công can thiệp này ở các nước đang phát triển. Thêm vào đó, mối quan tâm chủ yếu khi khuyến khích việc cắt da qui đầu như một cách làm giảm lây truyền HIV-1 về mặt lý thuyết, sẽ đưa đến một nguy cơ khác là làm cho những người đã được cắt da qui đầu cảm thấy được bảo vệ và lao vào những hoạt động tình dục nguy cơ cao (12, 15, 16). Do đó, những chiến dịch giáo dục cần chú trọng đến những tác động ức chế tình dục trong khi vẫn khuyến khích sử dụng bao cao su.
Cần chú ý đánh giá chi phí- hiệu quả cũng như lợi ích của việc triển khai biện pháp cắt da qui đầu như một cách can thiệp để phòng ngừa lây truyền HIV-1. Cần có thêm nhiều nỗ lực để duy trì một chương trình như vậy. Can thiệp này sẽ có tính kinh tế cao ở những nơi có tần suất lưu hành NTLQĐTD cao vì sẽ ảnh hưởng đến khả năng bảo vệ lây nhiễm trực tiếp hoặc gián tiếp HIV-1 thông qua làm giảm lây truyền NTLQĐTD (17). Những mô hình toán học có thể là một công cụ hữu ích giúp tiên đoán lợi ích của việc cắt da qui đầu ở một vùng nhất định nào đó trên thế giới (18).
Nhiều cơ sở y tế tại các nước đang phát triển hiện nay không có những cán bộ y tế được đào tạo hoặc những trang thiết bị phù hợp cho việc thực hiện cắt da qui đầu (19). Nếu cộng đồng chấp nhận việc cắt da qui đầu như một cách hiệu quả làm giảm lây nhiễm HIV-1, các cơ sở sẽ phải được nâng cấp và các cá nhân sẽ phải được huấn luyện.
Khi triển khai rộng rãi, vấn đề chủ chốt sẽ là xác định những nguy cơ đi kèm với việc cắt da qui đầu. Những nguy cơ đi kèm này hiện không được hiểu một cách đúng đắn, nhất là ở những người đàn ông lớn tuổi. Đa số các thông tin về tỷ lệ biến chứng là từ những nước đã phát triển, với tỷ lệ được báo cáo là 0,2– 0,6% (20). Những biến chứng ít gặp gồm có chảy máu nhẹ, hở vết thương và nhiễm trùng, “hình dạng không như mong đợi” sau phẫu thuật, hẹp lỗ niệu đạo gây ứ đọng nước tiểu, và hiếm gặp là dò niệu đạo, cắt cụt một phần dương vật và hoại tử dương vật. Còn có quá ít nghiên cứu về các biến chứng được thực hiện ở các nước đang phát triển. Một nghiên cứu ở 4 bệnh viện tại Kenya và Nigeria gồm 249 ca cắt da qui đầu cho thấy có 11% có biến chứng ở mức độ từ vừa đến nặng (21). Một nghiên cứu khác ở Tanzania cho thấy tỷ lệ có biến chứng ở trẻ nhỏ là 2%, tương đương với tỷ lệ ở Hoa Kỳ (22). Như vậy, cần có những đánh giá tốt hơn về các mối nguy cơ của cắt da qui đầu ở nam vị thành niên và nam trưởng thành.

3. NGHIÊN CỨU

Tổng quan này cung cấp thông tin về thiết kế cũng như hướng dẫn cho những bước nghiên cứu tiếp theo. Rất cần có những thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên để đánh giá hiệu quả của can thiệp cắt bao qui đầu trên sự lây truyền HIV-1. Những nghiên cứu này: (i) cần có đủ độ mạnh về mặt thống kê để phát hiện ra sự khác biệt giữa các nhóm; (ii) cần đo lường tác động của can thiệp (cắt da qui đầu) trong một khoảng thời gian đủ dài; và (iii) phải kiểm soát những yếu tố hỗ trợ cũng như những yếu tố gây nhiễu ví dụ như cách cắt da qui đầu, đồng nhiễm NTLQĐTD trong thời gian quan sát, tuổi được cắt da qui đầu, tỷ lệ biến chứng liên quan đến can thiệp, yếu tố kinh tế-xã hội, tín ngưỡng và tập tục, sắc tộc của đối tượng nghiên cứu, tình trạng hôn nhân, hành vi tình dục, và tần suất lưu hành HIV-1 trong vùng thực hiện nghiên cứu. Thêm vào đó, cũng cần những thông tin quan trọng về chi phí- hiệu quả và khả năng chấp nhận của can thiệp này. Sau cùng, khi thực hiện những thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên, những mẩu da qui đầu được cắt ra cần được giữ lại để nghiên cứu về cấu trúc tế bào đích của HIV-1 và mật độ thụ thể hóa học nhằm chứng minh cho những thử nghiệm trên da qui đầu của đàn ông và trẻ nhỏ tại những nước đã phát triển. Cũng hợp lý khi những hóa mô miễn dịch của các mẩu da qui đầu lấy từ nam giới Châu Phi sẽ có sự khác biệt bởi sự phơi nhiễm với STIs và/hoặc các hành vi vệ sinh dương vật khác nhau.
Hiện có 3 thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên đang được thực hiện ở Châu Phi (Kenya, Nam Phi và Uganda) (7). Mỗi nghiên cứu thu nhận một số lượng lớn nam giới (2.776–5.000 người cho một nghiên cứu), sẽ theo dõi các đối tượng trong 21 tháng hoặc hơn nữa, và sẽ kiểm tra chính xác những NTLQĐTD trong khoảng thời gian theo dõi, rồi tính toán cẩn thận những bệnh suất có liên quan đến thủ thuật cắt da qui đầu. Ngoài ra, những nghiên cứu này cũng đánh giá cẩn thận khả năng chấp nhận việc cắt da qui đầu cũng như những hành vi tình dục theo thời gian để đánh giá những tác động làm ức chế tình dục có liên quan đến cắt da qui đầu. Tóm lại, những thử nghiệm lâm sàng này cần cung cấp những thông tin then chốt về hiệu quả của cắt da qui đầu đối với việc lây nhiễm HIV ở nam giới. Tuy vậy, cũng cần chú ý khi khái quát hóa kết quả nghiên cứu–nhất là với những dữ liệu về khả năng chấp nhận và hiệu quả của nó trên những hành vi sau đó – trên những (nhóm) dân tộc khác ở Châu Phi, và đặc biệt là ở những vùng khác trên thế giới. Vì vậy, chứng cứ cho những tác động có lợi của cắt da qui đầu trên phòng ngừa lây truyền HIV ở những thử nghiệm lâm sàng này có thể chỉ ra sự cần thiết có thêm những thử nghiệm lâm sàng khác ở những vùng khác có tần suất lưu hành HIV-1 cao trong khi tần suất cắt da qui đầu lại thấp.

Tài liệu tham khảo

  • UNAIDS. Report on the global HIV/AIDS epidemic – December 2002. UNAIDS 2003 .
  • HIV infections web site (http://www.who.int/health_topics/hiv_infections/en/). WHO visited 9 January 2004 .
  • Cook LS, Koutsky LA, Holmes KK. Circumcision and sexually transmitted diseases. <i>American journal of public health</i> 1994;84:197-201.
  • Moses S, Bailey RC, Ronald AR. Male circumcision: assessment of health benefits and risks. <i>Sexually transmitted infections</i> 1998;74:368-373.
  • Halperin DT, Bailey RC. Male circumcision and HIV infection: 10 years and counting. <i>The Lancet</i> 1999;354:1813-1815.
  • Castellsague X, Bosch FX, Munoz N, et al. Male circumcision, penile human papillomavirus infection, and cervical cancer in female partners. <i>New England journal of medicine</i> 2002;346:1105-1112.
  • Siegfried N, Muller M, Volmink J, et al. Male circumcision for prevention of heterosexual acquisition of HIV in men (Cochrane Review). In: The Cochrane Library, Issue 3, 2003. Oxford: Update Software.
  • Bailey RC, Plummer FA, Moses S. Male circumcision: current knowledge and future research directions. <i>The lancet infectious diseases</i> 2001;1:223-231.
  • Moses S, Bradley J, Nagelkerke N, et al. Geographical patterns of male circumcision in Africa: association with HIV seroprevalence. <i>International journal of epidemiology</i> 1990;19:693-697.
  • Moses S, Nagelkerke N, Blanchard J. Analysis of the scientific literature on male circumcision and the risk for HIV infection. <i>International journal of sexually transmitted diseases and AIDS</i> 1999;10:626-628.
  • Bailey RC, Halperin DT. Male circumcision and HIV infection. <i>The lancet</i> 2000;355:927.
  • Bailey RC, Neema S, Othieno. Sexual behaviors and other HIV risk factors in circumcised and uncircumcised men in Uganda. <i>Journal of acquired immune deficiency syndrome</i> 1999;22:294-301.
  • Green EC, Zokwe B, Dupree JD. Indigenous African healers promote circumcision for prevention of sexually transmitted diseases. <i>Tropical doctors</i> 1993;23:182-183.
  • Bailey RC, Muga R, Poulussen R, Abicht H. The acceptability of male circumcision to reduce HIV infection in Nyanza Province, Kenya. <i>AIDS Care</i> 2002;14:27-40.
  • Tyndall M, Ronald A, Agoki E, et al. Increased risk for infection with the human immunodeficiency virus type-1 among uncircumcised men with genital ulcer disease in Kenya. <i>Clinical infectious diseases</i> 1996;23:449-453.
  • Seed J, Mertens A, Tudos E, et al. Male circumcision, sexually transmitted diseases, and risk for HIV. <i>Journal of acquired immune deficiency syndrome</i> 1995;8:83-90.
  • Quigley MA, Weiss HA, Hayes RJ. Male circumcision as a measure to control HIV infection and other sexually transmitted diseases. <i>Current opinion in infectious diseases</i> 2001;14:71-75.
  • Hayes RJ. Confounding, effect modulation and attributable fractions: Issues in interpreting circumcision effects. <i>International journal of sexually transmitted diseases and AIDS</i> 2001;12 (suppl 2):6 (abstract).
  • Bailey RC, Muga R Poulussen R. Trial intervention introducing male circumcision to reduce HIV/STD infections in Nyanza Province, Kenya: Baseline results. <i>XIII International Conference on AIDS; Durban, South Africa. MoOrC196</i>. 2000. .
  • American Academy of Pediatrics. Report of the task force on circumcision. <i>Pediatrics</i> 1989;84:388-391.
  • Magoha G. Circumcision in various Nigerian and Kenyan hospitals. <i>East African medical journal</i> 1999;76:583-586.
  • Manji KP. Circumcision of the young infant in a developing country using the Plastibell. <i>Annals of tropical paediatrics</i> 2000;720:101-104.

Khai báo bạn tình


Tài liệu liên quan
:: Tổng quan Cochrane
:: Khuyến cáo lâm sàng
Về tác giả
:: Jimmy Volmink

Tổng quan Cochrane so sánh hiệu quả của chiến lược khai báo bạn tình trong điều trị các nhiễm trùng lây qua đường tình dục (NTLQĐTD). Ba chiến lược khai báo bệnh nhân được so sánh: dựa vào nhân viên y tế (khai báo bạn tình do nhân viên y tế thực hiện), dựa vào hồ sơ điều trị (nhân viên y tế báo cho người bạn tình đã không đến khám theo hẹn tại cơ sở y tế) và dựa vào người bệnh (bản thân bệnh nhân báo cho bạn tình của mình). Ngoài ra còn đánh giá các kế hoạch giáo dục nhằm cải thiện khả năng khai báo của bệnh nhân.
Với tình trạng viêm niệu đạo không điển hình, đã có một số bằng chứng ghi nhận khai báo từ nhân viên y tế có hiệu quả hơn từ bệnh nhân. Một thử nghiệm cho thấy khai báo từ nhân viên y tế làm gia tăng tỷ lệ được điều trị và tỷ lệ phát hiện chlamydia cao hơn, so với từ người bệnh. Cho phép bệnh nhân lựa chọn cách khai báo, giữa từ nhân viên y tế và từ bản thân bệnh nhân, cũng hiệu quả hơn buộc họ tự khai báo. Trong một nghiên cứu về HIV, khi được trao cho quyền chọn lựa cách khai báo, có nhiều bạn tình được khai báo hơn và nhiều bạn tình được xét nghiệm HIV (+) hơn.
Một thử nghiệm khác so sánh hiệu quả của sự chọn lựa, giữa khai báo từ bệnh nhân hay từ nhân viên y tế, có kèm theo tư vấn và đưa thẻ hẹn, với khai báo từ bệnh nhân cho những bệnh nhân bị STI. Trong nhóm được chọn lựa khai báo kèm theo tư vấn và thẻ hẹn, bệnh nhân nam báo cáo nhiều bạn tình hơn và cũng có nhiều bạn tình được điều trị hơn những bệnh nhân được phân bố vào nhóm chỉ khai báo từ bệnh nhân; tuy nhiên, nhóm được chọn lựa khai báo lại có tranh cãi giữa các cặp bạn tình cao hơn. Không thấy khác biệt trong nhóm bệnh nhân nữ.
Cũng có bằng chứng rằng so với bệnh nhân tự khai báo, sử dụng khai báo từ hồ sơ làm tăng số lượng bạn tình của bệnh nhân nhiễm lậu đến điều trị. Kết quả của tổng quan không cung cấp đầy đủ thông tin để kết luận về hiệu quả tương đối của chiến lược khai báo qua hồ sơ so với khai báo do nhân viên y tế thực hiện.
Một nghiên cứu tìm hướng cải thiện sự khai báo của bệnh nhân thông qua giáo dục (bệnh nhân nhiễm bệnh), do một điều dưỡng thực hiện, kèm với tham vấn do một người không chuyên thực hiện. Can thiệp này có làm gia tăng, tuy ít, số bạn tình được điều trị, so với phương thức để bệnh nhân khai báo.

Một kế hoạch tìm kiếm toàn diện được thực hiện nhằm tìm ra các thử nghiệm ngẫu nhiên đã công bố và chưa công bố. Các nhà phê bình độc lập áp dụng các tiêu chuẩn chọn lựa, trích xuất số liệu và đánh giá phương pháp nghiên cứu cho các thử nghiệm được thu nhận. Tuy không có nghiên cứu bị loại khỏi tổng quan, nhưng có khả năng nhiều sai lệch đã xảy ra.

2. KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG CHO NHỮNG CƠ SỞ CÓ NGUỒN LỰC HẠN CHẾ

2.1. Tầm quan trọng của vấn đề

Các nhiễm trùng lây qua đường tình dục đang còn là vấn đề sức khỏe quan trọng trên toàn thế giới. Những bệnh này là nguyên nhân hàng đầu của các bệnh suất làm ảnh hưởng đến sức khỏe sau này, những thiệt hại về kinh tế và xã hội (1). Tỷ lệ của NTLQĐTD tăng ở một số khu vực, đặc biệt là độ tuổi 15–25. Các biện pháp tốt nhất để giải quyết việc lan truyền vẫn tiếp tục bị lảng tránh (2). Đại dịch HIV/AIDS với sức tàn phá ảnh hưởng đặc biệt ở các vùng châu Phi – hạ Sahara, đã nhấn mạnh nhu cầu cấp thiết phải kiểm soát các NTLQĐTD, vì nó làm gia tăng đáng kể nguy cơ lây HIV qua quan hệ tình dục (1).

2.2. Khả năng ứng dụng vào thực tế

Bệnh nhân bị NTLQĐTD thường có bạn tình cũng bị nhiễm. Nhằm dự phòng lây nhiễm nhiều hơn hay tái nhiễm, nên khai báo bạn tình để họ được chẩn đoán và điều trị. Đặc biệt quan trọng với bạn tình nữ của bệnh nhân nam bị NTLQĐTD, vì thường bạn tình nữ không có triệu chứng và do đó không đi khám bệnh. Có những thử thách đặc biệt cho cả 3 cách khai báo bạn tình ở những nơi có nguồn lực kém. Khai báo qua nhân viên y tế là khó khăn và tốn kém nhất. Khi cơ sở y tế quá nhiều việc, sẽ rất khó khăn đảm bảo sự riêng tư trong thảo luận giúp bệnh nhân khai báo bạn tình. Khi nhân viên y tế không được huấn luyện đầy đủ để có thể thông cảm với nhu cầu của bệnh nhân, có nhiều khả năng họ sẽ ép buộc bệnh nhân khai báo bạn tình dẫn đến bệnh nhân không muốn chia sẻ thông tin. Yếu tố văn hóa cũng là một vấn đề vì không cân nhắc yếu tố này sẽ làm thất bại khi đánh giá những nội dung khác như bất bình đẳng giới dẫn đến nữ giới có thể bị bạo hành hay bị bỏ rơi. Trong lĩnh vực này, mức độ bảo mật còn chưa thể được xem trọng đúng mức. Cuối cùng, ở nơi có nguồn lực kém, khó khăn có thể do thiếu phương tiện chẩn đoán và điều trị. Điều này đặc biệt thường gặp ở nữ giới vùng nông thôn, trong khi người bạn tình nam đến các thành phố làm việc và được điều trị tại đây.

2.3. Khả năng áp dụng của các kết quả

Khả năng ứng dụng kết quả của tổng quan này trong thực tế vẫn chưa rõ ràng. Trong tổng quan, các thử nghiệm đã đánh giá hiệu quả của khai báo bạn tình trong một số lượng nhỏ bệnh nhân bị NTLQĐTD và chỉ 2 nghiên cứu được thực hiện ở các nước đang phát triển. Hơn nữa, thiếu số liệu về những ảnh hưởng tiềm ẩn không tốt của những hình thức khai báo bạn tình, ví dụ như xung đột và bạo lực trong gia đình, không cho phép kết luận liệu hiệu quả thu nhận được của những can thiệp này có vượt qua những nguy cơ không. Điều này đặc biệt quan trọng đối với những người nhiễm HIV/AIDS ở các nước đang phát triển, nơi chưa sẵn có dịch vụ điều trị kháng retrovirus, dịch bệnh bùng phát và khả năng tử vong hết sức cao.

2.4. Khả năng tiến hành những can thiệp

Tổng quan này cung cấp những bằng chứng giới hạn rằng khai báo bạn tình do nhân viên y tế thực hiện hoặc chọn lựa giữa khai báo do tự bệnh nhân và do nhân viên y tế có hiệu quả hơn bệnh nhân tự khai báo về khía cạnh làm gia tăng số bạn tình đến điều trị tại trung tâm y tế. Do số lượng hạn chế của các nghiên cứu được xem xét, chất lượng phương pháp nghiên cứu kém và dữ liệu hạn chế từ những nước nghèo, không thể quyết định nên chọn lựa cách khai báo bạn tình nào là tốt nhất.

2.5. Nghiên cứu

Cần có các thử nghiệm so sánh hiệu quả các chiến lược khác nhau trong khai báo bạn tình (đặc biệt trong vùng có tỷ lệ HIV và NTLQĐTD cao). Những nghiên cứu này nên được thiết kế chặt chẽ để giới hạn thiên lệch (thí dụ phân bổ thích hợp và đánh giá kết cục một cách có làm mù). Nên xem xét nhiều kết cục hơn như tỷ lệ tái nhiễm, tỷ lệ NTLQĐTD, chi phí và tác dụng có hại.

Tài liệu tham khảo

Bạn có bị bệnh lậu không?

Bạn có bị bệnh lậu không?

Lậu là một bệnh gặp với tỷ lệ cao nhất trong các bệnh lây truyền qua đường tình dục. Nếu không được chẩn đoán và điều trị sớm sẽ để lại nhiều biến chứng nguy hiểm cho người bệnh.
1. Nguyên nhân gây bệnh:
- Bệnh lậu do cầu khuẩn lậu gây nên.
- Bệnh xuất hiện sau khi quan hệ tình dục với người bị bệnh (cấc đối tượng có nguy cơ cao)
2. Triệu chứng để phát hiện ra bạn bị lậu:
- Ở nam giới:
+ Các dấu hiệu thường xuất hiện sau khi giao hợp từ 2 đến 5 ngày, nhưng cũng có nam giới mắc bệnh có thể không có dấu hiệu.
+ Có hiện tượng đọng giọt mủ ở đầu dương vật, gọi là dấu hiệu :"Giọt sương ban mai"
+ Có các triệu chứng đái rắt, đái buốt, đái ra mủ, mỗi khi đi tiểu rất đau, người bệnh mệt mỏi hoảng hốt.
- Ở nữ giới:
+ Các dấu hiệu mắc lậu có thể bắt đầu sau nhiều tuần hoặc nhiều tháng. Thậm chí có khi lại không có bất kỳ dấu hiệu nào mà vẫn có thể truyền lậu cho một người khác khi quan hệ tình dục.
+ Âm đạo hoặc hậu môn có nhiều dịch nhày mủ hoặc mủ có máu, đau hoặc buốt khi đi tiểu, đau bụng dưới, sốt, đau hoặc chảy máu trong khi giao hợp, hoặc không có một dấu hiệu nào.
3. Nguy hiểm của bệnh lậu:
Lậu là bệnh nghiêm trọng nhưng dễ điều trị nếu được chữa sớm. Ngược lại nếu không điều trị sớm sẽ có thể gây nhiễm khuẩn nặng và dẫn đến biến chứng như viêm mào tinh hoàn, viêm tuyến tiền liệt... gây vô sinh ở nam; viêm buồng trứng, vòi trứng gây tắc và vô sinh ở nữ.
4. Cách dự phòng bệnh lậu:
- Tình dục an toàn và sử dụng bao cao su đúng cách và thường xuyên là biện pháp dự phòng hữu hiệu nhất.
- Để phòng tránh những biến chứng nguy hiểm như trên, khi phát hiện có một trong các triệu chứng trên, bạn nên đi khám sớm. Các bác sĩ sẽ khám và soi dịch tiết ở bộ phận sinh dục của bạn xem có phải bị mắc bệnh lậu không để điều trị sớm cho bạn.
5. Điều trị lậu:
- Điều cần chú ý là cần điều trị cả hai người (vợ, chồng hoặc bạn tình) càng sớm càng tốt.
- Điều trị theo một trong 3 phác đồ sau:
+ Ceftriaxone 250 mg, tiêm bắp liều duy nhất
+ Spectinomycin 2g, tiêm bắp liều duy nhất
+ Cefotaxime 1g, tiêm bắp liều duy nhất
(*) Các thuốc và liều lượng nêu trong bài chỉ là các ví dụ chứ không phải là một đơn thuốc, vì vậy chúng tôi không chịu trách nhiệm về các tai biến nếu như bạn tự ý dùng thuốc. Mọi vấn đề liên quan tới điều trị các bạn phải đi khám trực tiếp)
Bác sĩ Nguyễn Phong

Quan hệ tình dục trước hôn nhân

Có nên quan hệ tình dục trước hôn nhân?

Quan hệ trước hôn nhân hay không luôn làm cho các bạn băn khoăn và lo lắng...
"Em đã có người yêu, anh ấy hơn em 2 tuổi, đã đi làm, rất quan tâm, chăm sóc cho em.
Nhưng điều làm em lo lắng là những khi gần nhau, anh ấy thường hay có những cử chỉ gần gũi quá mức, và có lúc anh ấy đòi “chuyện ấy”.
Em không biết phải làm thế nào, em sợ tình yêu của chúng em đi quá giới hạn vì em đang đi học.
Anh chị hãy giúp em những thắc mắc sau nhé:
1. Có nên QHTD trước hôn nhân không ạ?
2. Em phải làm gì để tình yêu của chúng em không quá “giới hạn”?
3. Nếu như em không “cản” được anh ấy thì em nên áp dụng những BPTT nào ạ?
"

Lời ban biên tập:

Bạn hãy chia sẻ những hiểu biết, kinh nghiệm và suy nghĩ của mình để giúp bạn ấy vượt qua khó khăn nhanh và phù hợp nhất nhé. Trân trọng cảm ơn các bạn.

Các bạn hãy tam sự vào mục nhận xét phía dưới ban biên tập sẽ trả lời cho các ban các thắc mắc của bạn?


TÌNH DỤC VỊ THÀNH NIÊN

Giáo dục vị thành niên để có ứng xử đúng trong mối quan hệ nam nữ cần chú ý tới 2 nội dung chính: giáo dục kỹ năng kiềm chế và từ chối khi bị lôi cuốn vào quan hệ tình dục và giáo dục để biết tự bảo vệ khi không thể kiềm chế (biết cách phòng tránh bệnh lây truyền qua đường tình dục và có hiểu biết về các biện pháp tránh thai).

 VTN cần được giáo dục, tư vấn về SKSS, tình dục an toàn.
Tình dục an toàn
Thực hành tình dục an toàn là sự lựa chọn cần thiết khi vị thành niên không thể vượt qua được những cảm xúc tình dục.
Ngày nay khái niệm an toàn tình dục được hiểu như sau: "Sự lựa chọn hành vi tình dục đem lại sự thoải mái và bảo vệ được cho bản thân và cho những người khác không bị những hậu quả có hại đến sức khỏe". Bị lây nhiễm bệnh do quan hệ tình dục và có thai khi chưa mong muốn là có hại cho sức khỏe, là không an toàn. Với định nghĩa nói trên, tình dục an toàn nhấn mạnh đến trách nhiệm và sự lựa chọn của mỗi cá nhân trong đời sống tình dục.
Vậy tình dục an toàn bao gồm một loạt những hành vi đem lại sức khỏe và có tác dụng phòng ngừa: lối sống lành mạnh, tôn trọng mối quan hệ chung thủy với một bạn tình, sử dụng bao cao su khi có nguy cơ bị lây nhiễm các bệnh lây truyền qua đường tình dục, sử dụng các phương pháp tránh thai đáng tin cậy và an toàn, thực hành tình dục không thô bạo, sử dụng kim, bơm tiêm riêng và đã vô khuẩn, kiểm tra y tế khi nghi ngờ bị nhiễm các bệnh lây truyền tình dục.
Cũng cần lưu ý rằng hành vi tình dục được coi là lành mạnh khi phù hợp với những chuẩn mực văn hóa của xã hội hiện đại, nhấn mạnh đến sự tự nguyện, bình đẳng, tôn trọng nhau, không làm thương tổn cho nhau và chia sẻ chân thành. Nhiều hành vi tình dục không phù hợp với đạo đức, văn hóa truyền thống, có thể an toàn nhưng không lành mạnh, ví dụ quan hệ với gái điếm, với trẻ em...
Vị thành niên cũng cần nhận thức được việc thực hành tình dục an toàn là một giá trị xã hội.

Tình dục có trách nhiệm
Cũng có nhiều cách lý giải về hiện tượng vị thành niên có quan hệ tình dục sớm, một trong số đó là sự thiếu giáo dục về mối quan hệ lành mạnh và có trách nhiệm giữa nam và nữ. Vậy thế nào là hành vi tình dục có trách nhiệm?
Một thái độ có trách nhiệm trong mối quan hệ nam nữ là khi cả hai phía đều tin chắc rằng:
- Họ không bị nhiễm bất cứ một loại bệnh lây truyền qua đường tình dục nào, kể cả HIV. Vì vậy cả hai người đều cần được kiểm tra y tế và xét nghiệm phát hiện HIV.
- Họ cần thống nhất với nhau về ý muốn có thai hay chưa muốn có thai.
- Họ cần xác định rõ trách nhiệm của họ một khi lỡ có thai. Những người có trách nhiệm trong hành vi tình dục đều thống nhất rằng nạo thai không bao giờ được coi là một biện pháp để kiểm soát sinh đẻ. Vì vậy những cặp bạn tình có trách nhiệm và quan tâm đến nhau phải nói cho nhau biết nguy cơ có thể có thai với những hậu quả của nó, chia sẻ quan điểm về mối quan hệ vợ chồng và vai trò, trách nhiệm của bậc làm cha mẹ.
- Họ cần hiểu rõ những quan niệm của nhau về những mục tiêu trong đời sống và biết cùng nhau xác định những giá trị, nghĩa là họ cần hiểu rằng quan hệ tình dục là một việc nghiêm túc khi con người đã thực sự trưởng thành về mặt thể chất, tâm lý và tình cảm.
- Họ cần phải tin rằng quan hệ tình dục chỉ làm cho tình yêu của họ tốt đẹp hơn, tin cậy nhau hơn chứ không phải chỉ là sự hưởng thụ đơn thuần hay vì một động cơ không chính đáng nào đó.
Những yêu cầu nói trên cần được thanh thiếu niên chấp nhận thông qua giáo dục gia đình, đoàn thể và xã hội với nhiều hình thức phong phú nhằm tác động tới sự hiểu biết, thái độ và hành vi của họ, xây dựng một quan hệ tình dục có trách nhiệm để vị thành niên hiểu rằng chỉ trong khuôn khổ hôn nhân mới đem lại an toàn và hạnh phúc bền vững.
BS. Xuân Anh
 

TÍNH NGÀY RỤNG TRỨNG

Xác suất của việc “đơm hoa nở nhụy” giữa tinh trùng và trứng thường diễn ra vào những ngày rụng trứng. Tuy nhiên, làm thế nào để tính được ngày rụng trứng trong khi chu kỳ kinh nguyệt của một số chị em lại không đều?

Lúc nào là thời kỳ dễ thụ thai?

Đáp án chính xác là lấy chu kỳ phổ biến 28 ngày để tính toán. Thời kỳ rụng trứng sẽ rơi vào ngày thứ 14 (đếm ngược) bắt đầu từ ngày đầu tiên của kỳ kinh tiếp theo. Thời kỳ dễ thụ thai cũng có thể rơi vào khoảng thời gian từ 11 - 16 ngày sau ngày thấy kinh đầu tiên. Ngày dễ thụ thai nhất là ngày thứ 13 - 15 của chu kỳ. Nếu chức năng sinh sản bình thường, lại không áp dụng bất cứ biện pháp tránh thai nào thì khả năng thụ thai trong thời kỳ này là rất cao.

Ngày kinh đầu tiên chính xác là ngày nào?

Ngày đầu tiên của chu kỳ được tính là ngày đầu có hiện tượng ra máu. Nếu trước đó có thấy ra vài giọt máu thì có thể bỏ qua không cần tính. Nhiều người vẫn lầm tưởng ngày sạch kinh mới là ngày đầu của một chu kỳ mới, vì thế dẫn đến tính toán sai thời kỳ dễ thụ thai.

Nếu chu kỳ là 32 ngày thì tính thời kỳ dễ thụ thai như thế nào?

Nếu chu kỳ này là cố định thì thời kỳ dễ thụ thai cũng sẽ cố định tương ứng. Nếu chu kỳ của bạn dài hơn 28 ngày thì có thể áp dụng công thức suy đoán, tức cứ dài thêm một ngày thì ngày dễ thụ thai sẽ cộng thêm một và ngược lại nếu chu kỳ ngắn hơn 28 ngày thì ngày dễ thụ thai lại trừ đi một. Ví dụ: nếu chu kỳ dài 32 ngày thì thời kỳ dễ thụ thai sẽ ở vào khoảng ngày thứ 15 (11 +4) đến ngày thứ 20 (16 + 4), ngày rụng trứng có thể rơi vào ngày thứ 18 (14 + 4) của chu kỳ.

Chu kỳ thường là 26 - 30 ngày, làm thế nào để tính thời kỳ dễ thụ thai?

Trong trường hợp này, bạn phải tính toán 2 thời kỳ dễ thụ thai. Một là căn cứ vào chu kỳ ngắn nhất, hai là căn cứ vào chu kỳ dài nhất sau đó kết hợp 2 chu kỳ này lại với nhau. Ví dụ: với chu kỳ 26 ngày thì thời kỳ dễ thụ thai sẽ ở vào khoảng ngày thứ 9 đến ngày thứ 14 của chu kỳ. Nếu chu kỳ 30 ngày thì thời kỳ dễ thụ thai ở vào khoảng ngày thứ 13 đến ngày thứ 18 của chu kỳ. Tổng hợp lại, thời kỳ dễ thụ thai của bạn ở vào khoảng ngày thứ 9 đến ngày thứ 18 và ngày rụng trứng ở vào khoảng từ ngày thứ 12 - 16 của chu kỳ.

Nếu chu kỳ hoàn toàn không chuẩn thì có thể tính thế nào?

Nếu chu kỳ thường xuyên bị rối loạn không thể dự đoán được thì có thể bạn không rụng trứng. Trong trường hợp này, bạn nên đến bệnh viện để kiểm tra nguyên nhân trứng không rụng trước đã.

Tần suất của việc sinh hoạt vợ chồng trong thời kỳ dễ thụ thai?

Tần suất lý tưởng là 2 ngày một lần hoặc 3 lần/tuần. Tuy nhiên cần chú ý, làm “chuyện ấy” mỗi ngày không thể làm tăng xác suất thụ thai, ngược lại còn làm giảm lượng tinh dịch và khiến cơ thể mệt mỏi. Thời kỳ dễ thụ thai với chu kỳ 28 ngày là trong khoảng ngày thứ 13 - 15 của chu kỳ, vì thế trong giai đoạn này nên làm “chuyện ấy” 1 - 2 lần để nâng cao khả năng thụ thai.

Vì sao sử dụng phương pháp đo nhiệt độ tính ngày rụng trứng để tiến hành mà vẫn thất bại?

Nhiệt độ cơ thể là một công cụ hỗ trợ mang thai rất phổ biến, tuy nhiên lại rất dễ khiến người ta ngộ nhận. Thường thì trong vòng 2 ngày sau khi rụng trứng thì nhiệt độ cơ thể có tăng lên đôi chút và có thể theo dõi được. Thế nhưng, ngày nhiệt độ cơ thể tăng cao đồng thời cũng là ngày kết thúc của thời kỳ dễ thụ thai. Nói cách khác, nhiệt độ cơ thể tăng cao có nghĩa thời kỳ dễ thụ thai của bạn đã hết.

Nguyên lý của que thử rụng trứng?

Nguyên lý của que thử rụng trứng là kiểm tra hàm lượng của kích thích tố LH. Thông thường, hàm lượng LH trong cơ thể rất thấp nhưng nó đột ngột tăng cao trước khi rụng trứng, y học gọi đó là “giá trị đỉnh LH”. Que thử rụng trứng có tác dụng đo lại giá trị này, nếu nó xuất hiện tức là trứng sắp rụng trong khoảng 12 - 26 giờ nữa. Tuy nhiên, nếu bạn cứ chờ đến khi giá trị đỉnh này xuất hiện thì có thể đã bị lỡ mất một nửa thời gian của thời kỳ dễ thụ thai. Lý do đơn giản là vì trước khi xuất hiện giá trị này thì đã là thời kỳ dễ thụ thai rồi.

Nếu không áp dụng tất cả các biện pháp trên thì làm thế nào để thụ thai?

Nếu bạn sinh hoạt vợ chồng với tần suất 2 - 3 ngày 1 lần trong thời gian không có kinh thì bạn đã có xác suất thụ thai rất cao rồi. Nếu bạn chỉ sinh hoạt vợ chồng 1 lần/tuần hoặc ít hơn thì rất có thể bạn đã bỏ qua thời kỳ dễ thụ thai.

Cần chú ý những gì để nâng cao cơ hội thụ thai?

Người chồng nên tránh cho cơ quan sinh dục ở trong tình trạng nhiệt độ cao; giảm bớt hoặc tránh hẳn việc mát xa, tắm bồn, xông hơi, hạn chế vận động mạnh và đi xe đạp. Người vợ nên chú ý đến sự thay đổi sinh lý. Khi bước vào thời kỳ dễ thụ thai, lượng khí hư cũng tăng lên nhiều, đồng thời có thêm ham muốn tình dục. Những dấu hiệu này không nên bỏ qua, bởi vì không loại trừ khả năng thời kỳ dễ thụ thai lại xuất hiện đúng lúc không ngờ đến. Người vợ phải đạt được cực khoái khi làm “chuyện ấy”, vì như thế sẽ khiến tử cung co thắt, tạo điều kiện đưa tinh trùng xâm nhập vào tử cung, nâng cao khả năng thụ thai. Vì thế, nhiều khi có sinh hoạt vợ chồng nhưng không có cực khoái thì tinh trùng cũng khó di chuyển vào trong. Sau khi sinh hoạt nên nằm ngửa từ 10 - 15 phút, đồng thời tránh tiếp xúc với các loại hóa chất. Nếu phát hiện có bệnh ở âm đạo thì phải đi khám ngay, vì các căn bệnh về âm đạo cũng sẽ ảnh hưởng đến sự thụ thai.
BS. THU PHƯƠNG (Sức khỏe & Đ

BƠM TINH TRÙNG VÀO BUỒNG TỬ CUNG

go-to-top

Bơm tinh trùng vào buồng tử cung là gì và thực hiện như thế nào ?
Là phương pháp dùng một ống thông nhỏ, bên trong có chứa tinh trùng đã lọc rửa, chọn lọc, đưa qua cổ tử cung và bơm trực tiếp vào buồng tử cung. Quá trình thực hiện rất nhanh (khoảng 2-5 phút) và thường không gây đau đối với người bệnh.
go-to-top

Khi nào IUI là tốt nhất ?
Thời điểm tốt nhất là trước hoặc sau rụng trứng 6 giờ. Thời gian IUI tùy thuộc vào thời điểm cho HCG ( thuốc gây rụng trứng ). IUI thường thực hiện 2 lần sau khi cho HCG 24 và 48 giờ, hoặc 1 lần vào 34-36 giờ.
go-to-top

Tỉ lệ thành công của phương pháp IUI thế nào ?
Nhiều nghiên cứu trên thế giới cho thấy tỉ lệ có thai của phương pháp IUI thay đỗi tùy vào từng trung tâm, khoảng từ 6-26%. Tỉ lệ thành công tùy thuộc vào nhiều yếu tố như : chỉ định điều trị, nguyên nhân vô sinh, số lượng nang noãn, nang noãn càng nhiều thì tỉ lệ thành công càng cao, số lượng tinh trùng di động cao khả năng thành công cao hơn. Riêng tại khoa Hiếm Muộn bệnh viện Phụ sản Từ Dũ, tỉ lệ có thai khi áp dụng phương pháp này là 20%.
go-to-top

Tinh trùng sau lọc rữa có thể sống bao lâu ?
Tinh trùng có thể sống và có khả năng thụ tinh tốt khoảng 24 giờ. Tuy nhiên, có những nghiên cứu cho thấy tinh trúng có thể sống 2-4 ngày trong đường sinh dục nữ.
go-to-top

Có phải nằm sau IUI hay không ?
Nên nằm nghỉ 1 thời gian ngắn sau khi bơm tinh trùng. Thời gian nằm nghỉ sau IUI khoảng 15 phút là đủ.
go-to-top

Có cần nghỉ ngơi những ngày sau IUI không ?
Hầu như không cần, trừ khi bạn cảm thấy căng tức bụng hoặc cảm thấy không khỏe, bạn có thể nghỉ ngơi 1 thời gian. Nhiều bác sĩ khuyên người bệnh nên giảm hoạt động thể thao và tránh làm nặng trong giai đoạn hoàng thể với hy vọng sẽ tăng khả năng có thai, tuy nhiên chưa có nghiên cứu nào chứng minh điều đó là hoàn toàn cần thiết.
go-to-top

Kiêng giao hợp bao lâu trước khi IUI ?
Thời gian kiêng giao hợp tốt nhất là từ 3-5 ngày là khoảng thời gian tốt nhất về khả năng sống và di động của tinh trùng.
go-to-top

Có nên giao hợp sau IUI không ?
Có hay không giao hợp cũng được vì không làm tăng tỉ lệ có thai. Tuy nhiên, nếu bệnh nhân có ra huyết do khi thực hiện thủ thuật thì thường nên đợi khoảng 48 giờ sau hẳn giao hợp .
go-to-top

Tinh trùng có thể chảy ra ngoài sau khi IUI không ?
Nếu cô đặc tinh trùng ở 1 thể tích nhỏ (<0.5ml ) tinh trùng đã được bơm vào trong buồng tử cung thường không chảy ngược ra ngoài. Tuy nhiên, người bệnh có cảm giác ướt ở âm đạo sau khi IUI là có thể do dịch nhầy ở cổ tử cung bị chảy ra ngoài hoặc do nước muối sinh lý dùng lau rửa âm đạo và cổ tử cung.
go-to-top

Tỉ lệ có thai cao nhất khi số nang noãn là bao nhiêu ?
Trung bình số nang noãn lý tưởng để đạt tỉ lệ có thai cao nhất là từ 3-4 nang. Nếu số nang nhiều hơn nữa có thể sẽ tăng tỉ lệ có thai nhưng tỉ lệ đa thai cũng tăng theo.
go-to-top

Có nên IUI khi tinh trùng bình thường không ?
Một số chu kỳ điều trị bằng Clomiphene Citrate sẽ làm giảm chất nhầy ở cổ tử cung. IUI sẽ làm tăng khả năng có thai ở những trường hợp trên. Hơn nữa cũng nên thực hiện IUI ở các cặp vợ chồng không có những bất thường về tinh dịch đồ nhưng đã giao hợp một thời gian dài vẫn không có thai.
go-to-top

Nên IUI mấy lần trước khi chuyển sang IVF
Tùy vào từng trường hợp vô sinh của các cặp vợ chồng, nguyên nhân vô sinh, tuổi người bệnh, cũng như điều kiện kinh tế. Tuy nhiên nếu sau 3 chu kỳ IUI với số lượng nang noãn tốt, chất lượng tinh trùng tốt và kỹ thuật bơm tinh trùng đảm bảo mà vẫn không có thai, thì nên chuyển sang IVF .
go-to-top

Tại sao cần lọc rữa tinh trùng trước khi IUI mà không bơm tinh trùng tươi ?
Lọc rữa tinh trùng nhằm loại bỏ tinh dịch, loại bỏ phần lớn nguy cơ nhiểm trùng. Lựa chọn những tinh trùng tốt trong 1 thể tích nhỏ để IUI. Ngoài ra giúp loại bỏ những tinh trùng chết, phần lớn các chất độc với tinh trùng và tránh nguy cơ sốc phản vệ xảy ra khi bơm tinh dịch vào buồng tử cung .
go-to-top

Có chảy máu sau IUI không ?
Phần lớn là không. Tuy nhiên có nhiều trường hợp ra máu rất ít sau IUI là do quá trình thực hiện, cổ tử cung bị tổn thương hay ở 1 số ít phụ nữ sau khi rụng trứng sẽ gây tình trạng ra huyết nhẹ.
go-to-top

Lấy tinh trùng để IUI như thế nào ?
Có thể lấy tinh trùng bằng tay tại nhà hay trong bệnh viện. Tuy nhiên, nếu lấy tị nhà nên mang đến bệnh viện trong vòng 30-60 phút.
go-to-top

Khi nào biết có thai sau IUI ?
Hai tuần sau IUI nên thử máu hoặc nước tiểu xem có thai hay không. Nếu kết quả cho thấy có thai, người bệnh sẽ được siêu âm 2-3 tuần sau đó để khẳng định chắc chắn có thai hay không .
go-to-top

Hiệu quả của Thuốc tránh thai

Thuốc viên ngừa thai không mang lại nhiều hiệu quả

Một công trình nghiên cứu mới tìm ra rằng những phương pháp kiểm soát sinh sản ngắn hạn nhằm tránh thụ thai ngoài ý muốn, như thuốc viên ngừa thai và miếng dán chống thụ thai, kém hiệu nghiệm hơn nhiều so với những phương pháp ngừa thai dài hạn, như đặt các thiết bị trong tử cung và phương pháp cấy.
Thuốc ngừa thai
Hình: AP
Thuốc ngừa thai
Tại Hoa Kỳ mỗi năm có khoảng 6 triệu vụ thụ thai, và độ phân nửa là ngoài kế hoạch. Gần phân nửa con số những vụ thụ thai ngoài ý muốn là vì thất bại trong ngừa thai, nhất là trong số các cô gái trẻ tuổi sử dụng những phương pháp ngừa thai có tác dụng nhanh. Những cách này gồm có thuốc viên, phải dùng mỗi ngày, và miếng dán hormone, mà phụ nữ cần phải nhớ thay thường xuyên.

Kết quả tìm kiếm đặt cơ sở trên một cuộc nghiên cứu của các khoa học gia thuộc Trường đại học Washington, họ so sánh các phương pháp tác dụng dài hạn với các phương pháp tác dụng ngắn hạn.

Các phương pháp ngừa thai tác dụng lâu gồm thiết bị đặt trong tử cung, hay IUD, và cách cấy để nhả hormone.

Có 2 loại IUD, một loại nhả ra những lượng hormone nhỏ qua một thời gian nhiều năm và loại kia chứa chất đồng khiến tử cung không thể dung dưỡng được các phôi thụ tinh. IUD chứa chất đồng có thể nằm yên tại chỗ cho tới 10 năm. Còn các chất cấy ngay dưới da thì chứa những hormone ngăn tiến trình rụng trứng.

Cả 2 phương pháp IUD và cấy hormone đều phải được một chuyên viên y tế thực hiện.

Cuộc nghiên cứu có sự tham gia của 7.500 phụ nữ từ 14 đến 45 tuổi, đều ở trong thời kỳ sung sức về tình dục hoặc muốn như vậy, nhưng không muốn có thai trong ít nhất là 12 tháng.

Trong thời gian nghiên cứu kéo dài 3 năm, 334 phụ nữ đã thụ thai, trong đó có 156 vụ thụ thai vì ngừa thai không thành công. Trong số những người này, 133 người dùng viên ngừa thai, miếng dán hoặc vòng âm đạo, so với chỉ có 21 người sử dụng kiểu IUD hay cấy hormone trong nhiều năm.

Viện Y Tế Quốc gia Hoa Kỳ ước tính có 150 triệu phụ nữ khắp thế giới sử dụng loại IUD có chất đồng, là kiểu không mắc tiền và dễ gỡ bỏ.

Tin liên hệ

Báo động tình trạng y đức xuống cấp tại Việt Nam

Báo động tình trạng y đức xuống cấp tại Việt Nam

Tình trạng xuống cấp y đức trong đội ngũ y bác sĩ tại Việt Nam là một thực tế đáng báo động, nhan nhản khắp mọi nơi, bị lên án và phản ánh rất nhiều, nhưng chưa có hướng khắc phục. Trong phần đầu cuộc thảo luận bàn về y đức hôm nay, 2 bạn trẻ ở Sài Gòn và Hà Nội cùng 2 y bác sĩ trẻ đang thực tập tại Nhật chia sẻ ghi nhận, cảm nghĩ về thực trạng này và tranh luận về nguyên nhân-kết quả của vấn nạn đau lòng đang tiếp diễn trong xã hội Việt Nam.
patients lay on beds inside Dong Da Hospital in Hanoi,
Hình: ASSOCIATED PRESS
Bệnh nhân tại bệnh viện Đống Đa ở Hà Nội
Bác sĩ Phụng: Tôi là bác sĩ Phụng, công tác tại bệnh viện Nhi đồng 1 TPHCM, hiện đang du học ở Nhật.
Y tá Minh: Tôi là Bình Minh, đang học y tá ở Nhật, qua đây được 6 năm rồi.
Huy Sài Gòn: Tôi là Huy ở Sài Gòn.
Tiến Hà Nội: Tôi là Kim Tiến từ Hà Nội.
Trà Mi: Nói về chất lượng, tiêu chuẩn của đội ngũ y tế ở Việt Nam, gần đây vấn đề y đức của người thầy thuốc là đề tài được bàn cãi và phản ảnh rất nhiều trên các phương tiện truyền thông cả trong lẫn ngoài nước. Từ kinh nghiệm bản thân hay từ ghi nhận của mình, các bạn thấy hình ảnh người thầy thuốc trong xã hội Việt Nam ngày nay như thế nào?
Huy Sài Gòn: Cách đây khoảng 2 tháng mình có mổ ruột thừa. Sáng hôm đó, Trưởng Khoa ngoại của bệnh viện 115 đi khám cho bệnh nhân ở tất cả các phòng. Ông ấy đi nhìn bệnh nhân, cứ nhìn thôi như thể có khả năng cao siêu, chỉ nhìn là biết người ta khỏi bệnh hay không. Ông cứ cho bệnh nhân về. Có một ông cụ đang đặt ống dẫn lưu cũng bị ông trưởng khoa rút ống cho về, không nhấn bụng, không coi cho người ta gì hết. Sau khi rút ống khoảng nửa tiếng sau, ông cụ la đau bụng vì dịch dẫn lưu dẫn ra chưa hết. Lúc đó, y tá, bác sĩ điều trị chạy vô đặt lại ống dẫn lưu cho cụ. Ông cụ bê nguyên bình ống dẫn lưu lên kiếm bác sĩ trưởng khoa thì ông trưởng khoa trốn mất. Đây là một trong những chuyện tôi chứng kiến tận mắt, rất hài hước. Họ coi sinh mạng con người không ra gì hết. Ghi nhận về hiện trạng đang xảy ra ở ngành y tế Việt Nam, tôi thấy họ không còn nhớ tới lời thề Hyppocrates là cái gì nữa hết.
Trà Mi: Huy vừa đưa ra nhận xét của bạn về hình ảnh người thầy thuốc Việt Nam và hai chữ y đức. Mời Tiến.
Tiến Hà Nội: Em cho rằng y đức tại Việt Nam đang xuống cấp trầm trọng. Có những người bác sĩ rất thiếu y đức. Em và gia đình trong một lần bà em nằm viện đã trực tiếp chứng kiến cách cư xử vô văn hóa và thiếu y đức của bác sĩ đối với bệnh nhân. Bà em vào nằm bệnh viện Bạch Mai, khoa miễn dịch lâm sàng. Tiền viện đóng không hề ít, gần 1 triệu đồng/ngày, mà cả ngày mới có 1 người đến xem bệnh. Hôm đó, bà em bị đau bụng dữ dội, nhưng yêu cầu từ sáng mãi đến chiều cũng chỉ được câu trả lời là hiện tại không có bác sĩ nào trực trong ca đó. Em không thể hiểu tại sao trong giờ hành chính mà lại không có một bác sĩ nào trực. Gia đình em đã yêu cầu cho bà em xuất viện ngay trong đêm hôm đó để vào bệnh viện tư. Đi khám ở các bệnh viện tư, cách họ cư xử với bệnh nhân hoàn toàn khác biệt. Bác sĩ ở bệnh viện tư đối xử với bệnh nhân hết sức hòa nhã.
Trà Mi: Tiến nói có sự khác biệt giữa cung cách phục vụ giữa bệnh viện tư-công, nhưng mức tiền bệnh nhân phải chi trả để được sự khác biệt đó chênh lệch thế nào?
Tiến Hà Nội: Số tiền nằm bệnh viện tư 1-2 ngày bằng số tiền vào bệnh viện công nằm 1 tuần. Tuy nhiên, trong thời gian nằm bệnh viện công 1 tuần, bà em bệnh trạng càng nặng hơn và không được sự để ý nhiều.
Trà Mi: Mình vừa ghi nhận ý kiến của Huy và Tiến từ góc cạnh bệnh nhân, những người đã trực tiếp chứng kiến hoặc tiếp nhận sự phục vụ của đội ngũ y bác sĩ ở Việt Nam. Thế ý kiến từ phía những người trong ngành thế nào? Bác sĩ Phụng có cảm nghĩ thế nào trước sự than phiền của bệnh nhân và sự phản ảnh của xã hội đối với ngành y?
Bác sĩ Phụng: Cảnh mà các bạn nói cũng không có gì xa lạ đối với mình. Thật sự mình công tác vừa ở bệnh viện công vừa ở bệnh viện tư, nên mình hiểu được nỗi lòng của bạn. Cũng xót xa lắm chứ, nhưng có một số điều mình cũng muốn nói để bạn thông cảm. Đó là bệnh viện công chỉ chú ý tới vấn đề điều trị bệnh, chứ không chú ý tới vấn đề điều trị con người. Họ chỉ chú ý điều trị tới bệnh lý. Chính vì vậy họ bỏ quên yếu tố con người và điều đó làm bạn bức xúc. Đó là thực tế hiện tại ở Việt Nam.
Y tá Minh: Cho mình góp ý.
Trà Mi: Phụng đồng ý với những thực tế mà bệnh nhân nêu ra. Mời Minh.
Y tá Minh: Mình rất hiểu tâm trạng của bệnh nhân cũng như tâm trạng của bác sĩ. Tuy nhiên, ở Việt Nam bây giờ điều kiện khách quan không cho phép bác sĩ quan tâm tới bệnh nhân nhiều trong bệnh viện công vì sự quá tải. Bệnh nhân cảm thấy bị bỏ rơi vì như ông bác sĩ đó có thể một buổi sáng ông phải đi xem cho cả trăm người bệnh, không thể nào ông dừng lại trao đổi với bệnh nhân. Đó là yếu tố khách quan mình muốn nói tới. Từ phần chữa bệnh cho tới phần nói chuyện với bệnh nhân sao cho phải đạo, chuyện đó làm rất khó. Nhưng còn một yếu tố khách quan nữa, đó là chúng ta chưa có hệ thống để kiểm tra chất lượng bác sĩ. Chúng ta không kiểm soát sản phẩm của mình. Cho nên, vàng thau lẫn lộn. Điều này gây ảnh hưởng tới bệnh nhân rất nhiều. Đúng là y đức đang xuống dốc thật. Nhưng Minh cũng xin nói một ý nữa là về mặt bệnh nhân. Ví dụ như chỉ bị ngã thì không cần phải lên bệnh viện Chợ Rẫy chầu chực cả ngày. Thay vì đó, có thể đọc sách hay tìm ra phương pháp thích hợp với mình hơn. Điều này lại phụ thuộc vào dân trí. Người bác sĩ có thể do hay làm việc trong môi trường đó nên thấy cái gì cũng bình thường hết. Ngược lại, đối với bệnh nhân, cả đời họ mới bị một lần nên cảm thấy chuyện đó là quá sức chịu đựng. Trong khi không có một sự giải thích nào và sự thấu hiểu giữa hai bên thì dẫn tới những chuyện đáng tiếc như vậy.
Tiến Hà Nội: Em không nói từ ví dụ riêng của bản thân mình không mà…
Huy Sài Gòn: Mình cũng biết là áp lực làm việc trong bệnh viện công rất cao, nên mình cũng thông cảm điều đó, nhưng nguyên nhân gây ra là do cả một hệ thống.
Y tá Minh: Đúng rồi.
Huy Sài Gòn: Cả hệ thống tổ chức như thế nào để gây nên sự mất lòng tin của người dân đối với các bệnh viện ở tuyến dưới. Chính điều này tạo nên áp lực đối với các bệnh viện ở tuyến trên. Khi một người làm việc trong áp lực căng thẳng như vậy, đương nhiên họ không thể nào tươi cười trao đổi vui vẻ, thoải mái với bệnh nhân được.
Tiến Hà Nội: Thật ra còn rất nhiều trường hợp khác, nhất là các trường hợp cả bà mẹ lẫn thai nhi bị chết tức tưởi rất là nhiều. Nếu không có phong bì lót tay, bệnh nhân rất ít khi được quan tâm tận tình, chu đáo. Đó là những chuyện đang diễn ra rất nhiều hiện nay ở Việt Nam. Những người nghèo đi bệnh viện bị đối xử một cách bất công. Những người có tiền lại được đối xử một cách khác.
Trà Mi: Ngoài nguyên do từ áp lực công việc, còn nguyên do nào khác khi chúng ta bàn tới vấn đề y đức đang bị xuống cấp hay không?
Y tá Minh: Mình rất khó làm được điều tốt khi không có thời gian. Rất nhiều bệnh viện hiện nay có quá nhiều bác sĩ không tốt trong một bệnh viện thì sẽ thực sự ảnh hưởng tới bệnh nhân.
Trà Mi: Minh nói ‘có quá nhiều bác sĩ không tốt trong một bệnh viện’. Vì sao lại có tình trạng đó?
Y tá Minh: Vì người ta không tuyển bác sĩ dựa vào năng lực. Những bác sĩ giỏi không được vào những chỗ tốt. Ở Việt Nam giờ đào tạo rất đại trà, rất nhiều loại hình bác sĩ khác nhau, nhưng rốt cuộc không ai kiểm tra hết. Qúa trình đào tạo quá lỏng lẻo.
Trà Mi: Một ý nữa đưa ra là do khâu đào tạo. Minh nói có nhiều bác sĩ giỏi không kiếm được chỗ tốt, thế thì họ đi đâu?
Y tá Minh: Còn tùy vào hoàn cảnh của họ, ví dụ họ chọn ngay các bệnh viện tư. Thứ hai, có thể bác sĩ giỏi vẫn làm được ở bệnh viện công nhưng không có cơ hội có tiếng nói trong khoa. Ví dụ bác sĩ giỏi có thể biết điều đó là sai đối với bệnh nhân, nhưng không thể nói được.
Trà Mi: Ý kiến bác sĩ Phụng?
Bác sĩ Phụng: Yếu tố mấu chốt nhất vẫn là yếu tố tâm lý tiếp xúc. Bác sĩ không giải thích triệt để cho bệnh nhân, khiến bệnh nhân thiếu thông tin, gây ra sự mâu thuẫn giữa y bác sĩ với bệnh nhân. Điều này xảy ra ở rất nhiều bệnh viện. Đó là một sự cố tất yếu khi hệ thống y tế bị quá tải, cộng với người dân mất lòng tin vào bác sĩ. Ở Nhật tại sao không có tình trạng này? Vì Nhật không có sự quá tải ở các bệnh viện.
Y tá Minh: Thật ra nói ở Nhật không quá tải cũng không đúng. Đương nhiên nó không quá tải như Việt Nam, nhưng vẫn có những chỗ bị quá tải. Ví dụ ở Nhật, một bệnh nhân khi vào bệnh viện được phát nguyên tập tài liệu cho biết một ca mổ gồm các tiến trình thế nào, ăn uống thế nào, giảm đau thế nào, và sẽ ra viện khi nào. Họ làm cho bệnh nhân có thể hiểu được họ sắp đón nhận cái gì. Trong khi ở Việt Nam, bác sĩ vừa không có thời gian cho bệnh nhân, vừa không cung cấp cho bệnh nhân những thông tin đó, bệnh nhân hoang mang là phải thôi. Mình nghĩ phương pháp duy nhất để cải thiện hiện trạng bây giờ là phải làm tăng sự hiểu biết giữa hai bên. Truyền thông ngay trong bệnh viện, chẳng hạn. Bệnh nhân ngồi chờ trong bệnh viện cả ngày. Mình có thể đặt các kênh TV và phát cho bệnh nhân những tài liệu như vậy.
Tiến Hà Nội: Tiền và vấn nạn phong bì đang khiến cho y đức của bác sĩ bị xuống cấp.
Trà Mi: Yếu tố tiền bạc, lương bổng, và nạn tham nhũng góp phần như thế nào trong vấn nạn xuống cấp y đức tại Việt Nam? Giải pháp nào giúp chấn chỉnh y đức của người thầy thuốc, nâng cao chất lượng phục vụ xã hội? Người trẻ có đề nghị gì giúp thay đổi tình hình? Đó cũng là nội dung phần trao đổi tiếp theo trên Tạp chí Thanh Niên vào giờ này, tuần sau. Mời quý vị đón nghe.
Các bạn nghe đài có quan điểm thế nào về chất lượng phục vụ của đội ngũ y tế trong nước và y đức của người thầy thuốc trong xã hội ngày nay? Xin vui lòng gửi chia sẻ trong mục Ý Kiến ngay bên dưới bài đăng trên Tạp chí Thanh Niên của đài VOA. Tạp chí Thanh Niên nằm trong phần Chuyên mục-Tường trình đặc biệt, trên trang nhà voatiengviet.com. Trà Mi xin chân thành cảm ơn quý vị.

Tin liên hệ

CHĂM SÓC SỨC KHỎE TIỀN SINH SẢN

Chăm sóc sức khỏe tiền sản

Chăm sóc tiền sản là gì?
Chăm sóc tiền sản là chăm sóc bà mẹ trước khi sinh, bao gồm trong lúc mang thai và trước khi mang thai.

Mục đích:
-    Bảo đảm sức khỏe bà mẹ, bảo đảm trẻ ra đời bình thường và khỏe mạnh.
-    Trang bị kiến thức cho các bà mẹ cần làm gì để bản thân và thai nhi phát triển bình thường trong thai kỳ, trong chuyển dạ và sau khi sanh.
-    Những bài tập thể dục giúp bà mẹ nâng cao sức khoẻ trong thai kỳ, trong chuyển dạ.

•    Khóa học “CHUẨN BỊ LÀM  MẸ TRƯỚC SANH” dành cho phụ nữ đang mang thai
-    Thời gian : Thứ tư hàng tuần từ 13g30 đến 16g00
-    Địa điểm: Phòng số 201- lầu 2
-    Điện thoại số: 39559763.
-    Học mỗi tuần 1 buổi, học liên tục trong 6 tuần.
-    Học phí: 20.000đ/ buổi.



CHƯƠNG TRÌNH HỌC
LÝ THUYẾT
BÀI 1:
- Giới thiệu nội dung khóa học
- Những điều nhận biết khi thụ thai và sự phát triển của bào thai.

BÀI 2:
- Những triệu chứng thông thường lúc mang thai.
- Chế độ dinh dưỡng trong thai kỳ - Xem video 1 trường hợp sanh thường.

BÀI 3:
- Tham vấn nuôi con bằng sữa mẹ.
- Thực hành: Cách cho bé bú đúng, Cách vắt sữa bằng tay, Cách cho trẻ ăn bằng cốc.

BÀI 4:
- Thực hành: Tắm bé, Chăm sóc rốn, Cách xếp tã, mặc tã.
- Massage cho bé.

BÀI 5:
- Lịch tiêm ngừa cho bé.
- Các bệnh thường gặp ở bé dưới 1 tuổi.

BÀI 6:
- Hướng dẫn chăm sóc thời kỳ hậu sản.
- Hướng dẫn các phương pháp KHHGĐ

THỰC HÀNH
- Các bài tập thể dục trong thời gian có thai.
- Các kiểu thở áp dụng trong chuyển dạ.
- Các bài tập thể dục phục hồi cơ thể sau sanh.

THAM QUAN PHÒNG SANH