Từ khóa: ra máu ở giai đoạn đầu mang thai, ra máu ở đầu thai kỳ |
|||
|
Phòng Khám Mai dịch Sô 9 Ngách 1, Ngõ 58, Trần vỹ, Cầu Giấy, Hà Nội Đt 0766200777 Phòng khám( Làm việc Từ 8h đến 21h các ngày thứ 2 đến thứ 6 , Thứ 7, Chủ Nhật Làm cả ngày) Đến với phòng khám bạn sẽ được các Bác sỹ đầu nghành chăm sóc, khám bệnh và điều trị với các máy móc hiện đại như , Siêu âm màu 4D, Máy xét nghiệm , Máy điện tim, Nội soi cổ tử cung. Khám các bệnh sản phụ khoa, điều trị vô sinh, Quản lý thai nghén. điều tri các bệnh viêm âm đạo, Viêm lộ tuyến Cổ tử cung.
Thứ Bảy, 5 tháng 5, 2012
Ra máu trong giai đoạn đầu mang thai
Ne0_tergynal va polygynax
Thông tin tư vấn về thuốc điều trị viêm âm đạo | ||
|
Thứ Sáu, 4 tháng 5, 2012
Bệnh nhân chết do xe cấp cứu bị kẹt
n
Cấp cứu tắc đường, bệnh nhân chết oan
Đèn ưu tiên xoay tít, còi rú từng đợt nhưng cuối cùng chiếc xe cứu thương chở bé trai bị xuất huyết não từ Đồng Nai về TP HCM phải dừng hẳn. Phía trước, dòng xe kẹt kéo dài. Khoảng 30 phút sau, bệnh nhân tử vong.
Cái chết của bé giữa tháng 3 vừa qua khiến bố mẹ (đều
là bác sĩ) chỉ còn biết gạt nước mắt đưa con về quê lo hậu sự chứ không
biết đổ lỗi cho ai.
"Biết trách ai đây khi tài xế xe cứu thương đã làm hết
cách; cô y tá trên xe cũng đã cố hết sức. Chỉ tiếc là tại sao con mình
không bị biến chứng ban sáng mà lại trở nặng đúng vào giờ kẹt xe", bố bé
lặng lẽ nói.
Dù đã cố gắng hết sức nhưng vẫn áy náy, anh Hùng - tài
xế của chiếc xe cứu thương chở cháu bé cho biết, nếu không kẹt xe, đoạn
đường ngoài 30 km từ huyện Thống Nhất của Đồng Nai về đến Bệnh viện Nhi
Đồng 2, TP HCM, ước tính chỉ mất khoảng 30-40 phút.
"Hôm đó tại đoạn ngã tư Thủ Đức, xe của tôi đã không
có đường thoát nên đành phải chờ. Cả phụ huynh, y tá lẫn người cầm lái
đều nóng lòng. Sau gần một giờ đồng hồ thoát khỏi điểm kẹt, chưa kịp đến
bệnh viện thì bé đã qua đời", bác tài xế nhớ lại.
Chiều 27/4 trên xa lộ Hà Nội đoạn quận 9, TP HCM, hai xe cấp cứu chở bệnh nhân, một của Bệnh viện đa khoa khu vực Định Quán, một của Bệnh viện đa khoa khu vực Thủ Đức chết cứng giữa dòng tắc đường. Ảnh: Thiên Chương |
Một trường hợp khác, bé trai 3 tuổi ở quận 9 ăn phải
trứng cóc nên ngộ độc. Bệnh nhân nguy kịch, bệnh viện địa phương không
thể cứu chữa nên chuyển về Bệnh viện Nhi Đồng 2. Tuy nhiên đến cầu Sài
Gòn thì bị kẹt xe.
"Khi bé đến được bệnh viện thì đã rơi vào tình trạng
ngưng tim ngưng thở. Dù cố gắng hết sức song chúng tôi vẫn không thể nào
cứu được bé", một bác sĩ cho biết.
Cũng tại khu vực cầu Sài Gòn, nơi thường xuyên xảy ra
kẹt xe ở giờ cao điểm, mới đây chiếc xe cấp cứu chuyển bệnh từ huyện Tân
Phú, Đồng Nai, đã phải loay hoay gần một giờ mới vào được đến Bệnh viện
Nhi Đồng 1. Trên xe là hai bệnh nhi bị ngộ độc trứng cóc. Khi đến bệnh
viện, một trong 2 bé đã qua đời, bé còn lại thoi thóp và theo nhận định
của các bác sĩ, chỉ cần chậm vài phút nữa là không thể cứu sống.
Cùng rơi vào cảnh vừa lo lắng vừa ôm người thân nằm
trên xe cứu thương bất động mà dòng kẹt càng ngày càng kéo dài, chiều
ngày 1/5, chị Hoa nhà ở Tân Thạnh, Long An, uất ức nói: "Nếu không bị
kẹt xe có lẽ em tôi đã không qua đời".
Người phụ nữ kể, em trai của chị bị tai nạn giao thông
chấn thương sọ não, chuyển đến bệnh viện địa phương sơ cứu nhưng do
tình trạng não xuất huyết dưới màng cứng nên được chuyển về Bệnh viện
Chợ Rẫy.
"Thật xui xẻo khi trên đường cấp cứu thì tắc đường, xe
không làm sao qua được. Còn khoảng 20 km nữa đến bệnh viện thì em tôi
đã trút hơi thở cuối cùng", chị Hoa nói.
Có người thân đang điều trị tại khoa Nội Thần kinh,
Bệnh viện Chợ Rẫy, chị Hồ Thị Thu nhà ở Long Thành, Đồng Nai, cũng bức
xúc "bệnh tai biến mạch máu não nguy hiểm, nhưng nếu chiều hôm ấy trên
đường đi cấp cứu không bị kẹt xe thì bố tôi chưa chắc đã bệnh nặng như
thế này". Bố của chị đang phải nằm bất động trên giường bệnh.
Các bác sĩ của khoa cũng thừa nhận, với "thời gian
vàng" cấp cứu của chứng tai biến mạch máu não, nếu nhập viện sớm hơn 30
phút, bệnh nhân đã có thể được can thiệp để không phải sống đời sống
thực vật.
Bác sĩ Nguyễn Trọng Nơi, Phó giám đốc Bệnh viện Nhi
Đồng Đồng Nai thừa nhận, tình trạng xe cấp cứu bị tắc đường ảnh hưởng
đến sức khỏe bệnh nhân không còn lạ hiện nay. Thay vì chỉ mất 45 phút để
đến TP HCM, lắm lúc xe cứu thương của bệnh viện phải mất từ một giờ đến
hai giờ đồng hồ bởi kẹt xe.
"Điều này rất nguy hiểm đối với các bệnh nhân vốn đang
nguy kịch, bởi chỉ có người bệnh tình rất nặng mới được chuyển viện",
ông Nơi nói.
Bác sĩ Trần Vĩnh Hưng, Giám đốc Bệnh viện đa khoa khu
vực Thủ Đức cũng cho biết, hiện tượng kẹt xe cấp cứu vào những giờ cao
điểm là không thể tránh khỏi.
"Chúng tôi đã chữa trị hầu hết các trường hợp cấp cứu,
song với những ca bệnh tim mạch mà bệnh viện chưa có máy chụp can thiệp
mạch máu xóa nền, bệnh nhân buộc phải được chuyển lên tuyến trên. Trong
trường hợp này, thời gian cấp cứu cho người bệnh được tính bằng phút.
Nếu kẹt xe quá lâu thì mất thời gian vàng, ảnh hưởng đến tính mạng bệnh
nhân", bác sĩ Hưng nói.
Nhiều bệnh nhân đến khoa cấp cứu Bệnh viện Chợ Rẫy TP HCM trong tình trạng muộn, một trong những nguyên nhân do kẹt xe. Ảnh minh họa: Thiên Chương. |
Bác sĩ Đoàn Thị Ngọc Diệp, Trưởng khoa Cấp cứu Bệnh
viện Nhi Đồng 2 thì cho rằng, không phải cứ trường hợp nào nhập viện
muộn thì bác sĩ cũng truy hỏi nguyên nhân, nhưng chuyện đến cấp cứu chậm
vì kẹt xe vẫn xảy ra.
Thường xuyên tiếp nhận những ca bệnh nhân chuyển viện
trong tình trạng nguy kịch, bác sĩ Nguyễn Minh Tiến, Phó khoa Hồi sức
cấp cứu chống độc Bệnh viện Nhi Đồng 1 cho hay, bệnh nhân sốt xuất
huyết, tay chân miệng, ngạt nước, rắn cắn, ong đốt, tai nạn giao thông
thuộc nhóm có thể tử vong trên đường cấp cứu nếu bị kẹt xe quá lâu.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, theo bác sĩ Tiến,
vì bệnh nhân có thể ngưng tim ngưng thở do suy hô hấp hoặc các biến
chứng suy gan suy thận cấp. Ngoài ra, trang thiết bị và cán bộ y tế trên
xe cấp cứu cũng không đủ để xử trí nếu sức khỏe bệnh nhân có dấu hiệu
xấu dần.
Nhằm hạn chế tình trạng người bệnh tử vong vì kẹt xe
khi cấp cứu vào giờ cao điểm, theo bác sĩ Tiến, bệnh viện tuyến dưới cần
hội chẩn trước với bệnh viện sẽ tiếp nhận bệnh nhân chuyển đến trước
khi ra y lệnh. Trên đường đi, trên xe cấp cứu cần trang bị thêm bình
ôxy, máy theo dõi nhịp tim. Trong trường hợp bệnh nhân quá nặng, thay vì
điều dưỡng đưa đi thì phải là bác sĩ.
Nói về thực trạng này, hầu hết các bác sĩ tuyến cuối
tại TP HCM đều cho rằng, việc tăng cường trang thiết bị điều trị và nhân
lực cho bệnh viện các tỉnh, bệnh viện cửa ngõ thành phố là điều cần
thiết.
"Việc làm này về lâu dài sẽ giải quyết được tình trạng
bệnh nhân từ tỉnh ngoài cứ phải vào thành phố để cấp cứu. Tăng cường
trang thiết bị và đội ngũ y bác sĩ cho bệnh viện tuyến dưới sẽ giảm bớt
việc chuyển viện cho người bệnh. Người bệnh vừa không gặp nguy hiểm;
bệnh viện tuyến trên lại không rơi vào tình trạng quá tải", một bác sĩ
nó
Bệnh chân tay miệng
BỆNH TAY - CHÂN - MIỆNG
(08/03/2012 )
ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA BỆNH
Bệnh
Tay – chân - miệng là bệnh nhiễm vi rút cấp tính, lây truyền theo đường
tiêu hóa, thường gặp ở trẻ nhỏ và có khả năng gây thành dịch lớn. Bệnh
lây truyền theo đường tiêu hóa và hiện chưa có vắc xin phòng bệnh đặc
hiệu, nên việc mỗi người dân phải tự giác thực hiện các biện pháp vệ
sinh ăn uống, vệ sinh cá nhân, vệ sinh nơi sinh hoạt là việc làm hết sức
cần thiết.
Hầu
hết các ca bệnh đều diễn biến nhẹ. Tuy nhiên ở một số trường hợp, bệnh
có thể diễn biến nặng và gây biến chứng nguy hiểm như viêm não - màng
não, viêm cơ tim, phù phổi cấp dẫn đến tử vong nên cần được phát hiện
sớm, điều trị kịp thời.
Bệnh
lưu hành ở nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Tại nước ta,
bệnh tay chân miệng gặp rải rác quanh năm ở hầu hết các địa phương
trong cả nước, số mắc thường tăng từ tháng 3 đến tháng 5 và từ tháng 9
đến tháng 12.
1. Tác nhân gây bệnh
Bệnh tay chân miệng gây ra do các vi rút thuộc nhóm vi rút đường ruột, trong đó vi rút EV 71 có thể gây các biến chứng nặng và dẫn đến tử vong,
Vi rút có thể tồn tại nhiều ngày ở điều kiện bình thường và nhiều tuần ở nhiệt độ 4oC.
Tia cực tím, nhiệt độ cao, các chất diệt trùng như formaldehyt, các
dung dịch khử trùng có chứa Clo hoạt tính có thể diệt vi rút.
2. Nguồn bệnh, thời kỳ ủ bệnh và thời kỳ lây truyền
*Nguồn bệnh: Là người mắc bệnh, người mang vi rút không triệu chứng.
* Thời kỳ ủ bệnh: Từ 3 đến 7 ngày.
* Thời kỳ lây truyền:
Vài ngày trước khi phát bệnh, mạnh nhất trong tuần đầu của bệnh và có
thể kéo dài vài tuần sau đó, thậm chí sau khi bệnh nhân hết triệu chứng.
Vi rút có khả năng đào thải qua phân trong vòng từ 2 đến 4 tuần, cá
biệt có thể tới 12 tuần sau khi nhiễm. Vi rút cũng tồn tại, nhân lên ở
đường hô hấp trên và đào thải qua dịch tiết từ hầu họng trong vòng 2
tuần. Vi rút cũng có nhiều trong dịch tiết từ các nốt phỏng nước, vết
loét của bệnh nhân.
3. Đường lây truyền
Bệnh tay chân miệng lây truyền qua đường tiêu hoá: nước
uống, bàn tay của trẻ hoặc của người chăm sóc trẻ, các đồ dùng, đặc
biệt là đồ chơi và vật dụng sinh hoạt hàng ngày như chén, bát, đĩa,
thìa, cốc bị nhiễm vi rút từ phân hoặc dịch nốt phỏng, vết loét hoặc
dịch tiết đường hô hấp, nước bọt. Ngoài ra, bệnh cũng có thể lây truyền do tiếp xúc trực tiếp người - người qua các dịch tiết đường hô hấp, hạt nước bọt.
Một số yếu tố có thể làm gia tăng sự lây truyền và bùng phát dịch bao
gồm: mật độ dân số cao, sống chật chội; điều kiện vệ sinh kém; thiếu nhà
vệ sinh; thiếu hoặc không có nước sạch phục vụ cho sinh hoạt hàng ngày.
4. Tính cảm nhiễm
Mọi người đều có thể cảm nhiễm với vi rút gây bệnh nhưng không phải tất cả những người nhiễm vi rút đều có biểu hiện bệnh. Bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi nhưng thường gặp ở trẻ dưới 5 tuổi, đặc biệt ở nhóm dưới 3 tuổi.
5. Các triệu chứng chính và hướng điều trị của bệnh Tay – chân –miệng
Dấu
hiệu đặc trưng của bệnh là sốt, đau họng, tổn thương niêm mạc miệng và
da chủ yếu ở dạng phỏng nước thường thấy ở lòng bàn tay, lòng bàn chân,
đầu gối, mông.
5.1. Điều trị ngoại trú và có theo dõi của y tế cơ sở
Khi bệnh nhân chỉ có các triệu chứng: Loét miệng có thể có hoặc không có kèm theo tổn thương da.
- Dinh dưỡng đầy đủ theo tuổi. Trẻ còn bú cần tiếp tục cho ăn sữa mẹ.
- Hạ sốt khi sốt cao bằng Paracetamol liều 10 mg/kg/lần (uống) mỗi 6 giờ theo hướng dẫn của cán bộ Y tế.
- Vệ sinh răng miệng.
- Nghỉ ngơi, tránh kích thích.
- Tái khám mỗi 1-2 ngày trong 8-10 ngày đầu của bệnh.Trẻ có sốt phải tái khám mỗi ngày cho đến khi hết sốt ít nhất 48 giờ.
* Cần tái khám ngay khi có dấu hiệu sau: Khi phát hiện trẻ có các dấu hiệu sau cần phải đưa ngay trẻ đến cơ sở y tế.
+ Sốt cao ≥ 390C.
+ Thở nhanh, khó thở.
+ Giật mình, lừ đừ, run chi, quấy khóc, bứt rứt khó ngủ, nôn nhiều.
+ Đi loạng choạng.
+ Da nổi vân tím, vã mồ hôi, tay chân lạnh.
+ Co giật, hôn mê.
5.2. Điều trị nội trú tại Bệnh viện
Khi bệnh nhân có các
dấu hiệu chuyển bệnh nặng: sốt, loét miệng, phỏng nước ở lòng bàn tay,
lòng bàn chân, vùng mông, đầu gối đặc biệt kèm theo dấu hiệu thần kinh
hoặc tim mạch như sốt cao, giật mình, lừ đừ, run chi, bứt rứt khó ngủ,
nôn nhiều, rung giật cơ, đi loạng choạng, da nổi vân tím, vã mồ hôi, tay
chân lạnh... cần phải đưa ngay bệnh nhân đến cơ sở Y tế để điều trị kịp
thời.
ĐĐiều tri bệnh nhân theo hướng dẫn tại Quyết định số 2554 /QĐ-BYT ngày 19/7/2011 của Bộ trưởng Bộ Y tế
6. Phòng bệnh
Bệnh Tay - chân - miệng lây truyền theo đường
tiêu hóa và hiện chưa có vắc xin phòng bệnh đặc hiệu, nên việc mỗi
người dân phải tự giác thực hiện các biện pháp vệ sinh ăn uống, vệ sinh
cá nhân, vệ sinh nơi sinh hoạt là việc làm hết sức cần thiết. Thực hiện 3 sạch: ăn (uống) sạch; ở sạch; bàn tay sạch và chơi đồ chơi sạch.
-
Rửa tay thường xuyên bằng xà phòng dưới vòinước chảy nhiều lần trong
ngày (cả người lớn và trẻ em), đặc biệt trước khi chế biến thức ăn,
trước khi ăn/cho trẻ ăn, trước khi bế ẵm trẻ, sau khi đi vệ sinh, sau
khi thay tã và làm vệ sinh cho trẻ.
- Thực hiện tốt vệ sinh ăn uống: ăn chín, uống chín; vật dụng ăn uống phải đảm bảo được rửa sạch sẽ trước khi sử dụng (tốt nhất là ngâm tráng nước sôi);
đảm bảo sử dụng nước sạch trong sinh hoạt hàng ngày; không mớm thức ăn
cho trẻ; không cho trẻ ăn bốc, mút tay, ngậm mút đồ chơi; không cho trẻ
dùng chung khăn ăn, khăn tay, vật dụng ăn uống như cốc, bát, đĩa, thìa,
đồ chơi chưa được khử trùng.
-
Thường xuyên lau sạch các bề mặt, dụng cụ tiếp xúc hàng ngày như đồ
chơi, dụng cụ học tập, tay nắm cửa, tay vịn cầu thang, mặt bàn/ghế, sàn
nhà bằng xà phòng hoặc các chất tẩy rửa thông thường.
- Không cho trẻ tiếp xúc với người bệnh hoặc nghi ngờ mắc bệnh.
- Sử dụng nhà tiêu hợp vệ sinh, phân và các chất thải của bệnh nhân phải được thu gom và đổ vào nhà tiêu hợp vệ sinh.
- Khi phát hiện trẻ có dấu hiệu nghi ngờ mắc bệnh cần đưa trẻ đi khám hoặc thông báo ngay cho cơ quan y tế gần nhất.
- Tổ chức các đội tự quản tại chỗ các tịa các thôn, bản, tổ dân phố (phối hợp ban, ngành, đoàn thể)
để hàng ngày kiểm tra, giám sát việc thực hiện các biện pháp phòng,
chống dịch tại từng hộ gia đình, đặc biệt gia đình bệnh nhân và những
gia đình có trẻ em dưới 5 tuổi.
7. Xử lý phòng chống lây nhiễm
* Nếu bệnh nhân được điều trị tại nhà theo quy định
Người
bệnh được điều trị tại nhà phải được cách ly ít nhất 10 ngày kể từ ngày
khởi phát bệnh. Hướng dẫn người nhà theo dõi bệnh nhân, khi thấy trẻ có
các biểu hiện biến chứng thần kinh hoặc tim mạch như giật mình, rung
giật cơ, đi loạng choạng, ngủ gà, yếu liệt chi, mạch nhanh, sốt cao (≥39,5oC), thì phải đến ngay cơ sở y tế để khám và điều trị kịp thời.
- Đảm bảo có đủ xà phòng rửa tay tại hộ gia đình
- Đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, ăn chín, uống chín.
- Hướng
dẫn hộ gia đình tự theo dõi sức khỏe các thành viên trong gia đình, đặc
biệt trẻ em dưới 5 tuổi, nếu phát hiện các triệu chứng nghi ngờ mắc
bệnhphải thông báo ngay cho cơ quan y tế xử lý, điều trị kịp thời.
- Khuyến
cáo những thành viên trong hộ gia đình bệnh nhân không nên tiếp xúc,
chăm sóc trẻ em khác và không tham gia chế biến thức ăn phục vụ các bữa
ăn tập thể.
* Xử lý tại nhà trẻ, mẫu giáo
- Thực hiện triệt để các biện pháp chung phòng bệnh, theo đúng nguyên tắc 3 sạch.
- Trẻ mắc bệnh không đến lớp ít nhất là 10 ngày kể từ khi khởi bệnh và chỉ đến lớp khi hết loét miệng và các phỏng nước.
- Đảm bảo có đủ xà phòng rửa tay tại từng lớp học.
- Cô
nuôi dậy trẻ/thầy cô giáo cần theo dõi tình trạng sức khỏe cho trẻ hàng
ngày. Khi phát hiện trong lớp, trong trường có trẻ nghi ngờ mắc bệnh
phải thông báo cho gia đình và cán bộ y tế để xử lý kịp thời.
- Tùy
tình hình và mức độ nghiêm trọng của dịch, cơ quan y tế địa phương tham
mưu cho cấp có thẩm quyền tại địa phương quyết định việc đóng cửa lớp
học/trường học/nhà trẻ, mẫu giáo.Thời gian đóng cửa lớp học/trường
học/nhà trẻ, mẫu giáo là 10 ngày kể từ ngày khởi phát của ca bệnh cuối
cùng.
Bệnh tay – chân – miệng là bệnh lây
truyền theo đường tiêu hóa và hiện chưa có vắc xin phòng bệnh đặc hiệu,
nên việc mỗi người dân phải tự giác thực hiện các biện pháp vệ sinh ăn
uống, vệ sinh cá nhân, vệ sinh nơi sinh hoạt là việc làm hết sức cần
thiết để phòng bệnh và tránh lây lan ra cộng đồng.
Nhận biết sớm bệnh chân tay miệng
Chưa năm nào dịch tay chân miệng nóng như năm nay
với hơn 20.000 ca mắc, 56 trường hợp tử vong. Đáng nói, dấu hiệu bệnh
rất điển hình nhưng nhiều người vẫn nhầm với các bệnh có phát ban khác,
nên không theo dõi chặt để kịp thời phát hiện biến chứng.
Vì thế, Bộ Y tế vừa ban hành Hướng dẫn chẩn đoán điều trị bệnh tay chân miệng, áp dụng tại tất cả các cơ sở y tế và cũng hướng dẫn người dân tự theo dõi để phát hiện khi con có dấu hiệu nghi ngờ, kịp thời đưa bé đi khám bệnh và theo dõi nguy cơ biến chứng.
Dưới đây là các dấu hiệu nhận biết, phân biệt bệnh tay chân miệng với các bệnh có biểu hiện loét miệng, các bệnh có phát ban da.
Bệnh tay chân miệng
Bệnh tay chân miệng gặp rải rác quanh năm ở hầu hết các địa phương. Tại các tỉnh phía Nam, bệnh có xu hướng tăng cao vào hai thời điểm từ tháng 3 đến tháng 5 và từ tháng 9 đến tháng 12 hàng năm.
- Loét miệng: vết loét đỏ hay phỏng nước đường kính 2-3mm ở niêm mạc miệng, lợi, lưỡi, gây đau miệng, bỏ ăn, bỏ bú, tăng tiết nước bọt.
- Phát ban dạng phỏng nước: Ở lòng bàn tay, lòng bàn chân, gối, mông; tồn tại trong thời gian ngắn (dưới 7 ngày) sau đó có thể để lại vết thâm, rất hiếm khi loét hay bội nhiễm.
- Ngoài ra trẻ vẫn có sốt nhẹ, nôn. Còn những trẻ sốt cao và nôn nhiều dễ có nguy cơ biến chứng. Biến chứng thần kinh, tim mạch, hô hấp thường xuất hiện sớm từ ngày 2 đến ngày 5 của bệnh.
Giai đoạn lui bệnh: Thường từ 3-5 ngày sau, trẻ hồi phục hoàn toàn nếu không có biến chứng.
Bệnh lây chủ yếu theo đường tiêu hoá. Nguồn lây chính từ nước bọt, phỏng nước và phân của trẻ nhiễm bệnh.
Tuy nhiên, cũng có những trẻ mắc bệnh nhưng không có những dấu hiệu điển hình như trên. Theo đó, dấu hiệu phát ban không rõ ràng hoặc chỉ có loét miệng hoặc chỉ có triệu chứng thần kinh, tim mạch, hô hấp mà không phát ban và loét miệng.
Các bệnh có biểu hiện loét miệng
Viêm loét miệng (áp-tơ) thì vết loét sâu, có dịch tiết, hay tái phát. Ngoài ra ở chân, tay không xuất hiện các nốt phỏng như bệnh tay chân miệng.
Các bệnh có phát ban da
Sốt phát ban biểu hiện là các ban màu hồng xen kẽ ít, dạng sẩn và bệnh nhân thường có hạch sau tai.
Với bệnh dị ứng, toàn thân trẻ nổi ban hồng đa dạng nhưng không có nốt phỏng nước điển hình như tay chân miệng.
Với bệnh viêm da mủ thì các ban đỏ và có mủ đục.
Còn khi phát hiện trẻ bị bệnh tay chân miệng cần đưa trẻ tới cơ sở y tế khám. Trong trường hợp được chỉ định theo dõi tại nhà, cần tái khám mỗi 1-2 ngày trong 8-10 ngày đầu của bệnh.Trẻ có sốt phải tái khám mỗi ngày cho đến khi hết sốt ít nhất 48 giờ.H
Vì thế, Bộ Y tế vừa ban hành Hướng dẫn chẩn đoán điều trị bệnh tay chân miệng, áp dụng tại tất cả các cơ sở y tế và cũng hướng dẫn người dân tự theo dõi để phát hiện khi con có dấu hiệu nghi ngờ, kịp thời đưa bé đi khám bệnh và theo dõi nguy cơ biến chứng.
Dưới đây là các dấu hiệu nhận biết, phân biệt bệnh tay chân miệng với các bệnh có biểu hiện loét miệng, các bệnh có phát ban da.
Bệnh tay chân miệng
Bệnh tay chân miệng gặp rải rác quanh năm ở hầu hết các địa phương. Tại các tỉnh phía Nam, bệnh có xu hướng tăng cao vào hai thời điểm từ tháng 3 đến tháng 5 và từ tháng 9 đến tháng 12 hàng năm.
Giai đoạn ủ bệnh tay chân miệng từ từ 3-7 ngày. Tiếp đến là giai
đoạn khởi phát diễn ra từ 1 – 2 ngày với các triệu chứng như sốt nhẹ,
mệt mỏi, đau họng, biếng ăn, tiêu chảy vài lần trong ngày.
Dấu hiệu điển hình của tay chân miệng là phát ban dạng phỏng nước ở trong miệng, trong lòng bàn tay, lòng bàn chân...
Sau đó đến giai đoạn toàn phát (có thể kéo dài 3-10 ngày) với các triệu chứng điển hình của bệnh:- Loét miệng: vết loét đỏ hay phỏng nước đường kính 2-3mm ở niêm mạc miệng, lợi, lưỡi, gây đau miệng, bỏ ăn, bỏ bú, tăng tiết nước bọt.
- Phát ban dạng phỏng nước: Ở lòng bàn tay, lòng bàn chân, gối, mông; tồn tại trong thời gian ngắn (dưới 7 ngày) sau đó có thể để lại vết thâm, rất hiếm khi loét hay bội nhiễm.
- Ngoài ra trẻ vẫn có sốt nhẹ, nôn. Còn những trẻ sốt cao và nôn nhiều dễ có nguy cơ biến chứng. Biến chứng thần kinh, tim mạch, hô hấp thường xuất hiện sớm từ ngày 2 đến ngày 5 của bệnh.
Giai đoạn lui bệnh: Thường từ 3-5 ngày sau, trẻ hồi phục hoàn toàn nếu không có biến chứng.
Bệnh lây chủ yếu theo đường tiêu hoá. Nguồn lây chính từ nước bọt, phỏng nước và phân của trẻ nhiễm bệnh.
Tuy nhiên, cũng có những trẻ mắc bệnh nhưng không có những dấu hiệu điển hình như trên. Theo đó, dấu hiệu phát ban không rõ ràng hoặc chỉ có loét miệng hoặc chỉ có triệu chứng thần kinh, tim mạch, hô hấp mà không phát ban và loét miệng.
Các bệnh có biểu hiện loét miệng
Viêm loét miệng (áp-tơ) thì vết loét sâu, có dịch tiết, hay tái phát. Ngoài ra ở chân, tay không xuất hiện các nốt phỏng như bệnh tay chân miệng.
Các bệnh có phát ban da
Sốt phát ban biểu hiện là các ban màu hồng xen kẽ ít, dạng sẩn và bệnh nhân thường có hạch sau tai.
Với bệnh dị ứng, toàn thân trẻ nổi ban hồng đa dạng nhưng không có nốt phỏng nước điển hình như tay chân miệng.
Với bệnh viêm da mủ thì các ban đỏ và có mủ đục.
Với bệnh thuỷ đậu, dấu hiệu điển hình là xuất hiện phỏng nước rải
rác toàn thân. Còn với tay chân miệng thì ban phỏng nước xuất hiện chủ
yếu ở lòng bàn tay, lòng bàn chân, mông.
Cũng là ban phỏng nước nhưng thủy đậu thì ban mọc rải rác toàn thân
Với bệnh nhiễm khuẩn huyết do não mô cầu, người bệnh có biểu hiện xuất hiện các mảng xuất huyết hoại tử trung tâm.
Với sốt xuất huyết Dengue, biểu hiện là xuất hiện các chấm xuất huyết, bầm máu, xuất huyết niêm mạc.
Biểu hiện của sốt xuất huyết là các chấm xuất huyết bầm máu
Để phòng bệnh tay chân miệng, cần thường xuyên vệ sinh cá nhân, rửa
tay bằng xà phòng (đặc biệt sau khi thay quần áo, tã, sau khi tiếp xúc
với phân, nước bọt). Đồ chơi, vật dụng trẻ hay cầm nắm của trẻ cần được
thường xuyên rửa sạch với xà phòng, dung dịch diệt khuẩn, phơi khô. Lau
sàn nhà mỗi ngày bằng dung dịch khử khuẩn Cloramin B 2% hoặc các dung
dịch khử khuẩn khác.Còn khi phát hiện trẻ bị bệnh tay chân miệng cần đưa trẻ tới cơ sở y tế khám. Trong trường hợp được chỉ định theo dõi tại nhà, cần tái khám mỗi 1-2 ngày trong 8-10 ngày đầu của bệnh.Trẻ có sốt phải tái khám mỗi ngày cho đến khi hết sốt ít nhất 48 giờ.H
Tiêm Insulin
BỆNH NHÂN ÐÁI THÁO ÐƯỜNG TYPE 2 CẦN TIÊM INSULIN CÓ PHẢI LÀ BỊ BỆNH NẶNG HƠN?
Tác giả : Thạc sĩ NGUYỄN QUANG BẢY (Khoa Nội tiết - ÐTÐ, BV. Bạch Mai)
Nhiều bệnh nhân đái tháo đường (ÐTÐ) type 2 thường có quan niệm sai lầm rằng, nếu họ có thể dùng được các thuốc uống để điều trị ÐTÐ là do bệnh còn nhẹ, nhưng khi phải điều trị bằng tiêm insulin tức là bệnh đã nặng. Vì vậy họ thường rất hoảng hốt, lo sợ khi được bác sĩ chỉ định tiêm insulin để kiểm soát đường máu. Chính sự không hiểu biết đầy đủ hoặc lo lắng quá mức này mà một số người đã không tuân thủ đúng chỉ định của thầy thuốc, làm ảnh hưởng kết quả điều trị, dẫn đến nhiều biến chứng nguy hiểm. Hy vọng bài viết sau đây có thể giúp các bạn hiểu rõ hơn về vai trò, tác dụng và những lợi ích của điều trị insulin ở các bệnh nhân ÐTÐ type 2.
1. Những phương pháp điều trị bệnh ÐTÐ
Trong cơ thể, insulin do tụy sản xuất ra - là chất duy nhất có khả năng làm hạ đường máu. Vì thế bất cứ nguyên nhân gì làm tụy giảm tiết insulin (ÐTÐ type 1) hoặc insulin tụy được tiết ra với số lượng bình thường nhưng chất lượng bị sút kém (hay còn gọi là kháng insulin - gặp trong ÐTÐ type 2) đều làm tăng đường máu. Ðường máu tăng cao là thủ phạm chính gây ra các biến chứng nguy hiểm như suy thận, nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não, mù lòa... Do đó các biện pháp điều trị ÐTÐ đều nhằm mục đích đưa đường máu trở về bình thường. Hiện nay có 4 phương pháp chính được sử dụng đơn thuần hoặc kết hợp với nhau để điều trị bệnh ÐTÐ, đó là:
- Chế độ ăn.
- Tập luyện thể dục thể thao.
- Tiêm insulin. Tùy thời gian tác dụng mà người ta chia ra các loại insulin nhanh, bán chậm, chậm hoặc hỗn hợp (mixtard - trộn lẫn loại tác dụng nhanh và bán chậm).
- Dùng các thuốc uống có tác dụng kích thích tụy sản xuất nhiều hơn insulin (nhóm Sulfamide) hoặc làm tăng tác dụng của insulin (thuốc Metformin và thuốc nhóm Thiazolidinedion).
Ở các bệnh nhân ÐTÐ type 1, tụy gần như không tiết được insulin nữa nên việc điều trị bằng tiêm insulin để khống chế đường máu là bắt buộc. Còn với các bệnh nhân type 2, do tác dụng của insulin bị giảm nên có thể điều trị bằng cách uống các thuốc nêu trên.
2. Khi nào bệnh nhân ÐTÐ type 2 cần phải tiêm insulin?
Ở đa số các bệnh nhân ÐTÐ type 2, dùng các thuốc uống kết hợp với chế độ ăn và tập luyện thể thao có thể giữ đường máu ở mức bình thường trong thời gian dài. Tuy nhiên có một số tình huống bệnh nhân cần được tiêm insulin, đó là:
a. Thường gặp nhất là các bệnh nhân đã được chẩn đoán ÐTÐ lâu (trên 10 năm), sử dụng các thuốc uống kích thích tụy làm việc nhiều hơn để sản xuất được lượng insulin lớn hơn nhằm bù đắp sự thiếu hụt về chất lượng và số lượng insulin (giống như việc bắt một người phải làm việc quá sức mình). Do đó sau một thời gian dài liên tục phải làm việc quá sức, tụy bị suy kiệt nặng chỉ sản xuất được lượng rất ít, thậm chí là mất hẳn khả năng sản xuất insulin nên các thuốc uống, dù với liều tối đa cũng không còn tác dụng nữa. Ðể có thể khống chế được đường máu, bắt buộc phải đưa insulin từ ngoài vào. Thời gian tiêm insulin có thể là 2-3 tháng, trong thời gian này tụy được nghỉ ngơi và phục hồi lại khả năng tiết insulin đủ cho nhu cầu của cơ thể, nhưng cũng có thể cần tiêm kéo dài nhiều năm, có khi là vĩnh viễn nếu tụy đã bị suy kiệt hoàn toàn, nhất là ở những người gầy, người có đường máu tăng cao liên tục trong thời gian dài. Ước tính mỗi năm có khoảng 5% các bệnh nhân ÐTÐ type 2 phải chuyển sang tiêm insulin, nghĩa là sau 10 năm được phát hiện ra bệnh ÐTÐ thì đã có tới 1/2 các bệnh nhân type 2 phải điều trị bằng insulin.
b. Khi bệnh nhân bị mắc một số bệnh cấp tính như nhiễm trùng (viêm phổi, nhiễm trùng bàn chân...) hoặc bị tai biến mạch máu não, nhồi máu cơ tim... Các bệnh này khiến cơ thể cần nhiều insulin hơn nữa (do tác dụng của insulin bị giảm nặng), nên dù vẫn uống thuốc liều như cũ, thậm chí với liều cao hơn cũng không thể ổn định được đường máu. Trong trường hợp này, các bác sĩ sẽ ngừng hoàn toàn các thuốc uống để tiêm insulin, thời gian tiêm insulin phụ thuộc vào kết quả điều trị các bệnh cấp tính mà họ đang mắc, nhưng thường chỉ trong một vài tuần.
c. Nếu bệnh nhân có những biến chứng mạn tính của ÐTÐ như suy gan, suy thận, suy tim nặng hoặc có các bệnh như viêm gan, xơ gan... thì đó là chống chỉ định dùng các thuốc uống làm hạ đường máu. Các bệnh nhân này thường sẽ phải chuyển sang tiêm insulin vĩnh viễn.
Hoặc do bệnh nhân có một số biến chứng nặng khác như biến chứng thần kinh (tê bì hoặc nóng rát), biến chứng mắt (tổn thương đáy mắt nặng), cần đưa đường máu về bình thường trong thời gian ngắn nhằm làm giảm các biến chứng hoặc để can thiệp sớm thì điều trị insulin tạm thời cũng là cần thiết.
d. Có một số bệnh nhân ÐTÐ type 2 được chẩn đoán muộn hoặc do bỏ điều trị thời gian khá dài... có đường máu tăng rất cao (khoảng > 18mmol/l) cũng cần điều trị insulin tạm trời vì đường máu cao trong thời gian dài sẽ ức chế khả năng tiết insulin của tụy, dùng các thuốc uống sẽ không có tác dụng. Nhưng chỉ sau một thời gian ngắn tiêm insulin đưa đường máu về bình thường thì tụy lại đáp ứng với các thuốc uống, và lúc này có thể ngừng tiêm insulin được.
e. Ngoài ra còn phải tiêm insulin cho các bệnh nhân ÐTÐ type 2 trong một số tình huống đặc biệt như khi có thai, khi phẫu thuật, khi bị hôn mê do đường máu tăng quá cao...
3. Cách thức tiêm insulin: Khi cần tiêm insulin, các bệnh nhân ÐTÐ type 2 có thể được chỉ định tiêm 2-3 mũi/ngày, thay thế hoàn toàn các thuốc uống, hoặc chỉ tiêm một mũi vào buổi chiều tối kết hợp và vẫn dùng các thuốc uống vào ban ngày.
a. Chỉ định tiêm insulin 1 mũi cho các bệnh nhân đã được dùng thuốc uống (1 hoặc 2, thậm chí 3 loại) ở liều tối đa mà đường máu vẫn còn cao hơn. Tùy bệnh nhân, các bác sĩ có thể cho tiêm insulin vào trước bữa ăn tối (bằng insulin bán chậm hoặc mixtard) hoặc tiêm trước khi đi ngủ, trong khoảng 21-22 giờ (chỉ sử dụng insulin bán chậm).
b. Chỉ định tiêm insulin 2 hoặc nhiều mũi khi bệnh nhân đã dùng thuốc uống liều tối đa mà đường máu vẫn còn rất cao, hoặc khi bệnh nhân có các chống chỉ định dùng thuốc uống; Khi bệnh nhân đã được cho tiêm một mũi insulin vào buổi tối nhưng vẫn không kiểm soát được đường máu. Có thể sử dụng tất cả các loại insulin nhanh, bán chậm hoặc mixtard.
4. Những lợi ích của việc điều trị insulin cho các bệnh nhân ÐTÐ type 2:
a. Giúp kiểm soát đường máu dễ và nhanh hơn. Tiêm insulin cho phép điều chỉnh liều thuốc đơn giản, dễ dàng, có thể thay đổi liều thuốc từng 2 đơn vị và thay đổi liều mỗi ngày.
b. Nếu đường máu cao trước khi tập thể dục thể thao, lao động hoặc trước khi bắt đầu các hoạt động dã ngoại, việc tiêm một mũi insulin để nhanh chóng đưa đường máu về bình thường sẽ giúp bệnh nhân tránh được nguy cơ bị nhiễm toan cê-tôn hoặc đường máu tăng quá cao sau khi hoạt động thể lực nặng.
c. Ðiều trị an toàn hơn vì insulin có thể dùng được cho tất cả những bệnh nhân ÐTÐ, kể cả khi họ có các biến chứng rất nặng như suy gan, suy thận, nhồi máu cơ tim... hoặc các bệnh nhân cao tuổi.
d. Kéo dài thời gian dùng được các thuốc uống hạ đường máu. Tiêm insulin giúp duy trì khả năng tiết insulin của tụy, đáp ứng lâu dài hơn với các thuốc uống hạ đường máu.
e. Với những bệnh nhân thể trạng gầy, khi tiêm insulin thường có cảm giác ăn ngon miệng hơn nên có thể tăng cân về mức bình thường.
f. Các bệnh nhân điều trị insulin sau một thời gian thường có cảm giác thoải mái, dễ chịu, làn da sáng hơn so với khi điều trị bằng các thuốc uống đơn thuần, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống.
Tóm lại: Ðiều trị insulin là cần thiết cho nhiều bệnh nhân ÐTÐ type 2, có khi là tất yếu trong quá trình diễn biến của bệnh nhưng nó hoàn toàn không đồng nghĩa với việc là bệnh nặng hơn hoặc đã ở giai đoạn cuối - mà chỉ đơn giản là sự thay đổi phương thức điều trị để đạt được kết quả tốt nhất mà thôi. Tuy có khi phải tiêm insulin trong thời gian dài, thậm chí đến cuối đời nhưng cũng có nhiều bệnh nhân chỉ phải tiêm insulin tạm thời trong thời gian ngắn. Việc lấy thuốc và tiêm insulin không phải là quá phức tạp, ngoài ra các loại bút tiêm insulin có thể cũng giúp bạn tiêm được insulin một cách đơn giản và hầu như không đau.
Tác giả : Thạc sĩ NGUYỄN QUANG BẢY (Khoa Nội tiết - ÐTÐ, BV. Bạch Mai)
Nhiều bệnh nhân đái tháo đường (ÐTÐ) type 2 thường có quan niệm sai lầm rằng, nếu họ có thể dùng được các thuốc uống để điều trị ÐTÐ là do bệnh còn nhẹ, nhưng khi phải điều trị bằng tiêm insulin tức là bệnh đã nặng. Vì vậy họ thường rất hoảng hốt, lo sợ khi được bác sĩ chỉ định tiêm insulin để kiểm soát đường máu. Chính sự không hiểu biết đầy đủ hoặc lo lắng quá mức này mà một số người đã không tuân thủ đúng chỉ định của thầy thuốc, làm ảnh hưởng kết quả điều trị, dẫn đến nhiều biến chứng nguy hiểm. Hy vọng bài viết sau đây có thể giúp các bạn hiểu rõ hơn về vai trò, tác dụng và những lợi ích của điều trị insulin ở các bệnh nhân ÐTÐ type 2.
1. Những phương pháp điều trị bệnh ÐTÐ
Trong cơ thể, insulin do tụy sản xuất ra - là chất duy nhất có khả năng làm hạ đường máu. Vì thế bất cứ nguyên nhân gì làm tụy giảm tiết insulin (ÐTÐ type 1) hoặc insulin tụy được tiết ra với số lượng bình thường nhưng chất lượng bị sút kém (hay còn gọi là kháng insulin - gặp trong ÐTÐ type 2) đều làm tăng đường máu. Ðường máu tăng cao là thủ phạm chính gây ra các biến chứng nguy hiểm như suy thận, nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não, mù lòa... Do đó các biện pháp điều trị ÐTÐ đều nhằm mục đích đưa đường máu trở về bình thường. Hiện nay có 4 phương pháp chính được sử dụng đơn thuần hoặc kết hợp với nhau để điều trị bệnh ÐTÐ, đó là:
- Chế độ ăn.
- Tập luyện thể dục thể thao.
- Tiêm insulin. Tùy thời gian tác dụng mà người ta chia ra các loại insulin nhanh, bán chậm, chậm hoặc hỗn hợp (mixtard - trộn lẫn loại tác dụng nhanh và bán chậm).
- Dùng các thuốc uống có tác dụng kích thích tụy sản xuất nhiều hơn insulin (nhóm Sulfamide) hoặc làm tăng tác dụng của insulin (thuốc Metformin và thuốc nhóm Thiazolidinedion).
Ở các bệnh nhân ÐTÐ type 1, tụy gần như không tiết được insulin nữa nên việc điều trị bằng tiêm insulin để khống chế đường máu là bắt buộc. Còn với các bệnh nhân type 2, do tác dụng của insulin bị giảm nên có thể điều trị bằng cách uống các thuốc nêu trên.
2. Khi nào bệnh nhân ÐTÐ type 2 cần phải tiêm insulin?
Ở đa số các bệnh nhân ÐTÐ type 2, dùng các thuốc uống kết hợp với chế độ ăn và tập luyện thể thao có thể giữ đường máu ở mức bình thường trong thời gian dài. Tuy nhiên có một số tình huống bệnh nhân cần được tiêm insulin, đó là:
a. Thường gặp nhất là các bệnh nhân đã được chẩn đoán ÐTÐ lâu (trên 10 năm), sử dụng các thuốc uống kích thích tụy làm việc nhiều hơn để sản xuất được lượng insulin lớn hơn nhằm bù đắp sự thiếu hụt về chất lượng và số lượng insulin (giống như việc bắt một người phải làm việc quá sức mình). Do đó sau một thời gian dài liên tục phải làm việc quá sức, tụy bị suy kiệt nặng chỉ sản xuất được lượng rất ít, thậm chí là mất hẳn khả năng sản xuất insulin nên các thuốc uống, dù với liều tối đa cũng không còn tác dụng nữa. Ðể có thể khống chế được đường máu, bắt buộc phải đưa insulin từ ngoài vào. Thời gian tiêm insulin có thể là 2-3 tháng, trong thời gian này tụy được nghỉ ngơi và phục hồi lại khả năng tiết insulin đủ cho nhu cầu của cơ thể, nhưng cũng có thể cần tiêm kéo dài nhiều năm, có khi là vĩnh viễn nếu tụy đã bị suy kiệt hoàn toàn, nhất là ở những người gầy, người có đường máu tăng cao liên tục trong thời gian dài. Ước tính mỗi năm có khoảng 5% các bệnh nhân ÐTÐ type 2 phải chuyển sang tiêm insulin, nghĩa là sau 10 năm được phát hiện ra bệnh ÐTÐ thì đã có tới 1/2 các bệnh nhân type 2 phải điều trị bằng insulin.
b. Khi bệnh nhân bị mắc một số bệnh cấp tính như nhiễm trùng (viêm phổi, nhiễm trùng bàn chân...) hoặc bị tai biến mạch máu não, nhồi máu cơ tim... Các bệnh này khiến cơ thể cần nhiều insulin hơn nữa (do tác dụng của insulin bị giảm nặng), nên dù vẫn uống thuốc liều như cũ, thậm chí với liều cao hơn cũng không thể ổn định được đường máu. Trong trường hợp này, các bác sĩ sẽ ngừng hoàn toàn các thuốc uống để tiêm insulin, thời gian tiêm insulin phụ thuộc vào kết quả điều trị các bệnh cấp tính mà họ đang mắc, nhưng thường chỉ trong một vài tuần.
c. Nếu bệnh nhân có những biến chứng mạn tính của ÐTÐ như suy gan, suy thận, suy tim nặng hoặc có các bệnh như viêm gan, xơ gan... thì đó là chống chỉ định dùng các thuốc uống làm hạ đường máu. Các bệnh nhân này thường sẽ phải chuyển sang tiêm insulin vĩnh viễn.
Hoặc do bệnh nhân có một số biến chứng nặng khác như biến chứng thần kinh (tê bì hoặc nóng rát), biến chứng mắt (tổn thương đáy mắt nặng), cần đưa đường máu về bình thường trong thời gian ngắn nhằm làm giảm các biến chứng hoặc để can thiệp sớm thì điều trị insulin tạm thời cũng là cần thiết.
d. Có một số bệnh nhân ÐTÐ type 2 được chẩn đoán muộn hoặc do bỏ điều trị thời gian khá dài... có đường máu tăng rất cao (khoảng > 18mmol/l) cũng cần điều trị insulin tạm trời vì đường máu cao trong thời gian dài sẽ ức chế khả năng tiết insulin của tụy, dùng các thuốc uống sẽ không có tác dụng. Nhưng chỉ sau một thời gian ngắn tiêm insulin đưa đường máu về bình thường thì tụy lại đáp ứng với các thuốc uống, và lúc này có thể ngừng tiêm insulin được.
e. Ngoài ra còn phải tiêm insulin cho các bệnh nhân ÐTÐ type 2 trong một số tình huống đặc biệt như khi có thai, khi phẫu thuật, khi bị hôn mê do đường máu tăng quá cao...
3. Cách thức tiêm insulin: Khi cần tiêm insulin, các bệnh nhân ÐTÐ type 2 có thể được chỉ định tiêm 2-3 mũi/ngày, thay thế hoàn toàn các thuốc uống, hoặc chỉ tiêm một mũi vào buổi chiều tối kết hợp và vẫn dùng các thuốc uống vào ban ngày.
a. Chỉ định tiêm insulin 1 mũi cho các bệnh nhân đã được dùng thuốc uống (1 hoặc 2, thậm chí 3 loại) ở liều tối đa mà đường máu vẫn còn cao hơn. Tùy bệnh nhân, các bác sĩ có thể cho tiêm insulin vào trước bữa ăn tối (bằng insulin bán chậm hoặc mixtard) hoặc tiêm trước khi đi ngủ, trong khoảng 21-22 giờ (chỉ sử dụng insulin bán chậm).
b. Chỉ định tiêm insulin 2 hoặc nhiều mũi khi bệnh nhân đã dùng thuốc uống liều tối đa mà đường máu vẫn còn rất cao, hoặc khi bệnh nhân có các chống chỉ định dùng thuốc uống; Khi bệnh nhân đã được cho tiêm một mũi insulin vào buổi tối nhưng vẫn không kiểm soát được đường máu. Có thể sử dụng tất cả các loại insulin nhanh, bán chậm hoặc mixtard.
4. Những lợi ích của việc điều trị insulin cho các bệnh nhân ÐTÐ type 2:
a. Giúp kiểm soát đường máu dễ và nhanh hơn. Tiêm insulin cho phép điều chỉnh liều thuốc đơn giản, dễ dàng, có thể thay đổi liều thuốc từng 2 đơn vị và thay đổi liều mỗi ngày.
b. Nếu đường máu cao trước khi tập thể dục thể thao, lao động hoặc trước khi bắt đầu các hoạt động dã ngoại, việc tiêm một mũi insulin để nhanh chóng đưa đường máu về bình thường sẽ giúp bệnh nhân tránh được nguy cơ bị nhiễm toan cê-tôn hoặc đường máu tăng quá cao sau khi hoạt động thể lực nặng.
c. Ðiều trị an toàn hơn vì insulin có thể dùng được cho tất cả những bệnh nhân ÐTÐ, kể cả khi họ có các biến chứng rất nặng như suy gan, suy thận, nhồi máu cơ tim... hoặc các bệnh nhân cao tuổi.
d. Kéo dài thời gian dùng được các thuốc uống hạ đường máu. Tiêm insulin giúp duy trì khả năng tiết insulin của tụy, đáp ứng lâu dài hơn với các thuốc uống hạ đường máu.
e. Với những bệnh nhân thể trạng gầy, khi tiêm insulin thường có cảm giác ăn ngon miệng hơn nên có thể tăng cân về mức bình thường.
f. Các bệnh nhân điều trị insulin sau một thời gian thường có cảm giác thoải mái, dễ chịu, làn da sáng hơn so với khi điều trị bằng các thuốc uống đơn thuần, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống.
Tóm lại: Ðiều trị insulin là cần thiết cho nhiều bệnh nhân ÐTÐ type 2, có khi là tất yếu trong quá trình diễn biến của bệnh nhưng nó hoàn toàn không đồng nghĩa với việc là bệnh nặng hơn hoặc đã ở giai đoạn cuối - mà chỉ đơn giản là sự thay đổi phương thức điều trị để đạt được kết quả tốt nhất mà thôi. Tuy có khi phải tiêm insulin trong thời gian dài, thậm chí đến cuối đời nhưng cũng có nhiều bệnh nhân chỉ phải tiêm insulin tạm thời trong thời gian ngắn. Việc lấy thuốc và tiêm insulin không phải là quá phức tạp, ngoài ra các loại bút tiêm insulin có thể cũng giúp bạn tiêm được insulin một cách đơn giản và hầu như không đau.
Các nhóm thuốc hạ đường huyết
Các loại dược phẩm làm giảm lượng glucose trong máu được gọi là thuốc trị hạ đường huyết dạng uống.
Để hạ được đường huyết, thuốc có thể tác động vào 1 trong nhiều vùng khác nhau, bao gồm:
Có 2 nhóm : Biguanide và nhóm glithazole
Nhóm Biguanide, chuyển hóa từ hợp chất guanidin trong hoa tử đinh hương Pháp (Galega of fi cinalis). Hoa tử đinh hương Pháp mọc tự nhiên ở Châu Âu và là loại thuốc truyền thống trong điều trị đái tháo đường suốt hàng thế kỷ. Từ khi được phát triển vào thập niên 50 của thế kỷ 20, một số loại thuốc biguanide là phenformin đã bị rút khỏi thị trường vì tác dụng phụ gây nhiễm acid lactic có khả năng gây tử vong. Đáng buồn là ngày nay chúng ta vẫn còn thấy Trung Quốc sản xuất loại thuốc này dưới dạng một cặp 2 chai thuốc bán khắp nơi ở Việt Nam và Campuchia. Ngày nay, hợp chất Metformin của biguanide được dùng rộng rãi trong điều trị các trường hợp bệnh đái tháo đường type 2 kết hợp với thừa cân, béo phì và rối loạn dung nạp glucose. Metformin làm giảm lượng glucose do các tế bào gan sản xuất ra và đồng thời làm tăng độ nhạy insulin trong các tế bào cơ bắp.
Metformin với thương hiệu Glucophage là thuốc được sử dụng lâu nhất, nghiên cứu nhiều nhất trong điều trị đái tháo đường type 2.
Những thương hiệu khác bao gồm:
Glucophage, Riomet, Fortamet, Glumetza, Obimet, Dianben, Diabex, Diaformin
Metformin hoạt động chủ yếu bằng cách làm giảm lượng glucose sản sinh từ tế bào gan, và tăng độ nhạy với insulin cho tế bào cơ bắp. Điều này giúp các tế bào có khả năng đưa đường ra khỏi máu một cách hiệu quả. Metformin cũng làm giảm lượng glucose hấp thụ từ ruột sau bữa ăn.
Các tác dụng phụ thường gặp là chướng bụng, đầy hơi, buồn nôn, co thắt dạ dày và tiêu chảy. Để giảm thiểu những tình trạng trên, nên bắt đầu sử dụng vơi liều lượng thấp rối mới tăng dần qua nhiều tuần lễ.
Uống metformin trong khi hoặc sau bữa ăn có thể giúp giảm các tác dụng phụ. Người trên70 tuổi cần thận trọng khi sử dụng thuốc.
Chống chỉ định với những bệnh nhân có các tổn thương ở gan và thận, vừa lên cơn đau tim. Ngoài ra, chống chỉ định còn áp dụng với những bệnh nhân có vấn đề về lồng ngực và tiền sử các vấn đề về tim vì có thể gặp phải tình trạng thiếu oxy mô.
Những người nghiện bia rượu cũng không được dùng thuốc này. Một tác dụng phụ có thể gây tử vong hiếm gặp là sự nhiễm acid lactic. Tác dụng phụ này hầu hết có thể xảy đên với những bệnh nhân có các vấn đề sức khỏe như đã nêu. Do đó, những bệnh nhân dùng metformin phải tránh uống quá nhiều thức uống có cồn.
Nhóm thiazolidinedione (hay glitazones) hoạt động bằng cách tăng độ nhạy với insulin ở gan, tế bào mỡ và cơ bắp.
Nhóm này có 2 phân nhóm : Pioglithazole và Rosiglithazole.
Mới đây, Rosiglithazole với tên thuốc nổi tiếng là Avandia đã phải ngưng sử dụng vì được chứng minh gây tăng tỷ lệ tử vong thêm 4% trên bệnh nhân có nguy cơ tim mạch.
Chỉ còn Pioglithazole là đang được sử dụng.
Thuốc làm giảm hấp thu carbohydrate
Chất ức chế men alpha-glucosidase
Glucobay, Precose và Prandase
Arcabose làm giảm sự tiêu hóa các chất đường bột, từ đó làm chậm sự hấp thu glucose từ ruột vào máu. Nhờ vậy mà đường huyết không tăng cao một cách quá mức sau khhi ăn.
Vì Arcabose phải xuống ruột ngay khi các chất tinh bột vừa được chuyển đến đó nên thuốc này phải được dùng chung với thực phẩm thì mới đạt hiệu quả.
Tác dụng phụ thường gặp bao gồm:
Đầy hơi : do các chất tinh bột bị chậm hấp thu nên kéo dài thời gian nằm trong đường tiêu hó và bị lên men, sinh ra lượng lớn hơi trong đường ruột. Tiêu chảy cũng là một tác dụng phụ của thuốc.
Để giảm thiểu những tác dụng phụ trên, bệnh nhân nên bắt đầu sử dụng với liều lượng thấp rối mới tăng dần qua nhiều tuần lễ.
Nếu dùng chung với Sulfonylureas, Acarbose có thể làm tăng nguy cơ hạ đường huyết . Trong trường hợp đó, đường hoặc các loại chất ngọt khác sẽ không có tác dụng đảo ngược tình thế vì Acarbose sẽ ngăn sự tiêu hóa bất kỳ một chất đường bột nào trong cơ thể.
Nhóm vừa tăng tiết insulin và vừa giảm sản xuất glucose từ gan:
Staliptin với tên biệt dược là Januvia vừa mới có mặt ở thị trường Việt Nam
Thuốc hạ đường huyết nhờ ức chế men IPP-IV, nhờ đó là tăng ít insulin và giảm tiết glucagon, giúp giảm sản xuất đường từ gan.
Để hạ được đường huyết, thuốc có thể tác động vào 1 trong nhiều vùng khác nhau, bao gồm:
- Tăng tiết insulin
- Tăng nhạy cảm insulin ở mô: gan, cơ, mỡ…
- Giảm hấp thu tinh bột vào máu
- Vừa tăng tiết insulin vừa giảm sản xuất insulin từ gan
- Glibenclamide được Bayer giới thiệu ra thị trường dưới tên gọi Euglucon. Các tên gọi khác của nó là Diabeta, Glynase và Micronase (tại Mỹ); Daonil và Semi Daonil (tại Châu Âu).
- Gliclazide ở thị trường Việt Nam là Diamicron, là thuốc khá phổ biến
- Glimepiride : Nhóm này có đại diện là Amaryl
- Sulfonylureas là tên nhóm chung để chỉ các loại thuốc trên, thuốc
gây hạ đường huyết nhờ kích thích trực tiếp lên sự giải phóng insulin
từ tuyến tụy. Insulin có tác dụng đưa glucose từ máu vào tế bào nên
giảm lượng đường trong máu.
Tác dụng thứ hai của phần lớn các chất sulfonylureas là làm tăng hoạt động của insulin ở mức độ tế bào. - Tác dụng phụ thường gặp là sự tăng cân và hạ đường huyết (hypoglycemia). Các tác dụng phụ khác bao gồm đau đầu, phản ứng da nhẹ, không dung nạp được chất cồn từ nhẹ đến nặng và rối loạn tiêu hóa như táo bón, tiêu chảy, cảm giác đầy bụng, buồn nôn, biếng ăn.
Có 2 nhóm : Biguanide và nhóm glithazole
Nhóm Biguanide, chuyển hóa từ hợp chất guanidin trong hoa tử đinh hương Pháp (Galega of fi cinalis). Hoa tử đinh hương Pháp mọc tự nhiên ở Châu Âu và là loại thuốc truyền thống trong điều trị đái tháo đường suốt hàng thế kỷ. Từ khi được phát triển vào thập niên 50 của thế kỷ 20, một số loại thuốc biguanide là phenformin đã bị rút khỏi thị trường vì tác dụng phụ gây nhiễm acid lactic có khả năng gây tử vong. Đáng buồn là ngày nay chúng ta vẫn còn thấy Trung Quốc sản xuất loại thuốc này dưới dạng một cặp 2 chai thuốc bán khắp nơi ở Việt Nam và Campuchia. Ngày nay, hợp chất Metformin của biguanide được dùng rộng rãi trong điều trị các trường hợp bệnh đái tháo đường type 2 kết hợp với thừa cân, béo phì và rối loạn dung nạp glucose. Metformin làm giảm lượng glucose do các tế bào gan sản xuất ra và đồng thời làm tăng độ nhạy insulin trong các tế bào cơ bắp.
Metformin với thương hiệu Glucophage là thuốc được sử dụng lâu nhất, nghiên cứu nhiều nhất trong điều trị đái tháo đường type 2.
Những thương hiệu khác bao gồm:
Glucophage, Riomet, Fortamet, Glumetza, Obimet, Dianben, Diabex, Diaformin
Metformin hoạt động chủ yếu bằng cách làm giảm lượng glucose sản sinh từ tế bào gan, và tăng độ nhạy với insulin cho tế bào cơ bắp. Điều này giúp các tế bào có khả năng đưa đường ra khỏi máu một cách hiệu quả. Metformin cũng làm giảm lượng glucose hấp thụ từ ruột sau bữa ăn.
Các tác dụng phụ thường gặp là chướng bụng, đầy hơi, buồn nôn, co thắt dạ dày và tiêu chảy. Để giảm thiểu những tình trạng trên, nên bắt đầu sử dụng vơi liều lượng thấp rối mới tăng dần qua nhiều tuần lễ.
Uống metformin trong khi hoặc sau bữa ăn có thể giúp giảm các tác dụng phụ. Người trên70 tuổi cần thận trọng khi sử dụng thuốc.
Chống chỉ định với những bệnh nhân có các tổn thương ở gan và thận, vừa lên cơn đau tim. Ngoài ra, chống chỉ định còn áp dụng với những bệnh nhân có vấn đề về lồng ngực và tiền sử các vấn đề về tim vì có thể gặp phải tình trạng thiếu oxy mô.
Những người nghiện bia rượu cũng không được dùng thuốc này. Một tác dụng phụ có thể gây tử vong hiếm gặp là sự nhiễm acid lactic. Tác dụng phụ này hầu hết có thể xảy đên với những bệnh nhân có các vấn đề sức khỏe như đã nêu. Do đó, những bệnh nhân dùng metformin phải tránh uống quá nhiều thức uống có cồn.
Nhóm thiazolidinedione (hay glitazones) hoạt động bằng cách tăng độ nhạy với insulin ở gan, tế bào mỡ và cơ bắp.
Nhóm này có 2 phân nhóm : Pioglithazole và Rosiglithazole.
Mới đây, Rosiglithazole với tên thuốc nổi tiếng là Avandia đã phải ngưng sử dụng vì được chứng minh gây tăng tỷ lệ tử vong thêm 4% trên bệnh nhân có nguy cơ tim mạch.
Chỉ còn Pioglithazole là đang được sử dụng.
Thuốc làm giảm hấp thu carbohydrate
Chất ức chế men alpha-glucosidase
Glucobay, Precose và Prandase
Arcabose làm giảm sự tiêu hóa các chất đường bột, từ đó làm chậm sự hấp thu glucose từ ruột vào máu. Nhờ vậy mà đường huyết không tăng cao một cách quá mức sau khhi ăn.
Vì Arcabose phải xuống ruột ngay khi các chất tinh bột vừa được chuyển đến đó nên thuốc này phải được dùng chung với thực phẩm thì mới đạt hiệu quả.
Tác dụng phụ thường gặp bao gồm:
Đầy hơi : do các chất tinh bột bị chậm hấp thu nên kéo dài thời gian nằm trong đường tiêu hó và bị lên men, sinh ra lượng lớn hơi trong đường ruột. Tiêu chảy cũng là một tác dụng phụ của thuốc.
Để giảm thiểu những tác dụng phụ trên, bệnh nhân nên bắt đầu sử dụng với liều lượng thấp rối mới tăng dần qua nhiều tuần lễ.
Nếu dùng chung với Sulfonylureas, Acarbose có thể làm tăng nguy cơ hạ đường huyết . Trong trường hợp đó, đường hoặc các loại chất ngọt khác sẽ không có tác dụng đảo ngược tình thế vì Acarbose sẽ ngăn sự tiêu hóa bất kỳ một chất đường bột nào trong cơ thể.
Nhóm vừa tăng tiết insulin và vừa giảm sản xuất glucose từ gan:
Staliptin với tên biệt dược là Januvia vừa mới có mặt ở thị trường Việt Nam
Thuốc hạ đường huyết nhờ ức chế men IPP-IV, nhờ đó là tăng ít insulin và giảm tiết glucagon, giúp giảm sản xuất đường từ gan.
Đọc thêm những bài liên quan...
Sử dụng insulin trong điều trị đái tháo đường type 2
Thuốc hạ đường huyết uống + insulin — Một số bệnh nhân đái tháo đường type 2 chỉ cần uống thuố
Januvia Tên chung: sitagliptin Tên thương mại: Januvia
Trình bày :
Januvia 25 mg - hồng, tròn, viên nén bao phim
Januvia 50 mg - ánh sáng màu be, tròn, viên nén bao phim
Ja
Các
bài thuốc này không được y học chứng minh bằng chứng cứ khoa học. Hãy
thận trong khi áp dụng. Tốt nhất hãy hỏi ý kiến bác sỹ của bạn
Trị đái tháo
Thuốc
uống hạ đường huyết phối hợp với chế độ ăn uống hợp lý và tập thể dục
thường xuyên sẽ giúp kiểm soát lượng đường trong máu ở bệnh nhâ
Tập thể dục ở bệnh nhân tiểu đường
LỢI ÍCH CỦA HOẠT ĐỘNG THỂ LỰC ĐỐI VỚI SỨC KHỎE BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG
Giảm nồng độ đường (glucose) trong máu:
Giảm huyết áp tâm thu và tâm trương từ 5 – 10 mmHg
Hiệu quả rõ hơn ở người cao huyết áp nhẹ và vừa
Đối với cân nặng :
Giảm trọng lượng cơ thể ở người thừa cân hay béo phì do tiêu hao năng lượng
Đối với nguy cơ tim mạch và đột quỵ :
Tăng sức chịu đựng do cơ thể được rèn luyện
Đối với tâm lý – xã hội
CHUẨN BỊ KHỞI ĐẦU HOẠT ĐỘNG THỂ LỰC :
Bất cứ loại hình tập luyện nào mà mình ưa thích
Loại hình đó phù hợp với sức khỏe và tuổi tác.
NƠI TẬP :
Nơi tập có thể ở nhà, công viên, ….
Bằng phẳng, không gồ ghề, lồi lõm.
Nên chọn nơi tập có nhiều người cùng tập.
THỜI ĐIỂM TẬP LUYỆN :
Mọi thời điểm trong ngày.
Phù hợp với nếp sống và sinh hoạt của người tập.
THỜI GIAN TẬP LUYỆN :
Hầu hết các ngày trong tuần ( ít nhất 5 ngày / tuần)
Mỗi lần vận động nên kéo dài ít nhất 30 phút.
Tuy nhiên, nếu quá bận mỗi ngày có thể tập luyện từ 3 - 4 lần, mỗi lần nên tập >10 phút , miễn sao tổng thời gian cho cả ngày trên 45 phút.
CƯỜNG ĐỘ TẬP LUYỆN :
Cường độ vận động ở mức độ trung bình.
Theo nguyên tắc ít → nhiều, nhẹ → nặng.
Tuy nhiên, nếu bạn là vận động viên đã quen tập cường độ cao thì có thể tiếp tục tập luyện ở cường độ cao như củ.
CHẾ ĐỘ LUYỆN TẬP (tốt nhất qua 3 bước)
Bước 1: Khởi động - làm ấm từ 5 – 10 phút
Bước 2: Tập luyện thật sự từ 20 – 45 phút
Bước 3: Thư giãn - thả lỏng từ 5 – 10 phút
Không ngưng tập đột ngột, cần có giai đoạn thư giản
Không vận động ở cường độ cao trong thời gian ngắn
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN LƯU Ý KHI VẬN ĐỘNG
ĐO ĐƯỜNG HUYẾT (trước – trong và sau khi tập)
Nếu đường huyết :
Đường huyết < 100mg/dl (5.5 mmol/l): ăn nhẹ trước khi tập
Đường huyết : 100-250 mg/dl (5.5-14 mmol/l) :tập bình thường
Đường huyết : > 250mg/dl Nên ngưng tập, khám và ổn định đường huyết , hỏi ý kiến bác sỹ.
KHÔNG TẬP THỂ DỤC KHI :
Đối với Đái tháo đường type 1 :
Tăng Đường huyết: >252mg/dl :Hoãn tập
Ceton niệu (+) : cần tiêm insulin và hoãn tập
Hạ Đường huyết :<70mg% =>uống 150ml nước trái cây hay ăn khẩu phần 15mg CARBONHYDRATE ( kẹo, bánh qui, cốc sữa…)
Đối với Đái tháo đường type 2 :
Tăng đường huyết : >252mg/dl :Hoãn tập
Hạ đường huyết :<70mg/dl =>uống 150ml nước trái cây hay ăn khẩu phần 15mg Carbonhydrate .Ngừng tập và xử trí hạ đường huyết
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LƯU Ý KHI TẬP LUYỆN :
CHẾ ĐỘ ĂN
Nên ăn trước khi tập từ 60-90 phút.
Nên mang theo thức ăn có đường hấp thu nhanh như : Kẹo, bánh, đường…đề phòng hạ đường huyết.
Nên ăn thêm 10-20 gam bột đường mỗi 30 phút vận động nếu vận động cường độ cao và kéo dài
Nên uống đủ nước trước - trong và sau khi tập.
THUỐC :
Nếu đang dùng thuốc hạ đường huyết, cần điều chỉnh giảm liều, dựa trên kết quả đo đường huyết.
Nếu có sử dụng insulin, nên tiêm insulin trước khi tập ≥ 60 phút.
Giảm nồng độ đường (glucose) trong máu:
- Tăng tiêu thụ glucose để cung cấp năng lượng
- Giảm đề kháng insulin
- Giảm sản xuất glucose từ gan
- Giảm nhu cầu sử dụng insulin
Giảm huyết áp tâm thu và tâm trương từ 5 – 10 mmHg
Hiệu quả rõ hơn ở người cao huyết áp nhẹ và vừa
Đối với cân nặng :
Giảm trọng lượng cơ thể ở người thừa cân hay béo phì do tiêu hao năng lượng
Đối với nguy cơ tim mạch và đột quỵ :
- Giảm triglyceride
- Tăng cholesterol tốt (HDL)
- Giảm cân
- Giảm huyết áp
Tăng sức chịu đựng do cơ thể được rèn luyện
Đối với tâm lý – xã hội
- Giảm lo âu, trầm cảm
- Giảm stress
- Cải thiện giấc ngủ
- Giao tiếp xã hội tốt
- Làm việc và giải trí tốt
CHUẨN BỊ KHỞI ĐẦU HOẠT ĐỘNG THỂ LỰC :
- Chọn trang phục, giày dép phù hợp :
- Đúng kích cỡ, vừa chân, đi đứng thỏai mái
- Mềm, êm, che chắn, bảo vệ ngón và gót chân
- Mặt trong giày trơn, láng, không lồi lõm
- Nên mang vớ đủ ẩm, hút mồ hôi
- Nên mua giày vào buổi chiều
Bất cứ loại hình tập luyện nào mà mình ưa thích
Loại hình đó phù hợp với sức khỏe và tuổi tác.
NƠI TẬP :
Nơi tập có thể ở nhà, công viên, ….
Bằng phẳng, không gồ ghề, lồi lõm.
Nên chọn nơi tập có nhiều người cùng tập.
THỜI ĐIỂM TẬP LUYỆN :
Mọi thời điểm trong ngày.
Phù hợp với nếp sống và sinh hoạt của người tập.
THỜI GIAN TẬP LUYỆN :
Hầu hết các ngày trong tuần ( ít nhất 5 ngày / tuần)
Mỗi lần vận động nên kéo dài ít nhất 30 phút.
Tuy nhiên, nếu quá bận mỗi ngày có thể tập luyện từ 3 - 4 lần, mỗi lần nên tập >10 phút , miễn sao tổng thời gian cho cả ngày trên 45 phút.
CƯỜNG ĐỘ TẬP LUYỆN :
Cường độ vận động ở mức độ trung bình.
Theo nguyên tắc ít → nhiều, nhẹ → nặng.
Tuy nhiên, nếu bạn là vận động viên đã quen tập cường độ cao thì có thể tiếp tục tập luyện ở cường độ cao như củ.
CHẾ ĐỘ LUYỆN TẬP (tốt nhất qua 3 bước)
Bước 1: Khởi động - làm ấm từ 5 – 10 phút
Bước 2: Tập luyện thật sự từ 20 – 45 phút
Bước 3: Thư giãn - thả lỏng từ 5 – 10 phút
Không ngưng tập đột ngột, cần có giai đoạn thư giản
Không vận động ở cường độ cao trong thời gian ngắn
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN LƯU Ý KHI VẬN ĐỘNG
ĐO ĐƯỜNG HUYẾT (trước – trong và sau khi tập)
Nếu đường huyết :
Đường huyết < 100mg/dl (5.5 mmol/l): ăn nhẹ trước khi tập
Đường huyết : 100-250 mg/dl (5.5-14 mmol/l) :tập bình thường
Đường huyết : > 250mg/dl Nên ngưng tập, khám và ổn định đường huyết , hỏi ý kiến bác sỹ.
KHÔNG TẬP THỂ DỤC KHI :
Đối với Đái tháo đường type 1 :
Tăng Đường huyết: >252mg/dl :Hoãn tập
Ceton niệu (+) : cần tiêm insulin và hoãn tập
Hạ Đường huyết :<70mg% =>uống 150ml nước trái cây hay ăn khẩu phần 15mg CARBONHYDRATE ( kẹo, bánh qui, cốc sữa…)
Đối với Đái tháo đường type 2 :
Tăng đường huyết : >252mg/dl :Hoãn tập
Hạ đường huyết :<70mg/dl =>uống 150ml nước trái cây hay ăn khẩu phần 15mg Carbonhydrate .Ngừng tập và xử trí hạ đường huyết
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LƯU Ý KHI TẬP LUYỆN :
CHẾ ĐỘ ĂN
Nên ăn trước khi tập từ 60-90 phút.
Nên mang theo thức ăn có đường hấp thu nhanh như : Kẹo, bánh, đường…đề phòng hạ đường huyết.
Nên ăn thêm 10-20 gam bột đường mỗi 30 phút vận động nếu vận động cường độ cao và kéo dài
Nên uống đủ nước trước - trong và sau khi tập.
THUỐC :
Nếu đang dùng thuốc hạ đường huyết, cần điều chỉnh giảm liều, dựa trên kết quả đo đường huyết.
Nếu có sử dụng insulin, nên tiêm insulin trước khi tập ≥ 60 phút.
Dành cho quảng cáo
Chế độ ăn cho bệnh nhân tiểu đường
Viết bởi Bs. Ngô Thế Phi.
MỤC TIÊU DINH DƯỠNG- Đưa nồng độ Glucose trong máu về bình thường
- Huyết áp bình thường
- Lipide máu bình thường
- Cân nặng hợp lý
- Nâng cao toàn bộ sức khỏe
- Tinh bột :6-11 suất
- Trái cây: 2-4 suất
- Rau: 3-5 suất
- Thịt: 2-3 suất
- Sữa và chế phẩm từ sữa: 1-2 suất
- Mỡ và đường: hạn chế
- Gạo,
- Bột mì,
- Bắp
- Khoai củ,
- Đậu…
TINH BỘT TỐT : Cung cấp nhu cầu Carbonhydrate cơ bản cho cơ thể, chứa nhiều vitamin và khoáng chất
Trái cây (Nên ăn trái cây hơn là uống nước trái cây )
Rau, đậu
Ngũ cốc
TINH BỘT KHÔNG TỐT:
- Làm tăng cao Đường trong máu rất nhanh
- Đường tinh luyện
- Đậu trắng
- Bánh kẹo, nước ngọt
- Soda, nước uống nhiều đường,rượu
Mỗi ngày bệnh nhân Đái Tháo Đường nên ăn khoảng 6 suất tinh bột:
1suất tinh bột (100cal) :
- Gạo 30g
- Bún 89g
- Bánh đúc 189g
- Bánh mì 40g
- Mì gói 25g
- Khoai lang 90g
- Khoai môn 90g
- Khoai tây 106g
- Bắp tươi 50g
- Nui (khô) 29g
Cung cấp đạm cho cơ thể, có 2 nhóm : đạm động vật và đạm thực vật
Đạm động vật: có trong
- Thịt đỏ : heo,bò, dê , cừu
- Thịt trắng :cá, thịt gà bỏ da, thức ăn biển
- Trứng...
- Hạt, đậu,đậu nành, đậu hủ
- Dầu thực vật không có mỡ bão hòa (không cholesterol)
- Một suất là: 28gram thịt ,cá, gà, vịt hay phômai
- ½ chén đậu Hàlan
- Tàu hủ 46g
- Thịt bò nạc 25g
- Trứng gà 38g
- Tàu hủ ky 10g
- Cá lóc 27g
- Cá thác lác 28g
- Cá thu 20g
- Cua 29g
Mục tiêu = 10 – 35 grams/ngày
Chức năng:
- Giúp giãm táo bón
- Giúp giãm cân.
- Giãm khả năng ung thư ruột kết
- Giữ đường huyết ổn định
- Giảm sản xuất cholesterol ở gan, làm giảm cholesterol trong máu
- Giảm nguy cơ tai biến mạch máu não và bệnh lý mạch vành
Dạng hòa tan: Rau,trái cây,đậu
Kiễm soát đường huyết và lipid máu
Dạng không hòa tan: ngũ cốc…
Tốt cho đường ruột
RAU CẢI : Nên ăn 3-5 suất mỗi ngày
Một suất là:
- 1 chén rau sống
- ½ chén rau nấu chín
- ½ chén rau xay nhuyễn
Mỗi ngày nên ăn 2-4 suất trái cây
Một suất trái cây :
- 1 trái táo nhỏ, cam, chuối
- 1 trái đào trung bình
- Nước ép : 1/3-1/2 chén
- ½ trái chuối lớn
- 4-5 trái chôm chôm
- 1 trái mận
- 4 trái măng cụt
- 1 trái ổi nhỏ
- Chanh, cam : 116g
- Đu đủ chín : 114g
- Cóc : 111g
- Vải : 109g
- Táo, lê : 106g
- Mít, nhãn : 102g
- Mãng cầu : 85g
- Sapoche : 82g
- Xòai : 80g
- Na : 76g
- Chuối :50 - 75g
Cung cấp nhiều năng lượng và acid amin thiết yếu cho cơ thể
Mỡ tốt :nên được sử dụng
Mỡ đơn không bão hòa:
- Hạt
- Dầu Olive
- Dầu dừa
- Dầu hướng dương
- Dầu bắp
- Đậu nành
- Omega 3 and 6
- Omega-3 and Omega-6 Fatty Acids
Mỡ tốt có nhiều trong: Cá (cá hồi, cá ngừ ,cá tuyết),đậu nành…
Mỡ xấu : Nên hạn chế sử dụng
Thịt đỏ : bò heo, dê…
Trứng
Bơ
Sản phẩm từ sữa
Mỡ heo
Dầu cọ
Thức ăn chiên
NHÓM SỮA
Nên uống khoảng 1-2 suất sữa mỗi ngày, nên dùng sữa dành cho bệnh nhân Đái Tháo Đường, tuy nhiên sữa dành cho bệnh nhân cũng có khả năng tăng đường huyết nếu uống nhiều. Bệnh nhân không nên uống sữa vào buổi tối, vì sẽ làm tăng đường huyết vào buổi sáng.
1 SUẤT SỮA:
Mỗi suất sữa là 1 chén (250ml),
loại đun hay đậm đặc : ½ chén
loại sữa bột không béo : 1/3 chén
Yaourt : 1 chén
RƯỢU BIA
Giới hạn lượng cồn đưa vào không nhiều hơn 1-2 lượng chuẩn mỗi ngày
1 lượng chuẩn : 285 ml bia, 375 ml bia nhẹ, 100ml rượu (vang, champagne), 30ml rượu mạnh (rượu đế, whisky, scott…)
30ml = 1 chung rượu
Uống nhiều bia sẽ làm đường huyết tăng cao khó kiểm soát. Bệnh nhân, đặc biệt là nam giới nên bỏ rượu bia.
MUỐI
Giới hạn muối ăn vào ít hơn 6g mỗi ngày, đặc biệt bệnh nhân có tăng huyết áp
Giới hạn thức ăn có nhiều muối như thức ăn chế biến sẵn(mì gói, thịt đóng hộp…)
TỈ LỆ CÁC NHÓM THỨC ĂN TRONG MỔI BỮA ĂN
¼ là tinh bột
¼ là thịt, cá, gà, .hay thịt thay thế
½ là rau không có tinh bột
Còn lại là 1 ít sữa và trái cây
KHUYẾN CÁO CHẾ ĐỘ ĂN CHO BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG
- Ăn chế độ ăn ít mỡ bão hòa và mỡ toàn phần.
- Hạn chế muối , đường
- Ăn hơn 5 suất trái cây và rau mỗi ngày
- Chọn thức ăn giàu hạt nguyên (gạo lức…)
- Hạn chế sử dụng rượu bia
- Sự hằng định trong chế độ ăn có thể giúp kiểm soát đường huyết và cân nặng
- Các bữa ăn nhỏ có thể làm giảm sự dao động đường huyết tuy nhiên ăn thường xuyên có thể dẩn tới dư năng lượng, tăng đường huyết và tăng cân
- Đưa bữa ăn phụ vào chế độ ăn nên tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể
Xem video về chế độ dinh dưỡng
Video hướng dẫn chế độ ăn cho bệnh nhân đái tháo đường.
Đọc thêm những bài liên quan...
Tải lượng đường huyết là số tính dựa vào chỉ số đường huyết x lượng carbohydrate có trong thức ăn.
Công thức : Tải lượng đường huyết = (chỉ số �
Mục
tiêu: 1. Đưa mức đường huyết về càng gần bình thường càng tốt. 2. Bảo
vệ tim mạch, kiểm soát huyết áp, chống lại các loại chất béo có hại cho
t
Chỉ số đường huyết
Người bị đái tháo đường thường được khuyến cáo nên giới hạn tỷ lệ các chất đường bột (carbohydrate) như cơm trong khoảng 25%
Ăn quá nhiều đường sẽ bị đái tháo đường ( tiểu đường) ?
Rất nhiều người nghĩ rằng : ăn quá nhiều đường hay thức ăn ngọt sẽ bị tiểu đường (
Biến chứng thần kinh thực vật
Một biến chứng thường gặp trên nam giới của bệnh đái tháo đường type 2 là rối loạn chức năng cương dương.
Thế nào là Rối loạn cương dương?
Rối loạn cương dương là tình trạng không có khả năng đạt được hoặc duy trì sự cương cứng của dương vật đủ để giao hợp. Rối loạn cương dương, còn được gọi là bất lực, không phải là tình trạng thất bại trong hoạt động tình dục thoáng qua mà ở một số thời điểm trong cuộc sống do nhiều nguyên nhân như uống rượu quá nhiều, stress….
Nếu dương vật không thể đạt được hay duy trì tình trạng cương cứng hơn 75% thời gian trong khi tìm cách quan hệ tình dục thì được gọi là rối loạn cương dương.
Rối loạn cương dương cũng không phải là tình trạng giảm ham muốn tình dục hoặc các rắc rối gặp phải khi xuất tinh và cực khoái.
Nếu không điều trị, rối loạn cương dương có thể tạo ra căng thẳng cho cả 2 vợ chồng . Rất nhiều người đàn ông bị rối loạn cương dương trở nên trầm cảm nghiêm trọng và có thể ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực khác trong cuộc sống của họ, bao gồm cả sức khỏe , công việc, cuộc sống...
Rối loạn cương dương và bệnh Đái tháo đường
Bất kỳ đấng nam nhi nào cũng có thể bị rối loạn cương dương. Tuy nhiên, bệnh nhân đái tháo đường chiếm tỉ lệ cao hơn:
Ước tính có đến 80% nam giới mắc bệnh đái tháo đường trên toàn thế giới bị rối loạn cương dương, so với khoảng 22-25% nam giới không có bệnh đái tháo đường. Tỷ lệ chính xác là rất khó để ước tính vì nhiều người đàn ông quá xấu hổ để thừa nhận bản lĩnh đàn ông của mình không còn bản lĩnh hay không nói chuyện với bác sĩ về vấn đề này.
Rối loạn cương dương thường xuyên gặp sau tuổi 65. Ở nam giới mắc bệnh đái tháo đường, Rối loạn cương dương có xu hướng xảy ra sớm hơn, khoảng 10 hoặc 15 năm so với người bình thường.
Bệnh nhân đái tháo đường ở độ tuổi 30 hay trẻ hơn cũng có thể bị rối loạn cương dương
Nguyên nhân
Liệt dương có thể do nhiều nguyên nhân, cả về thể chất và tâm lý.
Khi bị đái tháo đường, các yếu tố nguy cơ chính của rối loạn cương dương là:
Đối với nam giới bị đái tháo đường, chức năng tình dục bình thường có thể bị rối loạn vì những nguyên nhân liên quan đến tổn thương thần kinh và mạch máu.
Bệnh đái tháo đường có thể gây tổn thương hệ thống dây thần kinh khắp cơ thể, bao gồm cả dương vật. Do vậy, ngay cả khi có kích thích và ham muốn tình dục nhưng tín hiệu thần kinh vẫn không truyền tới dương vật được. ( gọi là trên bảo dưới không nghe) .
Thêm vào đó, bệnh nhân đái tháo đường không được kiểm soát đường huyết tốt, có thể ức chế sản xuất nitric oxide. Do thiếu nitric oxide, áp lực máu trong thể hang không tăng lên đủ mạnh để đóng các tĩnh mạch dương vật, làm cho máu thoát ra khỏi thể hang và không duy trì sự cương cứng được.
Quá trình xơ vữa động mạch, một bệnh lý rất thường gặp cùng với bệnh đái tháo đường, có thể gây hẹp động mạch cung cấp máu cho dương vật, gây ra rối loạn cương dương.
Làm thế nào để điều trị rối loạn cương dương
Bác sĩ sẽ xác định xem Rối loạn cương dươnglà kết quả của bệnh đái tháo đường hay là do bệnh khác gây nên .
Tuy nhiên, khi uống rượu quá nhiều - hơn hai ly một ngày - có thể làm tổn thương các mạch máu của và làm trầm trọng thêm mức độ rối loạn cương dương.
Stress có thể làm giảm khả năng ham muốn tình dục và sự cương cứng .
Giải quyết công việc và sắp xếp thư giãn, chọn những phương pháp hữu hiệu như thiền hoặc yoga ….
Nói chuyện với bác sĩ của bạn để tìm xem nguyên nhân gây stress, khi giải quyết vấn đề stress ổn thỏa, tình hình sẽ khá hơn. Đoi khi bạn cần phải khám chuyên khoa tâm thần nếu stress quá lâu và phức tạp.
Đi bộ hàng ngày là phương pháp hiệu quả và dễ thực hiện
Đôi khi những thuốc này cũng không hiệu quả trong việc điều trị rối loạn cương dương trên bệnh nhân đái tháo đường, cần phối hợp thêm những thuốc khác.
Khám chuyên khoa Nội tiết để được tư vấn và điều trị. Phòng khám Tiểu đường
Thế nào là Rối loạn cương dương?
Rối loạn cương dương là tình trạng không có khả năng đạt được hoặc duy trì sự cương cứng của dương vật đủ để giao hợp. Rối loạn cương dương, còn được gọi là bất lực, không phải là tình trạng thất bại trong hoạt động tình dục thoáng qua mà ở một số thời điểm trong cuộc sống do nhiều nguyên nhân như uống rượu quá nhiều, stress….
Nếu dương vật không thể đạt được hay duy trì tình trạng cương cứng hơn 75% thời gian trong khi tìm cách quan hệ tình dục thì được gọi là rối loạn cương dương.
Rối loạn cương dương cũng không phải là tình trạng giảm ham muốn tình dục hoặc các rắc rối gặp phải khi xuất tinh và cực khoái.
Nếu không điều trị, rối loạn cương dương có thể tạo ra căng thẳng cho cả 2 vợ chồng . Rất nhiều người đàn ông bị rối loạn cương dương trở nên trầm cảm nghiêm trọng và có thể ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực khác trong cuộc sống của họ, bao gồm cả sức khỏe , công việc, cuộc sống...
Rối loạn cương dương và bệnh Đái tháo đường
Bất kỳ đấng nam nhi nào cũng có thể bị rối loạn cương dương. Tuy nhiên, bệnh nhân đái tháo đường chiếm tỉ lệ cao hơn:
Ước tính có đến 80% nam giới mắc bệnh đái tháo đường trên toàn thế giới bị rối loạn cương dương, so với khoảng 22-25% nam giới không có bệnh đái tháo đường. Tỷ lệ chính xác là rất khó để ước tính vì nhiều người đàn ông quá xấu hổ để thừa nhận bản lĩnh đàn ông của mình không còn bản lĩnh hay không nói chuyện với bác sĩ về vấn đề này.
Rối loạn cương dương thường xuyên gặp sau tuổi 65. Ở nam giới mắc bệnh đái tháo đường, Rối loạn cương dương có xu hướng xảy ra sớm hơn, khoảng 10 hoặc 15 năm so với người bình thường.
Bệnh nhân đái tháo đường ở độ tuổi 30 hay trẻ hơn cũng có thể bị rối loạn cương dương
Nguyên nhân
Liệt dương có thể do nhiều nguyên nhân, cả về thể chất và tâm lý.
- Đường huyết tăng cao gây tổn thương cả mạch máu và thần kinh chi phối cơ quan sinh dục gây nên rối loạn cương dương
- Những bệnh lý khác như bệnh tim, gan, phẫu thuật hay chấn thương cũng có thể gây ra rối loạn cương dương .
- Trầm cảm, căng thẳng và lo lắng quá nhiều về hoạt động tình dục đều có thể can thiệp vào chức năng cương cứng bình thường, cho dù bạn bị bệnh đái tháo đường hay không.
- Thuốc: Một số thuốc ,ví dụ như thuốc điều trị tăng huyết áp, có thể gây ra rối loạn cương dương tạm thời.
Khi bị đái tháo đường, các yếu tố nguy cơ chính của rối loạn cương dương là:
- Biến chứng thần kinh ngoại biên
- Biến chứng mạch máu
- Đường huyết không được kiểm soát tốt.
Đối với nam giới bị đái tháo đường, chức năng tình dục bình thường có thể bị rối loạn vì những nguyên nhân liên quan đến tổn thương thần kinh và mạch máu.
Bệnh đái tháo đường có thể gây tổn thương hệ thống dây thần kinh khắp cơ thể, bao gồm cả dương vật. Do vậy, ngay cả khi có kích thích và ham muốn tình dục nhưng tín hiệu thần kinh vẫn không truyền tới dương vật được. ( gọi là trên bảo dưới không nghe) .
Thêm vào đó, bệnh nhân đái tháo đường không được kiểm soát đường huyết tốt, có thể ức chế sản xuất nitric oxide. Do thiếu nitric oxide, áp lực máu trong thể hang không tăng lên đủ mạnh để đóng các tĩnh mạch dương vật, làm cho máu thoát ra khỏi thể hang và không duy trì sự cương cứng được.
Quá trình xơ vữa động mạch, một bệnh lý rất thường gặp cùng với bệnh đái tháo đường, có thể gây hẹp động mạch cung cấp máu cho dương vật, gây ra rối loạn cương dương.
Làm thế nào để điều trị rối loạn cương dương
- Kiểm soát đường huyết
- Nói chuyện với bác sĩ của bạn.
Bác sĩ sẽ xác định xem Rối loạn cương dươnglà kết quả của bệnh đái tháo đường hay là do bệnh khác gây nên .
- Tránh thuốc lá.
- Tránh uống quá nhiều rượu.
Tuy nhiên, khi uống rượu quá nhiều - hơn hai ly một ngày - có thể làm tổn thương các mạch máu của và làm trầm trọng thêm mức độ rối loạn cương dương.
- Khám chuyên khoa : Nam khoa.
- Điều trị nguyên nhân đưa đến lo âu căng thẳng.
Stress có thể làm giảm khả năng ham muốn tình dục và sự cương cứng .
Giải quyết công việc và sắp xếp thư giãn, chọn những phương pháp hữu hiệu như thiền hoặc yoga ….
Nói chuyện với bác sĩ của bạn để tìm xem nguyên nhân gây stress, khi giải quyết vấn đề stress ổn thỏa, tình hình sẽ khá hơn. Đoi khi bạn cần phải khám chuyên khoa tâm thần nếu stress quá lâu và phức tạp.
- Tập thể dục thường xuyên.
Đi bộ hàng ngày là phương pháp hiệu quả và dễ thực hiện
- Thuốc điều trị :
Đôi khi những thuốc này cũng không hiệu quả trong việc điều trị rối loạn cương dương trên bệnh nhân đái tháo đường, cần phối hợp thêm những thuốc khác.
Khám chuyên khoa Nội tiết để được tư vấn và điều trị. Phòng khám Tiểu đường
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)