Tư liệu về cái chết của Phạm Quỳnh
Ngày nay chắc chẳng còn bao nhiêu người
nhớ đến ông Phạm Quỳnh. Ông là một nhân vật lịch sử, một quan chức cao
cấp trong triều Nguyễn. Ông còn là một đại trí thức, nhà văn hóa, nhà
báo kiệt suất. Ông giỏi tiếng Pháp (cách đây 4 năm, tôi có
giới thiệu
một cuốn sách tập hợp những bài tiểu luận viết bằng tiếng Pháp của
ông). Ông cũng là nhà báo xiển dương việc dùng chữ Quốc ngữ thay cho chữ
Nho và tiếng Pháp. Là người đấu tranh độc lập và tự trị cho Việt Nam.
Thế nhưng ông chết thảm. Theo wikipedia, ngày 9/3/1945 khi Nhật đảo
chính Pháp, và chính phủ Trần Trọng Kim được thành lập, ông về sống ẩn
dật ở Huế. Ngày 23/8/1945 ông bị chính quyền cách mạng bắt giam ở Huế,
kết án tử hình, và sau đó không lâu bị hành hình cùng với ông Ngô Đình
Khôi (là anh ruột của nguyên tổng thống Ngô Đình Diệm) và Ngô Đình Huân
(con trai của ông Ngô Đình Khôi). Mãi đến tháng 2 năm 1956 người ta
mới tìm thấy di hài của ông trong một chùa ở Huế. Cái chết của ông vẫn
còn là một bí ẩn, vì ít ai biết được chi tiết ra sao, và tại sao một
người yêu nước như thế mà bị chính quyền giết. Bài dưới đây đăng trên
blog của Pham Ton vén bức màn bí ẩn cho chúng ta. Đọc thấy chữ "làm việc" mà chắc nhiều người thấy quen quen. Vẫn không có gì thay đổi về cách
làm việc dù đã gần 70 năm trôi qua. Thấy tư liệu quí, tôi copy về để bạn đọc tham khảo. NVT
VỀ NGÀY “ỦY BAN KHỞI NGHĨA THUẬN HÓA MỜI PHẠM QUỲNH RA LÀM VIỆC”
ĐỂ RỒI “ĐI KHÔNG BAO GIỜ TRỞ LẠI”
Đại tá, Tiến sĩ Sử học Nguyễn Văn Khoan
Lời dẫn của Phạm Tôn: Chúng tôi đã đăng bài Góp phần tìm hiểu và làm theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Bất Tất Nhiên”
của Đại tá Tiến sĩ Sử học Nguyễn Văn Khoan, ký bút danh Sông Hương, và
được đông đảo bạn đọc ở trong nước và cả ngoài nước nữa hoan nghênh,
khen ngợi, truyền cho nhau đọc…
Kỳ
này chúng tôi lại may mắn được Đại tá Tiến sĩ ưu ái gửi cho một bài
mới, kết quả của quá trình làm việc nghiêm túc, đúng phong cách của
nhà sử học chân chính, nhưng vẫn với bút pháp rất độc đáo của ông, lật
đi lật lại vấn đề nhiều lần, dưới nhiều góc nhìn khác nhau, thể hiện
sự tin tưởng vào lương tri và trình độ hiểu biết của bạn đọc.
Xin mời các bạn cùng thưởng thức để có thêm những suy nghĩ mới về một vấn đề xảy ra cách nay đã hơn 60 năm.
*
* *
Sau
khi Nhật đảo chính Pháp ngày 9 tháng 3 năm 1945, Phạm Quỳnh “ở nhà”,
không tham gia chính phủ Trần Trọng Kim. Mặc dù chính phủ của ông Kim
gồm phần lớn các bộ trưởng là những người yêu nước, ghét Pháp, cũng
không ưa Nhật.
(…)
Theo lời Phạm Quỳnh, ông muốn
“nghỉ việc”, để chăm lo vào đường văn học. Tổng khởi nghĩa diễn ra ở
Huế, ông vẫn bình tĩnh. Con cháu tham gia biểu tình, ông chẳng những
không ngăn cản mà còn khuyến khích, bảo người nhà mua và may cở đỏ sao
vàng cho con cháu đi biểu tình. Có lẽ ông cho mình là một người yêu
Tổ Quốc – theo cách của ông – đòi Pháp trả lại quyền cho vua Việt Nam –
đấu tranh cho một nền quân chủ lập hiến hiện đại, v.v… Và cũng biết
mình chưa nắm được tình hình diễn biến của thế sự, tin (cả tin) vào
suy nghĩ của mình, không lường được những gì sẽ xảy ra, chủ quan không
chủ động tìm hiểu thông tin để tự bảo vệ.
[1]
Ngày 23 tháng 8 năm 1945, hai sinh viên trường Thanh niên Tiền tuyến – Huế là Đặng Văn Việt và Cao Pha
[2]
hạ cờ quẻ ly ở Kỳ đài Huế, kéo cờ đỏ sao vàng lên. Vào lúc 14 giờ, lá
cờ rộng chừng 100 mét vuông ấy đã tung bay trên bờ sông Hương, trước
núi Ngự Bình, trên đỉnh cột cờ Phu Văn Lâu.
Ngày 23 ấy, nhân dân Thừa Thiên-Huế đã tổng khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi.-
Cũng trong ngày 23, “Tôi (Phan
Hàm sinh viên trường Thanh niên Tiền tuyến Huế-NVK chú) nhận lệnh,
nghiên cứu thì được biết thêm là trong nhà Phạm Quỳnh cũng như nhà Ngô
Đình Khôi đều có rất nhiều súng ống. Vì vậy buổi sáng hôm ấy, anh Hồ
[3]
và tôi phải cải trang đi trinh sát địa hình trước. Kết quả chỉ biết
đích xác nhà (biệt thự Hoa Đường), sân, còn trong nhà không rõ. Đến trưa
ông Phan Tử Lăng
[4]
trực tiếp chỉ thị cho tôi: đến trại Bảo An binh, ông ta sẽ phối thuộc
cho hai tiểu đội lính Bảo An (một tiểu đội do tôi chỉ huy, một tiểu
đội cho anh Việt chỉ huy) để giúp vào việc đi bắt hai tên Việt Gian
đầu sỏ này. Ông ta còn nói thêm: “Bắt được rồi đem về lao Thừa Phủ,
rồi báo xuống sân vận động Huế người ta biết, mở màn cuộc mít tinh.”
“Mệnh lệnh rất ngắn mà chúng tôi mang theo chỉ thấy nói “Ủy ban Khởi nghĩa Thuận Hóa mời Phạm Quỳnh ra làm việc”.
Tôi được trang bị một khẩu súng lục St.Etienne 6.35. Khi xe của tôi
vòng vào sân, thấy Nguyễn Tiến Lãng trong nhà chạy ra. Lúc bấy giờ trên
áo tôi đã có cái băng cờ đỏ sao vàng nên Lãng biết, toan chạy. Tôi
đưa súng lên bắn thì kẹt đạn, nên bắt lên xe luôn. Anh Hồ lên lầu bước
vào phòng Quỳnh đang chuẩn bị nghỉ trưa. Đưa giấy “mời” ra, ông ta
thản nhiên đứng dậy mặc áo ra đi.
Phần cuối tập tư liệu 10 trang
do chính tay Thiếu tướng Phan Hàm viết ngày 8/11/1993 và Tuyên huấn
Tỉnh ủy Thừa Thiên-Huế nhận chiều 14/11/1993. Có chữ ký trên tên do
Thiếu tướng viết.
“Tôi
lục soát khắp nhà
(Chúng tôi nhấn mạnh-N.V.K) chẳng thấy súng đạn đâu cả ngoài khẩu súng
săn cỡ 12 ly của con trai ông ta và ít đạn săn. Con trai của ông ta
là Phạm Khuê cũng đi dự mít tinh, ở nhà chỉ còn hai cô con gái là học
sinh trường Khải Định trước đây” (…) “Đây là ý kiến tôi muốn đóng góp
với những bản tổng kết quân sự, Đảng, chính quyền của tỉnh nhà”.
[5]
“Chúng tôi đưa những người bị bắt về lao Thừa Phủ, sau đó giao cho anh Nguyễn Trung Lập
[6] đưa họ đi khỏi thành phố Huế để tránh sự dòm ngó của người ngoài
[7].
Ngày 28 tháng 8, Pháp cho sáu
tên nhảy dù xuống Hiền Sĩ. Mười ngày sau (6 hoặc 7 tháng 9) lại có một
toán người Pháp khác đổ bộ vào Thuận An. Bọn nhảy dù xuống Hiền Sĩ,
vừa xuống mặt đất đã hỏi thăm người địa phương “Phạm Quỳnh ở đâu?
(nguyên văn tiếng Pháp: Où est Pham Quynh?)”
Trong khi đó, cũng ngày 23
“sáng, Hồ Chí Minh (rời Tân Trào từ ngày 22 để về Hà Nội) đi qua huyện
Đa Phúc, Phú Yên (nay là Sóc Sơn, Hà Nội). Chiều, người qua sông Hồng
ở bến Phúc Xá. Tối người đến nghỉ trong nhà ông Công Ngọc Kha ở làng
Gạ (Phú Gia, huyện Từ Liêm)
[8]”.
Ngày 24 người nghỉ tại đây. “Sáng ngày 25, tại làng Gạ, Người nghe
các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Trần Đăng Ninh từ nội thành ra báo cáo
8. “Chiều, người đi ô tô vào Hà Nội, dừng ở số nhà 35 phố Hàng Cân, lên gác tầng hai nhà số 48 phố Hàng Ngang”
8.
Ngày 26, Hồ Chí Minh triệu tập và chủ trì cuộc họp của Thường vụ
Trung ương Đảng. Ngày 27, Người họp với Ủy ban Dân tộc Giải phóng, “đề
nghị thi hành chính sách đoàn kết rộng rãi, thành lập chính phủ thống
nhất quốc gia bao gồm cả những đảng phái, những người có danh vọng”
8
Ngày 28, Hồ Chí Minh đến làm việc tại nhà số 12 Ngô Quyền, dành thời gian soạn
Tuyên ngôn độc lập.
Được báo cáo là Trần Huy Liệu cùng phái đoàn đã vào Huế nhận ấn kiếm
của Bảo Đại thoái vị, Bác nói với Hoàng Hữu Nam: “Chú tìm một người
[9] thay chú vào Huế
gặp Phạm Quỳnh đưa thư tôi mời cụ Phạm”
[10]
Trong đêm 23 tháng 8, chính phủ cách mạng lâm thời đã điện đòi Bảo
Đại thoái vị. Chiều 30 tháng 8, Bảo Đại nộp ấn, kiếm cho phái đoàn
chính phủ ta
[11]
Trở lại ngày 27 tháng 8, khi họp
Ủy ban Dân tộc Giải phóng tại Hà Nội, chưa rõ là Chủ tịch Hồ Chí
Minh có “đả động” gì đến Phạm Quỳnh không? Và Người có kịp căn dặn
Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng, Huy Cận vào Huế tìm hiểu hoặc đến
thăm Phạm Quỳnh?
Ngày 28, Pháp nhảy dù xuống Hiền
Sĩ. Ngày 30, Trần Huy Liệu – nếu có tìm gặp Phạm Quỳnh cũng không
được. Vì, có thể là những người lãnh đạo Ủy ban Khởi nghĩa cho biết là
“có dấu hiệu Pháp liên lạc với Phạm Quỳnh” hoặc là Phạm Quỳnh bị bắt
và đã giải đi xa rồi… Trần Huy Liệu chắc là có báo tin về Hà Nội, nên
ngày 30 tháng 8 (ngày tiếp nhận thoái vị của Bảo Đại), Hoàng Hữu Nam
đã thưa với Bác: “Ông Phạm Quỳnh đã bị bắt”
[12] thì Bác đã nói ngay “Bất Tất Nhiên”.
[13]
Ngày 31, Vũ Đình Huỳnh đưa các cô Phạm Thị Giá, Phạm Thị Thức đến gặp Hồ Chủ tịch, báo tin cha mình (Phạm Quỳnh) đã bị bắt.
Bảy ngày sau, tức mùng 6 hay 7 tháng 9 năm 1945
[14],
theo Phan Hàm, Võ Quang Hồ, sau khi Giải phóng quân Huế được thành
lập vào ngày 1/9 thì có tin tàu Pháp xuất hiện ở cửa bể Thuận An
[15].
Võ Quang Hồ cùng một số chiến sĩ có vũ khí đi thuyền áp mạn tàu Pháp,
leo lên tàu Pháp đưa thư của ta cho chúng. “Xem xong thư, tên Pháp ôn
tồn nói: Mời các ông lên bờ trước, tôi cho tàu nhổ neo sát vào bờ,
rồi dùng ca nô lên bờ sau. Khi thuyền của Võ Quang Hồ, Đoàn Huyên
15 cặp bờ thì tàu Pháp nhổ neo, giương buồm, hướng biển khơi mà chạy.
[16] Có thể là “sau đó” Phạm Quỳnh bị bắn, nhưng bị bắn vào ngày nào?
Báo
Quyết Thắng, cơ quan tuyên truyền và tranh đấu của Việt Minh Trung bộ, số 11 ra ngày 9/12/1945, cho biết: “
Cả
ba tên Việt Gian đại bợm (Ngô Đình Khôi, Phạm Quỳnh, Ngô Đình Huân)
bị bắt ngay trong giờ cướp chính quyền, 2 giờ (chiều) ngày 23/8 và đã
bị Ủy ban Khởi nghĩa kết án tử hình và đã thi hành ngay trong thời kỳ
thiết quân luật”[17].
Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa Thừa
Thiên-Huế bấy giờ là Tố Hữu. Vậy, ông Phan Tử Lăng nhận lệnh đi bắt
Phạm Quỳnh hẳn không phải là do ông Tôn Quang Phiệt Chủ tịch Ủy ban
Nhân dân hay ông Hoàng Anh – phụ trách chính trị đại diện Đảng bố trí
trong chính quyền – ra lệnh, mà phải là Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa.
Theo
tư liệu nước ngoài, sau khi tàu chiến Pháp vào cửa Thuận An ngày 6
tháng 9, có lẽ Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa cho rằng “Pháp có thể tiếp
tục tìm bắt liên lạc với Phạm Quỳnh (dù chỉ có một câu nói của nhóm
nhảy dù “Phạm Quỳnh ở đâu?”. Cũng không rõ bọn Pháp hỏi để nhờ Phạm
Quỳnh làm “phiên dịch” hoặc “tôn” Phạm Quỳnh lên làm chức gì đó?) nên
họ xử lý ngay.
Sau khi Phạm Quỳnh “lên xe đi”
(và “không bao giờ trở về nữa”), ông vẫn tin “Cách mạng sẽ cho về”. Và
lúc nhận viên đạn trước khi rời bỏ cuộc đời, sự nghiệp còn dở dang, ông vẫn tự cho mình là không có tội với Nước – có chăng là chưa thuận theo thời đại – ông vẫn không tin rằng “Cách mạng, những người Cộng sản Việt Minh” lại xử bắn mình. Vì thế ông mới hét lên “Quân sát nhân!” (Quân giết người).
Theo Vũ Đình Huỳnh, khi ông Tôn Quang Phiệt ra Hà Nội gặp Bác và báo cáo “Cụ Phạm Quỳnh đã bị
khử rồi” (nguyên văn). Bác nói: “Giết một học giả (chú ý: Bác không nói
người mà nói
học giả) như vậy thì nhân dân ta được gì? Cách mạng được lợi ích gì? Tôi đã từng gặp, từng giao tiếp với Cụ Phạm (chú ý: Bác dùng chữ
Cụ) ở Pháp. Đó không phải là người xấu”
[18]
Trở lại với thông báo của Việt Minh Trung Bộ, ta có thể đặt các câu hỏi sau đây:
a) Tại sao đã xử bắn “Kết án tử hình” từ ngày 6 (7) tháng 9 năm 1945, mà mãi đến ngày 9 tháng 12 mới ra “thông báo”?
b) Bản án đã “thi hành ngay trong thời kỳ thiết quân luật”. Vậy “thời kỳ thiết quân luật” bắt đầu từ ngày nào đến ngày nào, trong phạm vi địa phương nào? Có được chính phủ cho phép?
c)
Ủy ban Khởi nghĩa “kết án tử hình”. Vậy bản án ấy số bao nhiêu? Ai là
quan tòa? (Hoặc do thời kỳ cách mạng, bão táp, v.v… và v.v…)
d) Thông báo viết: “Phạm Quỳnh
còn dựa vào thế lực Pháp (…) bóc lột vơ vét tài sản quốc dân…”. Vậy,
khi khám nhà Phạm Quỳnh đã thu được được bao nhiêu “tài sản”, vàng
bạc, v.v…? Có mâu thuẫn gì không với ý kiến của thiếu tướng Phan Hàm:
“Chẳng thấy dấu hiệu gì (chứng tỏ liên lạc với Pháp), cũng chẳng có
tài sản gì…( ngoài khẩu súng săn)? Và nếu thu được “tài sản” liệu có
thống kê không, danh mục ai thu, ai giữ, gửi ai, cơ quan nào bảo vệ?
đ) Tờ thông báo này là một công văn của “Ủy ban Khởi nghĩa tỉnh Nguyễn Tri Phương, Thừa Thiên-Huế gửi Toà án Quân sự Thuận Hóa”
Thông báo này có hai điểm cần xem xét:
1/ Cho đến ngày 9/12/1945, nghĩa
là sau khi nước ta tuyên bố độc lập, có chính phủ rồi, hệ thống chính
quyền ở các địa phương là Ủy ban Nhân dân kỳ, tỉnh, huyện…liệu có
phải chỉ riêng ở Thừa Thiên-Huế vẫn tồn tại Ủy ban Khởi nghĩa?
2/ Tòa án quân sự Thuận Hóa – sự thật đã có hay chưa? Ai là chánh án?
Trong sách Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, tập 3, NXB Chính trị Quốc gia, 1993, trang 17 có viết: “Ngày 13 tháng 9,
sắc lệnh số 33C quy định lập Tòa án Quân sự ở Bắc Bộ (Hà Nội, Hải
Phòng, Thái Nguyên, Ninh Bình), ở Trung Bộ (Vinh, Huế, Quảng Ngãi…) Tòa
án Quân sự sẽ xử tất cả những ai có hành động phương hại đến nền độc
lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa… Những quyết nghị của Tòa án Quân sự
sẽ đem thi hành ngay (không có quyền chống án –NVK chú) trừ trường hợp tử hình (Chúng
tôi nhấn mạnh – NVK), cần có thời gian cho tội nhân xin ân giảm (chỉ
có Chủ tịch nước mới có quyền ân giảm – NVK chú) nếu họ muốn và phải
được ghi vào bản án. Nếu không, bản án (tử hình – NVK chú) thành vô giá
trị”.
Xử Phạm Quỳnh trước khi có sắc
lệnh lập Tòa án Quân sự, “cũng phải” thôi! Sau khi có sắc lệnh lập Tòa
án Quân sự ngày 13/9/1945 rồi, tại sao đến ngày 9 tháng 12 cùng năm,
Ủy ban Khởi nghĩa mới báo cáo lên tòa án – một việc đã làm cách đó hơn
ba tháng? Với mục đích gì? Nhằm giải quyết việc gì?
Phải chăng đây là một “tờ trình”
cho hợp lệ, khi Ủy ban Khởi nghĩa có thể không còn, thời gian “thiết
quân luật” đã qua, việc “kết án tử hình đã thi hành ngay rồi”. Cũng
cần nói thêm là khó có thể tránh…Tuy nhiên, nước nhà đã độc lập, đã có
chính phủ, chính quyền các cấp, người công dân của nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa phải được hưởng quyền công dân (tự do báo chí, hội
họp…không bị xâm phạm thư từ, tài sản,
càng không được xâm phạm tính mệnh).
Nhưng những người lãnh đạo ở tỉnh Thừa Thiên – Huế, chịu trách nhiệm
trước dân lại vô tình (hay hữu ý?) không biết (hay cậy quyền?) dựa vào
uy tín của cách mạng, tự tiện quyết định mà không cần xin phép, không
báo cáo…Họ chủ trương (có hay không?)
làm một việc đã rồi. Khoan nói đến tầm nhìn hạn hẹp, ấu trĩ, mà cần xem xét sự việc này như là một “
di căn” của “đấu tranh giai cấp” từ 1930 – 1931 còn sót lại, với “
Trí-Phú-Địa-Hào, đào tận gốc, trốc tận rễ” của những “nhà cách mạng yêu nước” tinh thần cao nhưng lại giáo điều, tả khuynh “hủ Mác”.
[19]
Tạp chí Tri Tân số 205 ra ngày 7/9/1945 (suýt soát ngày 6 (7) Phạm Quỳnh bị thủ tiêu) đăng bài Cuộc hội đàm giữa Cụ Hồ Chủ tịch với ba đại biểu Liên đoàn Văn hóa (Trương Tửu, Thượng Sĩ, Nguyễn Đức Quỳnh- NVK chú).
Trong buổi gặp ấy, Cụ Hồ có nói:
“Trong chính phủ lâm thời có cả vua, quan lại cũng có, địa chủ cũng
có, nông dân cũng có, công nhân cũng có (chú ý: Bác không nói Việt
Minh – Cộng sản – Dân chủ – Quốc Dân đảng – NVK chú)… Lúc này bất cứ
người nào
miễn là có tài và đừng phản cách mạng thì có thể phụng sự quốc gia, Tổ quốc”…
[20]
Chắc chắn là vẫn còn những nhân
chứng, chi tiết, sự kiện mà lịch sử chưa tiếp cận được, chưa khai thác
được, hoặc chưa tìm ra, chưa công bố được nhiều vụ việc – trong đó có
“vụ Phạm Quỳnh.”
Chúng ta có thể tự an ủi rằng: Bác Hồ đã “gặp” Phạm Quỳnh rồi mà vẫn “lỡ”
[21].
“Gặp” ở tinh thần yêu nước, muốn làm gì đó để nước thoát khỏi ách nô
lệ, mỗi người theo cách riêng của mình, “gặp” ở tri thức, “gặp” ở sự
cống hiến cho Tổ quốc. Còn “lỡ” là “lỡ” không kháng chiến, kiến quốc,
“lỡ” để mất đi “một học giả”… khi chính Cụ Hồ, Tổ quốc đang rất cần
những “học giả” như thế…
Không phải là “bới lông tìm vết”. Mà khoa học lịch sử là phải công bằng, rõ ràng công, tội: Công bao nhiêu, tội bao nhiêu?.
Không thể “mờ mờ nhân ảnh”, để thế hệ này và cả các thế hệ mai sau cũng “mờ mờ” theo
[22]
N.V.K
[1] Xin nói rằng bộ phim
Ngọn nến hoàng cung,
dù là phim “tiểu thuyết lịch sử” (do đạo diễn tuyên bố) nhưng đã “sáng
tác” ra quá nhiều chi tiết-sự kiện phi lịch sử – sai lệnh về cách
ứng xử, nhân cách của các nhân vật trong phim.
[2]
Đặng Văn Việt, năm 2009 vẫn còn sống, ở tuổi 90, là “đệ tứ quốc lộ đại
vương”, vua đường số 4 những năm 1949-1950; Cao Pha, thiếu tướng Cục
Tình báo, đã mất.
[3] Võ Quang Hồ, thiếu tướng, 120/6 đường Lê Văn Thọ, Phường 11, Quận Gò Vấp, TpHCM. Điện thoại số: 3996 7419
[4]
Phan Tử Lăng bỏ nghề dạy học để đi học Võ bị Tông, cùng khóa với Dương
Văn Minh, tổng thống Việt Nam Cộng hòa sau này, được chính phủ Trần
Trọng Kim giao “Tổng chỉ huy lực lượng vũ trang của chính phủ”, trực
tiếp chỉ huy lực lượng Bảo An binh Trung Bộ, đồng thời là Hiệu trưởng
trường Thanh niên Tiền tuyến.
[5] Tư liệu viết tay 10 trang, Thiếu tướng Phan Hàm viết ngày 8/11/1993, Tuyên huấn Tỉnh ủy Thừa Thiên-Huế nhận chiều 14/11/1993
[6]
Trung đoàn phó 84 – Quân khu V, liệt sĩ 1950. Địa chỉ gia đình: nhà
50- đường 40 – phường Thảo Điền – Quận 2 – Tp.HCM. Điện thoại số:
3512 5778
[7]
Theo bài thiếu tướng Phan Hàm viết ngày 15/8/1995, ông đã mất năm
2004. Địa chỉ gia đình: số 9 đường Đống Đa, phường 2, quận Tân Bình,
Tp.HCM. Điện thoại số: 3844 7396
[8] Hồ Chí Minh,
Biên niên tiểu sử tập II, 1930-1945, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005, các trang 283, 284, 285….
[9]
Theo hồi ký Trần Huy Liệu: “Nhớ là ngày 25/8/1945, phái đoàn chính phủ
lâm thời từ thủ đô Hà Nội ra đi bằng hai chiếc ô tô, có một tiểu đội
Giải phóng quân đi theo bảo vệ. Trong khi ấy bọn Pháp đã bắt đầu nhảy
dù xuống Huế, tên Pháp vừa nhảy xuống đã hỏi ngay Bảo Đại, Phạm Quỳnh.
Ta đã xử lý thích đáng ngay nhiều tên tay sai của Pháp như Ngô Đình
Khôi, Phạm Quỳnh” Tạp chí
Nghiên cứu lịch sử số 18 (tháng 9 năm 1960).
[10]
Tư liệu của nhà văn Sơn Tùng gửi Nhạc sĩ Phạm Tuyên, 12/2008. Trong
lúc đó, Phạm Quỳnh đã bị bắt mà Chủ tịch nước vẫn chưa biết (không
được báo cáo). Bác viết thư chứ không đánh điện, có thể là một cử chỉ
coi trọng người hiền tài.
[11] Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam, chủ biên Nguyễn Khánh Toàn,
Lịch sử Việt Nam tập II, NXB Khoa học Xã hội, 1985, trang 340)
[12] Nhà văn Sơn Tùng thuật lại theo ý kiến của Vũ Đình Huỳnh, Bí thư của Bác hồi đó.
[13] Có nghĩa là “Không cần thế, có thể có cách khác”.
[14] Theo gia đình Phạm Quỳnh thì ông mất vào ngày 6/9/1945.
[15] Sách
Trường Thanh niên Tiền tuyến- Huế,
trang 242. Đoàn Huyên, thiếu tướng đã mất năm 2004. Địa chỉ gia đình:
7 Đống Đa, phường 2, quận Tân Bình, TpHCM. Điện thoại số: 3844 6322
[16] Trong hồi ký này không thấy Pháp có hỏi han gì về Phạm Quỳnh
[17]
Lưu tại thư viện Trung ương Hà Nội, ký hiệu T520, không rõ Ngô Đình
Huân, con trai Ngô Đình Khôi, “Việt Gian đại bợm” thế nào? Thông tin về
con người này còn quá ít
[18] Tư liệu của nhà văn Sơn Tùng gửi nhạc sĩ Phạm Tuyên, ghi theo lời kể của ông Đào Nhật Vinh và Vũ Đình Huỳnh. Qua chữ
khử
mà Tôn Quang Phiệt dùng dễ nhận ra là ông Tôn Quang Phiệt cũng không
đồng ý việc xử lý Phạm Quỳnh và cả cách (phương pháp) tiến hành vụ xử.
Và dù ông Phiệt không đồng ý cũng chẳng làm được gì.
[19]
Trong Cách Mạng Tháng Tám, ở Trung Bộ, Nam Bộ từng xảy ra một số vụ
“xử bắn”, “bắt giam” người trái phép rất đáng tiếc. Còn ở Bắc Bộ,
nhiều quan Tổng đốc, Án sát… do “đoàn thể” quán triệt đường lối của
Đảng nên đã may mắn được an toàn.
[20]
Cuối năm 1945, sau khi Đảng ta tuyên bố tự giải tán, trong một lần trả
lời các nhà báo, Bác nói: “Sau này tôi sẽ thành lập một đảng mới.
Đảng ấy có tên gọi là Đảng Việt Nam. Chỉ có hai hạng người không được
vào Đảng: phản quốc và tham ô”.
[21] Bài
Đã gặp rồi mà vẫn lỡ đăng trên
Nhà báo Huế, Xuân 2009.
[22] Một vị Tổng đốc Hà Đông, giàu tiền lắm ruộng, xây lăng to, không ít “thành tích”,
chỉ viết có một cuốn sử mỏng, vậy
mà cũng đã được công chúng ngày nay hoan nghênh. Tại sao đánh giá,
xác định vai trò của Phạm Quỳnh – người có công lớn với văn hóa nước
nhà, lại phức tạp, khó khăn đến thế? Liệu lịch sử còn công bằng không?
Có thể còn kéo dài chế độ thi tốt nghiệp trung học phổ thông chưa hề
có môn lịch sử?