Thứ Sáu, 27 tháng 4, 2012

Viêm gan C

BỆNH VIÊM GAN C
Thông tin dành cho bệnh nhân

NỘI DUNG
1. Siêu vi viêm gan C và đường lây nhiễm.
2. Diễn tiến tự nhiên của bệnh viêm gan C.
3. Chẩn đoán bệnh viêm gan C: Xét nghiệm máu, khám chuyên khoa Gan.
4. Lời khuyên chế độ ăn và lối sống.
5. Ðiều trị đặc hiệu.

 
 





1. SIÊU VI VIÊM GAN C - TỔNG QUAN

Siêu vi viêm gan C (SVVG C) là một loaị virut có khuynh hướng xâm nhập tế bào gan, gây ra bệnh viêm gan. Bệnh viêm gan siêu vi C mới được phát hiện từ năm 1989, do đó xét nghiệm chẩn đoán bệnh chỉ có thể làm được trong những năm gần đây.
Cách lây nhiễm siêu vi viêm gan C
Siêu vi viêm gan C lưu hành trong máu, do đó bệnh viêm gan C lây truyền chủ yếu qua đường máu. Những đường lây nhiễm siêu vi C chủ yếu:
1. Người nhận máu hoặc chế phẩm máu nhiễm siêu vi C: Mặc dù các biện pháp lựa chọn người cho máu đang được áp dụng, SVVG C vẫn có thể lọt lưới và được truyền sang người nhận.
2. Dùng chung kim tiêm nhiễm siêu vi C: Sử dụng chung kim tiêm ở những người nghiện ma túy làm gia tăng đáng kể lây nhiễm bệnh viêm gan C.
3. Nhân viên Y tế: Bất kỳ nhân viên Y tế nào (Bác sỹ, Nha sỹ, Y tá, Y công.) cũng có thể bị nhiễm SVVG C do tiếp xúc với bệnh phẩm chứa siêu vi trong qúa trình làm việc.
4. Ðường tình dục: Có nguy cơ lây nhiễm siêu vi C qua quan hệ tình dục nhưng hiếm hơn bệnh viêm gan B.
5. Mẹ truyền sang con: Người ta ghi nhận có sự lây truyền từ mẹ sang con, nhưng tỉ lệ thấp.
6. Nguyên nhân khác: xăm mình, xỏ lỗ tai với vật dụng không tẩy trùng tốt có thể lây truyền siêu vi C.
7. Không rõ đường lây nhiễm: chiếm 30-40% trường hợp.
2. DIỄN TIẾN TỰ NHIÊN BỆNH VIÊM GAN SIÊU VI C
Nhiễm trùng cấp tính:
Phần lớn bệnh nhân không có triệu chứng lâm sàng. Một số khác có biểu hiện mệt mỏi, chán ăn, có thể vàng da, vàng mắt, nước tiểu đậm màu.Chẩn đoán bệnh dựa vào xét nghiệm máu.
Nhiễm trùng mạn tính:
Khoảng 85% trường hợp nhiễm SVVG C sẽ chuyển thành viêm gan mạn tính, nghĩa là không đào thải được virut sau 6 tháng. Ðặc điểm nổi bật của bệnh viên gan C mạn tính là sự tiến triển rất thầm lặng qua 10-30 năm, vì thế người bệnh thường không được chẩn đoán và điều trị kịp thời. Nhiều trường bệnh chỉ được phát hiện khi đã có biến chứng nghiêm trọng: xơ gan với biểu hiện báng bụng (ổ bụng có nước), giãn mạch máu đường tiêu hóa, có thể vỡ gây chảy máu ồ ạt và tử vong. Một biến chứng nữa là ung thư tế bào gan.
Khi đã xơ, gan khó hồi phục lại, cho dù tình trạng viêm có thuyên giảm. Vì vậy, các thầy thuốc khuyên nên điều trị sớm nhằm ngăn ngừa hoặc làm chậm tiến triển sang giai đoạn xơ gan.
HÌNH 1: SƠ ÐỒ NHIỄM SIÊU VI VIÊM GAN C

3. CHẨN ÐOÁN BỆNH VIÊM GAN SIÊU VI C
3.1. XÉT NGHIỆM MÁU
Men gan tăng chứng tỏ tế bào gan đang bị phá hủy. Kháng thể chống siêu vi C dương tính trong hầu hết các trường hợp. Chức năng gan có thể rối loạn tùy mức độ và thời gian bị bệnh.
3.2. KHÁM CHUYÊN KHOA GAN
Sau khi xác nhận đang có quá trình viêm gan, Bác Sỹ sẽ khuyên Bạn làm thêm các xét nghiệm:
1. Xét nghiệm đánh giá chức năng gan
2. Siêu âm gan: Nhằm nghiên cứu cấu trúc của gan và các bộ phận xung quanh, tìm dấu hiệu xơ gan hoặc biểu hiện bất thường khác.
3. Sinh thiết gan: Xét nghiệm này cho phép các chuyên gia quan sát tế bào gan dưới kính hiển vi, xác định mức độ viêm nhiễm, chẩn đoán giai đoạn bệnh, đánh giá hiệu quả điều trị.
4. Xét nghiệm HCV RNA: Phát hiện trực tiếp siêu vi trong máu, đồng thời định danh dưới nhóm để lựa chọn phác đồ hợp lý. Xét nghiệm này còn được sử dụng để tiên lượng đáp ứng tốt với điều trị.
4. LỜI KHUYÊN CHẾ ÐỘ ĂN VÀ LỐI SỐNG
CHẾ ÐỘ ĂN:
 Bạn nên hạn chế uống rượu bia, bởi vì xơ gan dễ xảy ra hơn ở người viêm gan đồng thời nghiện rượu. Bệnh nhân viêm gan C có thể duy trì chế độ ăn lành mạnh bình thường. Khi đã có xơ gan, Bác Sỹ khuyên nên áp dụng chế độ ăn giảm muối.
Lối sống
Như đã nêu ở trên, siêu vi viêm gan C lây truyền qua đường máu. Nếu bạn bị đứt tay, hãy lau sạch máu bằng dung dịch sát trùng. Mặc dù nguy cơ lây nhiễm thấp, bạn vẫn nên áp dụng phương pháp bảo vệ khi quan hệ tình dục.

ÐIỀU TRỊ

Bệnh viêm gan C mạn tính cần được điều trị càng sớm càng tốt nhằm:
1. Giảm thiểu hoặc loại trừ hoàn toàn tình trạng viêm gan, do đó ngăn ngừa diễn tiến sang xơ gan, ung thư gan.
2. Ðào thải hoặc giảm bớt lượng siêu vi C trong cơ thể, đặc biệt là ở gan.
5. ÐIỀU TRỊ ÐẶC HIỆU
Cho đến nay, biện pháp cơ bản điều trị viêm gan siêu vi C là Interferon alpha. Ðây là một chất tự nhiên của cơ thể, được sản xuất bởi các tế bào đề kháng khi bị nhiễm siêu vi. Như vậy, khi được dùng để điều trị bệnh viêm gan C, interferon alpha bắt chước đáp ứng tự nhiên của cơ thể chúng ta.
Interferon alpha (RoferonỊ-A) được đóng sẵn trong bơm tiêm nhỏ, tiêm dưới da hoặc bắp thịt. Sau những lần tiêm đầu tiên, hầu hết bệnh nhân có cảm giác sốt nhẹ, mệt mỏi giống như cúm trong vài giờ. Lý do là việc điều trị Interferon alpha sẽ khởi động đáp ứng của cơ thể chống lại siêu vi trùng C, tương tự như đối với siêu vi trùng cúm. Những triệu chứng này giảm dần sau một vài tuần. Ðể hạn chế tác dụng phụ này, nên tiêm thuốc vào buổi tối và uống Paracetamol nửa tiếng trước khi tiêm﮼br> Trong thời gian điều trị, Bạn nên làm xét nghiệm máu để đánh giá đáp ứng. Sau khi kết thúc đợt điều trị, cần tiếp tục theo dõi 6 tháng tiếp theo, bởi vì một số bệnh nhân có thể tái phát sau khi ngưng điều trị.
Hiên nay, một số phác đồ phối hợp kháng sinh chống virut cho kết quả khỏi bệnh cao hơn, ví dụ kết hợp Interferon alpha với Ribavirin.

CÁC KHỐI U GAN

CÁC KHỐI U GAN

Theo Richard Simcock, MBBS, MRCD (Medical progress June 2002)




Bệnh gan là một vấn đề thường gặp trong ung thư học. Phần lớn các khối u gan là do di căn: trong 28.000 trường hợp ung thu đại tràng mới mỗi năm ở Anh, hơn một nửa có di căn tới gan. Tuy nhiên ung thư nguyên phát ở gan và đường ruột cũng rất quan trọng và có ý nghĩa về mặt dịch tể.
Ung thư ở gan thường có tiên lượng rất xấu (thời gian sống còn trung bình của bệnh nhân ung thư vú di căn gan chỉ 3 đến 6 tháng). Tuy nhiên, mặc dù thuyết hư vô về điều trị trong lĩnh vực này trong quá khứ, dần dần cũng có những tiến bộ trong ngăn ngừa và điều trị những khối u, những khối u này sẽ được điều trị trong các trung tâm ung thư và các cách điều trị sẽ được xem xét. Sự tiến bộ chút ít trong việc chữa lành, nhưng sự giảm đau thì cải thiện nhiều, việc ngăn ngừa và truy tìm đã cho hy vọng thật sự trong việc giảm tỉ lệ bệnh ung thư trên thế giới.


A. UNG THƯ DI CĂN
Gan là nguồn gốc thông thường của nhiều khối u đặc di căn, thông thường nhất là đại trực tràng, vú và phổi, mặc dù thực tế tất cả ung thư đều cho thấy có sự di căn của gan.
Trong nhiều ung thư, di căn gan tiến đến trước tiên rất mau và đi đến kết thúc. Tuy nhiên với nhiều cách điều trị lạc quan hơn, khả năng sống còn đựơc cải thiện. Ðiều trị trợ giúp cũng được dùng tăng lên để làm giảm tỉ lệ của những biến chứng thứ phát này.
1. Ung thu đại trực tràng
* Ðiều trị trợ giúp
Theo dõi điều trị phẩu thuật ung thư đại tràng, 50% bệnh nhân sẽ chết, phần lớn di căn ở gan (có thể do đường tĩnh mạch của). Theo dõi nhiều thử nghiệm lâm sàng lớn nhất người ta thấy rằng điều trị trợ giúp bằng hóa trị toàn than trên 6 tháng với 5-Fluoronacil (a Fluoropyrimidine) đã thực sự cho nhiều tiến bộ trong tỉ lệ sống còn. Tất cả bệnh nhân thích hợp phẫu thuật Dukes? C nên được cho hóa trị trợ giúp để giảm tỉ lệ di căn gan. Những thử nghiệm quốc gia tiến bộ hơn đã quyết định chế độ trợ giúp lạc quan và Fluoropyrimidine đường ống mới hơn sẽ làm việc điều trị trợ giúp dễ thực hiện hơn.
* Ðiều trị bệnh phát triển
Sau khi điều trị trợ giúp, bệnh nhân ung thư đại trực tràng cần theo dõi sát để phát hiện sớm di căn ảnh hưởng nhiều đến sự sống còn. Lợi ích này cũng cần trong ung thư vú nhưng thường hay bị thiếu.
* Ðiều trị phẫu thuật
Nếu ít hơn 4 di căn không có bệnh ngoài gan hiện diện thì được xem xét cắt gan để lấy đi sang thương với bờ tự do của khối u 1cm. Phẫu thuật như vậy sẽ cải thiện sống còn khoảng 25%.
Dựa vào chẩn đoán hình ảnh để đánh giá chính xác giai đoạn mô ngoài gan, định vị giải phẫu những phần phụ trong gan cũng như chỉ ra sang thương nhỏ. CT động mạch, MRI và siêu âm qua nội soi ổ bụng làm tăng độ chính xác và độ nhạy cảm của giai đoạn tiểu phẫu và cải thiện sự chọn lựa từng trường hợp.
Theo kinh nghiệm của chúng tôi, những bệnh nhân được chọn lựa tốt cho phẫu thuật ở bệnh viện King?s và Baringstoke hồi phục tốt sau phẫu thuật.
* Phương pháp cắt bỏ không phẫu thuật
Không phải tất cả bệnh nhân đều thích hợp cho phẫu thuật, và ở một số bệnh nhân đặc biệt, giai đoạn cho thấy không thích hợp phẫu thuật, vì vậy một số cách khác nhau do điều trị bảo tồn (bảng 1) các kỹ thuật giới hạn nếu khối u lớn (mặc dù những đầu dò đang phát triển lớn hơn để cắt được chu vi lớn hơn) và có thể đòi hỏi áp dụng nhiều kỹ thuật. Phương pháp mê toàn thân được áp dụng mặc dù chỉ chịu đựng đau tại chỗ trong quá trình thực hiện kỹ thuật.
Những hình ảnh mới đây từ bệnh viện của trường Ðại học tại Anh đã cho thấy điều trị cắt bỏ không phẫu thuật có thể làm gấp đôi khả năng sống còn, mặc dù những hình ảnh này không từ những nghiên cứu ngẫu nhiên.
* Hóa trị
Phần lớn bệnh nhân di căn gan không thích hợp cho phẫu thuật hoặc cắt bỏ không phẫu thuật thì phải dùng hóa trị. Những tác nhân hóa trị mới như là oxaliptatin và irinotecan do thấp hiệu quả ở bệnh nhân có di căn gan về chất lượng cuộc sống và tỉ lệ sống còn.
Fluoropyrimidine uống được dùng cho bệnh nhân mà nghĩ rằng không tốt cho hóa trị toàn thân. Thử nghiệm phan III đối với thuốc này ở Anh cho bệnh nhân di căn gan.
Fluoropyrimidine uống như capecitabine có nhiều hứa hẹn cho bệnh nhân không tốt cho hóa trị toàn thân.
2. Ung thư vú
Ung thư vú di căn hiếm khi thích hợp cho phẫu thuật. Vì bệnh hiếm khi chỉ giới hạn đến gan ở giai đoạn ta chú ý. Tuy nhiên hóa trị có thể hữu ích để giới hạn bệnh. Mặc dù việc làm ổn định bệnh bằng biện pháp hormon thường thấy với những di căn từ ung thư vú tăng estrogen, điều này không thể được trong trường hợp những di căn gan khi sự kiểm soát bệnh đòi hỏi cần phải nhanh hơn.
Rối loạn chức năng gan có thể là chống chỉ định liên quan đối với nhiều loại thuốc hoạt động dùng trong ung thư vú (anthracydines và taxanes), tuy nhiên có một số thuốc độc tế bào mới (vinorelbine) có thể được dùng ngay cả trong trường hợp bệnh nhân vàng da.
3. Những ung thư khác
Những ung thư di căn khác có thể kiểm soát bằng điều trị toàn thân thích hợp tùy thuộc vào tình trạng bệnh nhân.


B. UNG THƯ NGUYÊN PHÁT
Những ung thư nguyên phát gan, đường ruột và túi mật thì hiếm ở Anh, khoảng 3200 ca mỗi năm. Phân nửa xảy ra ở mật, một phần ba ở túi mật và còn lại là nguyên phát tế bào gan. Trên thế giới, những ung thư này trở thành gánh nặng lớn cho sức khỏe.
Có sự tiến bộ rất ít trong việc chữa lành bệnh, tuy nhiên để làm giảm bớt bệnh thì có cải thiện lớn, sự ngăn ngừa, sự truy tìm đã cho hy vọng thật sự trong việc làm giảm tỉ lệ bệnh.


1. Ung thư gan nguyên phát
HCC nghĩa là ung thư gan nguyên phát. Có ít nhất 350.000 ca ung thư gan được phát hiện mỗi năm trên thế giới với tỉ lệ cao ở Ðông Nam Á.
80% trường hợp ung thư gan nguyên phát từ xơ gan.
Nguy cơ phát triển thành HCC , xơ gan thay đổi tùy thuộc vào nguyên nhân (bảng 2 ) . Nguyên nhân quan trọng nhất là viêm gan siêu vi B , C.
Sự phân phối HCC tùy thuộc vào nhiễm siêu vi B .Ở Ðài Loan nhiễm siêu vi B mãn tính làm tăng nguy cơ HCC gấp 100 lần , virus họat động như là yếu tố kích thích mãn tính , kích thích sự thâm nhiễm tế bào gan , làm tăng khả năng thay đổi u tân sinh .
Tổ chức y tế thế giới ước tính khỏang 1 triệu người ở châu Âu nhiễm siêu vi B mỗi năm và 22.000 người sẽ chết do hậu quả xơ gan , ung thư gan . Trẻ em bị nhiễm dể trở thành mãn tính hơn người lớn nhiễm.
Nhiễm siêu vi C mãn tính rất dễ đưa đến HCC . Những người sử dụng thuốc chích tỉnh mạch dễ nhiễm siêu vi C , và nhóm tương tự dễ có tổn thương gan do rượu . Những yếu tố này thích hợp cho nguy cơ HCC.
a.Biểu hiện:
Ở châu Âu HCC phổ biến là sự phát triển dần dần của xơ gan . Những triệu chứng bao gồm đau bụng , yếu sức và chán ăn . Dấu hiệu của suy gan và tăng áp lực tĩnh mạch cửa là phổ biến .
Ở vùng dịch tễ , bệnh thường biểu hiện ở đau và sưng vỡ khối u.
Lớn gan (thỉnh thoảng là mass) xảy ra 50% trường hợp , báng bụng hiện diện hoặc thông qua suy gan hay di căn phúc mạc.
Sốt không thể giải thích được xảy ra trên 10% trường hợp, và hiện tượng cận ung thu cũng được nhận thấy (bảng 3).
b. Truy tìm
HCC tiết ra trong huyết thanh alpha- fetopeotein (AFP) 80% trường hợp, và do đó nó được dùng để truy tìm, chẩn đoán và theo dõi điều trị HCC.
Siêu âm độ ly giải cao dùng để truy tìm khối u nhỏ (<3cm) không triệu chứng. Nhiều trung tâm đã có chương trình truy tìm HCC ở bệnh nhân có nguy cơ cao.
Ðiều này đã đem lại lợi ích sống còn và đánh bại thành kiến từ trước.
c. Ngăn ngừa
Interferon alfa (IFN) đã cho thấy lợi ích trong việc làm giảm hoạt động của virus trong nhiễm siêu vi B mãn. Tác nhân kháng virus Lamimidine cũng có tác dụng tương tự, nhưng chưa làm giảm tỉ lệ HCC.
Ngăn ngừa tốt nhất là tạo miễn dịch đối với siêu vi B. Ở Ðài Loan, tỉ lê HCC giảm 5 lần từ khi trẻ mới sinh được tiêm ngừa siêu vi B. Từ năm 1984, miễn dịch này đã thực hiện 95 quốc gia đa số ở Châu Âu.
Tuy nhiên, chưa có kế hoạch tạo miễn dịch đối với siêu vi B cho trẻ em ở Anh.
Cho tới bây giờ vẫn chưa có vaccin ngừa siêu vi C.
d. Ðiều trị phẫu thuật
Cắt bỏ gan là cách điều trị duy nhất cho khả năng chữa lành với bệnh phát triển và xơ gan chỉ 20% có thể phẫu thuật. Với mức độ cao của nhiều bệnh trạng phối hợp có 12% tử vong khi phẫu thuật.
Tỉ lệ tái phát cao (từ 20 - 100%) và không sống sót được từ 55%/một năm đến chỉ 15% sau 5 năm. Tái cắt gan có thể cố gắng được và điều này có thể cải thiện sống còn. Nếu khối u nhỏ (<3cm) ghép gan có thể thực hiện. Ghép gan có thể điều trị xơ gan.
Ghép gan được mổ từ đầu ở bệnh nhân HCC, nhưng với nhu cầu tăng với việc cung cấp cơ quan, những bệnh nào ghép cơ quan tốt hơn thì được ưu tiên.
Ðông lạnh hoặc chích trực tiếp vào khối u nhỏ với dầu hoặc ethamol thì được dùng thường qui ở Ðông Nam Á. Kỹ thuật này rẻ, dễ và gây ra hoại tử khối u nhanh, tạo ra hiệu quả trong việc kiểm soát đau của khối u. Tỉ lệ sống sót sau 1 năm 54 - 88%, đoạn cuối 18 - 51% sau 3 năm.
Khối u dễ tái đi tái lại và vì vậy phương pháp đông đặc nối tiếp nhau không có tiến bộ về khả năng sống còn trong các kỹ thuật này ở các nghiên cứu ở Tây Âu và việc điều trị không thích hợp cho các u lớn.
e. Hóa trị
Chưa có thuốc (bao gồm interferon và tamoxifan) cho thấy hiệu quả lâu dài trong điều trị HCC.
f. Ðiều trị phóng xạ
Ðiều trị phóng xạ có nhiều tai biến vì sự nhạy cảm của mô gan đối với hóa tia xạ. Ðiều trị xạ đối với mô gan thường gây viêm gan do tia xạ. Kỹ thuật mới về lý thuyết cho phép điều trị tia xạ tín hiệu cao để chữa lành HCC, nhưng hiện nay tiến trình này chỉ có thể được dùng để làm giảm đau.
HCC bất ethiodiol rất nhạy, kỹ thuật mới dùng I-Labelled ethiodiol cho liều điều trị xạ để lan đến khối u, đây là kỹ thuật đang được nghiên cứu nhiều kinh nghiệm.


2. HCC DẠNG FIBROLAMELLAR
Khoảng 15% HCC là dạng fibrolamellar, là dạng ung thư gan phát triển chậm. Bệnh này không liên quan xơ gan hay nhiễm siêu vi, và xảy ra ở bệnh nhân trẻ. Bệnh thường không đau, điều trị bằng cách cắt bỏ khối u và tỉ lệ sống còn sau 5 năm 40 - 50%.


3. NHỮNG KHỐI U HIẾM
U sarcone mạch máu trong một số trường hợp, hàng năm ở Anh. Liên quan đến sự tiếp xúc với thoratrast và làm việc với vinyl cloride trong công nghiệp. Không có điều trị nào cho khả năng sống còn.


4. UNG THƯ ÐƯỜNG MẬT
Là u ác xảy ra trong ống mật có thể có ở bất cứ chỗ nào của đường mật. Những u bên trong gan có thể được điều trị bằng cách cắt gan nếu được phát hiện sớm. Những khối u xa được điều trị bằng cách cắt bỏ tá tràng tụy.
Bệnh hay xảy ra ở tuổi 60 - 65, xảy ra đều ở 2 phái, những yếu tố nguy cơ cho thấy ở bảng 4.
a. Biểu hiện
Hầu hết bệnh nhân có vàng da, thỉnh thoảng đi kèm đau và sụt cân. Bệnh nhân có thể có sờ thấy túi mật. Maker chẩn đoán u là CA- 19 cao.
Chẩn đoán xác định bằng ERCP hoặc PTC.
b. Ðiều trị phẫu thuật.
Cắt bỏ u quanh rốn gan đòi hỏi tái tạo lại ống gan với sự mổ thông hỗng tràng gan. Nắn cắt bỏ gan một phần được đòi hỏi thì tử vong do phẫu thuật tăng, nhưng sống còn 5 năm được cải thiện 20  35%. Hầu như phân nửa bệnh nhân không thể cắt bỏ (thường vì nó bao trùm cả mạch máu gan) hoặc đã di căn.
Ghép gan không được thích hợp trong trường hợp này.
c. Hóa trị.
Phần lớn hóa trị không phổ biến, tuy nhiên phối hợp anthracycline với infusional 5FU (ECF) cho thấy có hiệu quả điều trị (nó cũng có hiệu quả ở các ung thư đường tiêu hóa trên).
Theo thử nghiệm ở bệnh viện Royal Marsden, Anh không có sự phối hợp nào cải thiện sống còn. Tất cả bệnh nhân được cho hóa trị nếu đủ thích hợp.
d. Xạ trị
Xạ trị có thể cải thiện sống còn khi phẫu thuật không cho phép. Nhưng kỹ thuật thích hợp cho xung quanh mô mỗi ngày kéo dài 6 - 7 tuần.
Ðiều trị chậm (đặt các nguồn tia xạ trong tạng để phân phối tia xạ) có thể dùng Ir đặt trong các ống mật có liên quan.


5. UNG THƯ TÚI MẬT.
Ung thư túi mật có biểu hiện và chẩn đoán tương tự viêm túi mật, thường tìm thấy tình cờ khi cắt túi mật. Khoảng 90% là andenocarinoma.
Tỷ lệ lớn (80%) bệnh nhân có tiền căn sỏi túi mật mặc dù ít hơn 1% bệnh nhân sỏi túi mật sẽ phát triển thành ung thư. Sự liên quan có thể không phải là nguyên nhân.
Nhiễm bệnh thương hàn là yếu tố thuận lợi ung thư túi mật. Phần lớn bệnh nhân tiến triển bệnh xa hơn túi mật do hệ Lynpho, và sự cắt bỏ rộng hơn chung quanh gan và hệ Lynpho cần phải làm. Sự xâm lấn tại chỗ với ruột lân cận thường được thấy.
Một trong hai bệnh nhân sẽ có di căn. Mức độ cao của di căn và xâm lấn tại chỗ cho tiên lượng xấu , khoảng 14% sống còn được 1 năm.


C. GIẢM ÐAU TẠM THỜI
Không có phẫu thuật chữa lành, tiên lượng khối u rất xấu. Tất cả đều gây vàng da và một số có thể có đau, chán ăn và mệt rất phổ biến như các ung thư khác.
* Stents
Stents cây đường mật sẽ kéo dài giảm đau do vàng da. Stents có thể được xuyên qua da dưới sự hướng dẫn của hình ảnh (đối với u quanh rốn gan) hoặc nội soi (nếu u ở xa). Stents bằng kim loại tự phồng ra được thường được chọn lựa cho bệnh nhân tiên lượng xấu để phòng khi cần thay đổi Stents thường xuyên. Stents có thể được đặt như là thủ thuật ban ngày.
Stents đặt dưới da liên quan tỉ lệ cao của rỉ mậ? và nhiễm trùng, và được xem xét do phẫu thuật bypass (nối túi mật hổng tràng), điều này cho kết quả tốt nhưng đắt tiền và bệnh nhân phải nằm nghỉ lâu hơn. Thử nghiệm lâm sàng ở Anh thường thực hiện so sánh điều trị giảm đau bằng Stents hoặc phẫu thuật Stents bệnh lý ác tính ở đường mật.
Ngứa do vàng da thường được làm giảm nhiều nhất do dẫn lưu đường mật, nhưng dễ nhất là cholestyramine và kháng histamine. Chúng tôi cũng thấy rằng thêm kháng H2 như Cimetidine với thuốc giảm đau về đêm cũng hữu ích trong trường hợp khó khăn.
*Ðau:
Giảm đau tại chỗ dễ dàng với xạ trị liều thấp, nhưng trong thường hợp có xâm lấn tại chỗ nặ?g, việc phân bố đám rối thân thạng được dùng để giảm đau tạm thời. Ðau gan từ HCC có thể dùng thuốc giảm đau Steroides hoặc non-steroides (dùng liều thấp nhất).
Bảng 1: Phương pháp điều trị ung thư di căn gan
 
Phương pháp nhiệt
- Siêu âm năng lượng cao, microwaves, đèn lạnh bằng laser, cắt bỏ bằng tia xạ.


- Ðông lạnh
-        Hoại tử điều trị trong vùng điều trị không chảy máu và vô trùng, nhưng việc điều trị giới hạn bởi kích thước đầu dò và đau do tỏ? thương bởi nhiệt các cấu trúc lân cận.
 
- Chỉ lượng nhỏ hoại tử mặc dù thời gian điều trị dài.
Chích trực tiếp
- Ethanol


- Paclitaxel, cisplatin và các tác nhân hóa trị khác.
- Hiệu quả trong trường hợp u nhỏ hơn 4cm, nhưng ethanol có thể rỉ vào phúc mạc gây đau.
- Bằng chứng hiệu quả từ các thử nghiệm lớn chưa có.
Các cách khác
Trị liệu:
photo - dynamic
Sự nhạy cảm với ánh sáng của mô khối u bằng thuốc cho phép năng lượng thấp được dùng để loại bỏ khối u, nhưng sự tiết chậm đòi hỏi bệnh nhân tránh ánh sáng ban ngày hơn 1 tuần.

Bảng 2: Những yếu tố nguy cơ phát triển HCC

Viêm gan siêu vi B
Nguyên nhân phổ biến nhất do HCC. Ước tính yếu tố liên quan cho sự phát triển HCC thay đổi từ 20 đến 250.
Viêm gan siêu vi C
Tương tự siêu vi B, thời gian chậm từ lúc nhiễm đến lúc phát triển HCC có thể 30 năm.
Bệnh gan do rượu
Cùng với yếu tố nguy cơ do rượu, tổn thương do rượu và HCC càng làm nặng thêm bệnh, xơ gan làm tăng nguy cơ HCC 3 11%
Haemachromatosis
Nguy cơ cao nếu xơ gan phát triển. Nguy cơ có thể giảm bằng cách làm giảm sắt để ngăn ngừa xơ gan.
Phái nam
Nam nhiều hơn nữ trong xơ gan, mặc dù tỉ lệ bằng nhau trong trường hợp không xơ gan.
Aflatoxin
Aflatoxin tích tụ trong thực vật dự trữ không tốt (đặc biệt ngũ cốc, đạm, bo bo, gạo) là tác nhân tiềm ẩn có thể gây ung thư.
Thuốc lá
Có bằng chứng nhưng chưa thể kết luận - yếu tố nguy cơ nhiều ở bệnh nhân HCC nhưng HBV (-) ở các nước đã phát triển.
Tiểu đường
Sự liên quan khá chặt chẽ được chú ý. Mức độ cao của Insuline về yếu tố tăng trưởng gồm insuline trong hệ cửa có thể đóng vai trò quan trọng.
Thoratrast
Tác nhân tia xạ tương phản (khôngcòn dùng nữa) tập trung trong gan đưa đến HCC.
Thuốc ngừa thai uống
Có hiếm trường hợp gặp trong trường hợp trùng kéo dài.

Bảng 3: Hiện tượng cận ung thư
Hiện tượng đặc trưng trong HCC
- Hạ đường huyết: có thể nhẹ trong giai đoạn cuối hoặc nặng trong trường hợp HCC phát triển chậm. Nguyên nhân chưa biết.
- Bất thường hồng cầu: xảy ra 3  12%
- Hạ calci máu
- Nữ hóa
- Nốt xuất huyết dưới da
- Tăng cholesterol máu:
Có thể xảy ra 10 - 40% do thiếu kiểm soát phản hồi ở tế bào u gan.


Bảng 4: Yếu tố nguy cơ đối với ung thư đường mật
* Sán lá gan
Nhiễm clonorchis sinensis (tỉ lệ cao ở phương đông) đưa đến ung thư ở vùng ký sinh trùng nhiều.
* Bệnh túi mật
Bệnh caroli (dản túi mật bẩm sinh) có thể đưa đến ung thư
* Viêm xơ đường ruột
Khoảng 40 % bệnh nhân viêm gan xơ đường ruột có bằng chứng ung thư đường mật trong một chuỗi giải phẫu tử thi.
* Viêm loét đại tràng.
Sự lưu hành ung thư trong bệnh nhân viêm loét đại tràng 0,2 - 1,4%. Yếu tố nguy cơ càng tăng trong trường hợp viêm toàn bộ đại tràng.

Thứ Năm, 26 tháng 4, 2012

Thuốc kích trứng

Thuốc kích trứng tăng gấp đôi nguy cơ ung thư cho trẻ

26-04-2012 19:01:06 | In bài viết In bài viết này
Theo VTC

Những phụ nữ đang rất khao khát có con và phải sử dụng thuốc kích trứng để đạt được mong ước đó của mình hãy nên cẩn trọng, bởi rất có thể họ sẽ mang đến nguy cơ ung thư cao gấp 2 lần cho chính đứa con của mình.

Các nhà khoa học Pháp vừa công bố công trình nghiên cứu trên vào hôm thứ 3 vừa qua, theo đó: những đứa trẻ được sinh ra khi mẹ của chúng có sử dụng thuốc kích trứng, sẽ có nguy cơ cao gấp 2 lần mắc phải căn bệnh bạch cầu (là một dạng ung thư ác tính, ảnh hưởng tới tủy xương và các mô tạo huyết).
 
Các nhà nghiên cứu tại Trung tâm dịch tễ và sức khỏe cộng đồng tại Paris đã tìm thấy mối liên hệ giữa việc sử dụng thuốc kích trứng và khả năng tăng lên đến 2.6 lần của căn bệnh bạch cầu lymphoblastic cấp tính (ALL)- một dạng phổ biến nhất. Trong khi đó với loại bạch cầu myeloid cấp tính (hiếm gặp hơn) thì nguy cơ này vẫn cao gấp 2.3 lần.
 
Ngoài ra các nhà khoa học còn nhận thấy: những đứa trẻ có mẹ phải vật lộn để có thể thụ thai trong hơn 1 năm cũng sẽ có tới 50% phát triển thành ALL.
 
 
Điều đáng mừng là trong khi quan sát các bà mẹ của 764 trẻ em người Pháp được chẩn đoán bị bệnh bạch cầu cấp tính và 1.681 trẻ không mắc phải căn bệnh này, các nhà khoa học không tìm thấy bất cứ mối liên hệ nào giữa phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm hoặc thụ tinh nhân tạo với nguy cơ tăng lên của căn bệnh trên.
 
TS Jeremie Rudant- người đứng đầu công trình nghiên cứu cho biết: vấn đề có thể là do các công nghệ hỗ trợ sinh sản là khởi nguyên cho sự bùng phát ung thư ở trẻ em bởi chúng liên quan tới việc điều trị lặp đi lặp lại trong thời gian thụ thai, tác động nhiều đến tinh trùng và trứng. Và thực tế là phần lớn các trường hợp bị mắc phải căn bệnh bạch cầu mãn tính đều có nguồn gốc từ trước khi sinh.
 
Ông còn bổ sung thêm: thực ra đã có những công trình nghiên cứu trước đó đề cập tới mối quan hệ giữa các phương pháp điều trị vô sinh với căn bệnh bạch cầu cấp tính ở trẻ, nhưng chúng thực sự chưa nhiều và mới chỉ tập trung vào phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm và điều trị nội tiết tố.
 
Trong khi đó nghiên cứu này của các nhà khoa học Pháp có quy mô rộng hơn, và đây là lần đầu tiên cho thấy có mối liên hệ giữa thuốc điều trị vô sinh với việc tăng lên của căn bệnh bạch cầu.
 
Được biết trên thế giới hiện nay trung bình có khoảng 1/6 cặp vợ chồng đang gặp phải những vấn đề về sinh sản và có đến 250.000 trẻ em được sinh ra hàng năm là kết quả của những viên thuốc kích rụng trứng.
 
Ở Anh mỗi năm có khoảng 44.000 trường hợp điều trị vô sinh và tương ứng với chừng 400 trẻ bị mắc bệnh bạch cầu/năm.
 
Nghiên cứu trên đã được trình bày tại hội nghị thường niên về ung thư trẻ em năm 2012 tại Luân Đôn.

Cách tự xử lý an toàn các vết thương nhỏ

Cách tự xử lý an toàn các vết thương nhỏ

16-11-2009 21:19:27 | In bài viết In bài viết này

Đối với vết thương nhẹ, bác sĩ thường chỉ định về trạm y tế gần nhà chăm sóc vết thương mỗi ngày. Nhưng nếu bạn phải thay băng tại nhà thì nên lưu ý những nguyên tắc sau đây:

1. Nếu có vết thương, thì chắc chắn rằng vết thương đã được bác sĩ khám xét cẩn thận trước khi chăm sóc tại nhà để tránh những tình huống đáng tiếc xảy ra.
2. Khi có vết thương, bạn nên đi tiêm ngừa uốn ván (hay còn gọi phong đòn gánh) đúng và đủ liều.
3. Uống thuốc theo đúng chỉ định của bác sĩ để tránh nhiễm trùng và mau lành vết thương.
 
 
4. Chăm sóc vết thương có nghĩa là làm cho vết thương sạch hơn, không bị nhiễm trùng và mau lành. Nếu rửa vết thương không đúng cách bạn sẽ mang vi trùng từ nơi khác đến vết thương như: bàn tay của bạn, dụng cụ, hoặc những vật liệu dùng khi rửa vết thương.
Thông thường chúng ta nên rửa vết thương 1 lần/ngày, nếu rửa nhiều lần sẽ làm trôi lớp mô hạt trên bề mặt vết thương và làm cho vết thương chậm lành hơn. Nếu vết thương đã khô, có thể rửa 2 ngày một lần, hoặc để khô cho đến khi vết thương lành hẳn.
 
Việc chăm sóc vết thương thông thường tại nhà chúng ta chỉ nên dùng: Povidine (loại dùng ngoài da) để sát trùng và gạc vô trùng. Khi rửa vết thương thì chú ý rửa từ tâm vết thương ra vùng da lành theo hình xoắn ốc để tránh đưa vi trùng từ ngoài vào vết thương.
5. Sau ngày thứ 3 bạn cảm thấy ngứa ngay ở chỗ vết thương, điều đó có nghĩa là vết thương đang lành, thường là vết thương đã khô mày. Nên để hở vết thương (không băng kín lại) trong giai đoạn này. Từ giờ, chúng ta có thể nghĩ đến việc thẩm mỹ: không được gảy vùng vết thương, không để vết thương tiếp xúc với ánh nắng, và khi mày tự tróc ra bạn có thể dùng những loại chống sẹo.
6. Khi thấy bất cứ bất thường nào trong quá trình tự chăm sóc cần phải đi khám lại ngay, đặc biệt những dấu hiệu của tình trạng nhiễm trùng: sưng, đỏ, nóng, đau, sốt…
7. Đối với những vết thương thông thường không bị ảnh hưởng bởi chế độ ăn. Còn đối với vết thương mất mô, bạn cần ăn nhiều thức ăn giàu sắt và protein: thịt bò, thịt gà, tôm, cá… và rau xanh, trái cây cung cấp vitamin để vết thương mau lành.
Nhiều người thường nghĩ rằng vết thương nhỏ sẽ nhanh khỏi, nên chủ quan bỏ qua mà đâu biết rằng vết thương nhìn bề ngoài nhỏ đấy nhưng có thể ăn sâu qua lớp dưới da vào trong cơ, hoặc là vết thương có dị vật thì dễ nhiễm trùng và khó lành… Vì vậy, chúng ta càng phải chú ý hơn trong việc chăm sóc và điều trị theo đúng hướng dẫn của bác sĩ.

SƠ CỨU VÀ CHĂM SÓC VẾT THƯƠNG PHẦN MỀM

SƠ CỨU VÀ CHĂM SÓC VẾT THƯƠNG PHẦN MỀM
Vết thương là sự cắt đứt hay dập rách da và tổ chức dưới da hoặc các tổ chức khác của cơ thể.
Vết thương có thể là vết thương kín hoặc vết thương hở.
Vết thương kín (vết thương bên trong) là loại vết thương để cho máu thoát ra ngoài hệ thống tuần hoàn nhưng không chảy ra khỏi cơ thể. Loại này bao gồm: bầm tím, tụ máu dưới da hoặc có thể không có dấu tích ở bên ngoài.
Vết thương hở (vết thương bên ngoài) là loại vết thương để cho máu chảy ra khỏi cơ thể. Loại này bao gồm: các vết trích rạch, vết thương đâm xuyên hoặc thậm chí là vết trượt sây sát trên da.
Trên thực tế có nhiều vết thương vừa là vết thương kín vừa là vết thương hở.
Mục đích chính của việc cấp cứu và chăm sóc cấp cứu một vết thương là:
- Cầm máu hoặc khống chế sự chảy máu
- Phòng hoặc điều trị sốc
- Duy trì các chức năng sinh tồn (giúp nạn nhân thở và lưu thông tuần hoàn)
- Tránh các biến chứng (đặc biệt là giảm nguy cơ nhiễm KHUẨN)
1. SƠ CứU Và CHĂM SóC NHữNG VếT THU'ƠNG PHầN MềM
Nếu vết thương chảy nhiều máu phải tiến hành xứ trí cầm máu ngay (xem phần cấp cứu chảy máu ngoài)
1.1 Vết thương nhỏ:
1.1.1. Ðối với vết thương bể mặt nhỏ
Vết thương bề mặt nhỏ là vết thương chỉ làm tổn thương những lớp bề mặt của da nên chỉ cần rửa loại vết thương này bằng nước chín hoặc nước máy nếu biết chắc chắn rằng nước máy này đảm bảo chất lượng vệ sinh.
Nếu vết thương quá bẩn phải rửa bằng nước xà phòng.
- Khi rửa vết thương phải:
+ Rửa tay kỹ trước khi bắt đầu
+ Nếu phải dùng dụng cụ như cái kẹp, cái nhíp để gắp những hạt sạn, sỏi... ra khỏi vết thương thì phải đun sôi dụng cụ ít nhất là 5 phút.
+ Sau khi rửa vết thương, nếu có điều kiện thì dùng dung dịch sát khuẩn để sát khuẩn xung quanh vết thương rồi dùng gạc vô khuẩn đặt lên trên vết thương, sau đó dùng băng dính hoặc băng cuộn băng lại. Nếu không có điều kiện thì gấp một miếng vải càng sạch càng tốt để đặt lên trên vết thương (Lưu ý để mắặt có mép gấp ra ngoài) rồi cũng dùng băng đính hoặc băng cuộn băng lại.
+ NẾU VẾT THƯƠNG Ở tay hoặc chân thì luôn nâng cao vết thương bằng dây đeo hoặc gối kê.
Hình 174. Băng vết thương nhỏ bằng băng dính.
Hình 1 75. Băng bết thương nhỏ bằng băng cuộn.
1.1.2. Ðối với vết thương bề mặt rộng và sâu hơn.
Ðể vết thương liền nhanh hơn thì có thể đóng kín hoặc khâu vết thương lại. Nhưng chỉ đóng kín miệng một vết thương bề mặt sâu và rộng trong những điều kiện sau đây:
- Vết thương xảy ra chưa quá 12 giờ.
- Ðảm bảo chắc chắn rằng vết thương không còn đất cát hoặc dị vật ẩn náu trong đó.
- Không có khả năng tìm được cán bộ y tế chuyên khoa hoặc chuyên môn ca hơn và cũng không thể chuyển nạn nhân tới bệnh viện được.
Các phương pháp đóng kín miệng vết thương:
Phương pháp dùng băng dính: phương pháp này áp dụng cho những vết thương mà mép vết thương gần sát nhau.
Khi dùng băng dính để đóng kín vết thương nên cắt băng dính và dán băng dính như hình vẽ (cắt băng dính thành hình con bướm).
1.2. Vết thương lớn.
Ðối với vết thương lớn sau khi xử trí cầm máu có thể rửa xung quanh vết thương bằng dung dịch sát khuẩn hoặc bằng nước chín.
Chỉ lấy dị vật hoặc bụi bẩn ra khỏi vết thương khi có thể lấy ra dễ dàng. Không được thăm dò vết thương.
Sau đó băng bó vết thương rồi chuyển ngay nạn nhân tới cơ sở điều trị càng sớm càng tốt.
Trong khi chờ đợi và trên đường vận chuyển phải theo dõi sát nạn nhân. Giữ nạn nhân ở tư thế đúng, phòng chống và xử trí ngay nếu sốc xảy ra.
Chú ý: nếu có thể nên cố định vết thương vào phần không bị tổn thương của cơ thể và nâng cao vết thương, ví dụ: treo tay bị thương vào ngực, cố định chân bị tổn thương vào chân lành...
2. SƠ CứU Và cHĂM SóC CấP CứU VếT THƯƠNG NặNG.
MỘT VẾT THƯƠNG SÂU Ở thành bụng là rất nguy hiểm không phải chỉ vì sự chảy máu ngoài mà còn vì những cơ quan bên trong cơ thể bị thủng, rách hoặc gây chảy máu trong và nhiễm khuẩn. Một phần của ruột có thể bị lòi ra khỏi thành bụng.
2.1. Dấu hiệu và triệu chứng.
- ĐAU KHẤP Ổ bụng
- Chảy máu từ vết thương ở vùng bụng
- Có thể nhìn thấy một phần của ruột hoặc một phần ruột đang lòi ra khỏi vết thương
- Nạn nhân có thể bị nôn
- CÓ THỂ CÓ dấu hiệu và triệu chứng của sốc.

Viện phí chưa tăng, giá thuốc đã tăng

Viện phí chưa tăng, giá thuốc đã tăng

Người bệnh thêm lo vì giá thuốc tăng, viện phí tăng. Ảnh minh họa: Thiên Chương.

Trong khi khung giá viện phí mới chưa được áp dụng thì hiện nay nhiều mặt hàng thuốc đã có sự tăng giá mạnh với tỷ lệ tăng trung bình 16% so với tháng trước. Trong đó có loại chỉ tăng vài nghìn đồng, nhưng có loại tăng 15.000-20.000 đồng.
> Chưa áp dụng giá viện phí mới

Ra hiệu thuốc gần nhà để mua thuốc bổ sung sắt cho vợ, anh Nam (Hà Nội) bất ngờ khi biết loại thuốc mình vẫn mua đã tăng giá. Trước và trong lúc mang thai, vợ anh đều uống thuốc Ferovit bổ sung sắt và axít folic với giá 80.000 đồng một hộp. Tuy nhiên, hôm nay đi hỏi mua thì hộp thuốc này đã lên giá 10.000 đồng.
"Theo người bán hàng thì loại thuốc này mới tăng giá từ đầu tháng 4. Đúng là giờ cái gì cũng tăng, thi thoảng đi mua thuốc lại thấy thuốc này tăng giá, tháng sau thì lại loại thuốc khác tăng giá. Nói chung là thuốc chữa bệnh nên có tăng giá người mua cũng đành chịu, đắt cũng phải mua", anh Nam cho biết.
Theo khảo sát của Hiệp hội doanh nghiệp dược Việt Nam, trong tháng 4 thuốc nội tăng giá nhiều và tăng cao hơn thuốc ngoại. Cụ thể, trong số gần 12.700 lượt mặt hàng thuốc nội thì có 65 loại tăng giá. Đáng chú ý có những loại tăng đến hơn 40% như thuốc tim mạch Trafedin, nhỏ mắt Osla, thuốc bổ, cung cấp khoáng chất và vitamin như Nebamin...
Một số loại có tỷ lệ tăng rất mạnh như dầu gió Thiên Thảo tăng thêm 16.000 đồng một hộp - lên mức 120.000 đồng, thuốc Bạch Hổ dạng hộp cũng tăng thêm đến 27.000 đồng...
So với đợt khảo sát 2 tháng trước thì giá thuốc đã có sự tăng mạnh. Thời điểm đó chỉ 23 loại thuốc nội tăng giá và tỷ lệ tăng trung bình cũng chưa đến 10%. Trong đó, giá cũng chỉ tăng rất nhẹ, 2.000-3.000 đồng và chỉ có 2 loại thuốc tăng trên 10.000 đồng.
Bên cạnh đó, trong tháng 4 này, một số loại thuốc ngoại cũng có tỷ lệ tăng mạnh như kháng sinh Augmentin 500mg dạng hộp giá hiện nay là 175.000 đồng một hộp, tăng 17.000 đồng. Đặc biệt, thuốc Stugerol tăng thêm 45.000 đồng một hộp.
Dù thế, theo Hiệp hội doanh nghiệp dược Việt Nam thì thị trường dược phẩm vẫn tương đối ổn định bởi có mặt hàng tăng giá, cũng có một số mặt hàng giảm giá với số lượng tăng và giảm không nhiều và tỷ lệ tăng giá không đột biến. Thực tế thì đây đã là đợt tăng giá thuốc thứ 2 kể từ đầu năm. Dù mỗi lần chỉ tăng giá vài loại thuốc nhưng cũng khiến người dân không khỏi lo lắng.
Một dự báo quen thuộc của Hiệp hội doanh nghiệp dược Việt Nam vẫn là "trong tháng tới, thị trường dược phẩm trong nước không có tăng giá đột biến, giá các mặt hàng nguyên liệu có thể điều chỉnh tăng hoặc giảm nhẹ. Một số mặt hàng thuốc sản xuất trong nước có thể tăng do các yếu tố đầu vào cho sản xuất như điện, nguyên phụ liệu, xăng dầu, chi phí vận tải, lương… tăng". Trong khi thực tế, khảo sát 40 lượt mặt hàng nguyên liệu trong tháng 4 vừa rồi thì chỉ có một mặt hàng tăng giá 5,5%.
Thông tư liên tịch số 50 của liên Bộ về quản lý giá thuốc sắp có hiệu lực được kỳ vọng sẽ là công cụ ngăn chặn tình trạng loạn giá thuốc. Tuy nhiên dù vẫn chịu sự kiểm tra, kiểm soát của cơ quan quản lý nhà nước nhưng mức giá lại do các cơ sở kinh doanh thuốc tự định giá. Như thế thì các cơ sở kinh doanh thuốc có nhiều cách "lách" rất tinh vi.
Trong khi đó, có thể trong tháng 5-6 tới, một số bệnh viện tuyến trung ương sẽ áp dụng khung giá viện phí mới. Trong khi đó, giá thuốc vẫn liên tục tăng cao, đồng nghĩa người bệnh sẽ chịu một gánh nặng kép. Trong cơ cấu chi phí dành cho khám chữa bệnh, tiền thuốc luôn chiếm tỷ lệ lớn (khoảng 60%) tổng chi phí viện phí và là gánh nặng của nhiều người bệnh.
Phương Trang

Những Điều Cần Biết Khi siêu âm Thai Kỳ

Những Điều Cần Biết Khi siêu âm Thai Kỳ
Những Điều Cần Biết Khi siêu âm Thai Kỳ Siêu âm là phương pháp dùng sóng tần số cao để kiểm tra bên trong cơ thể. Sóng tần số này cao đến mức, con người không thể nghe được. Sóng siêu âm hướng đến khu vực cần được siêu âm bằng một máy dò cầm tay nhỏ. Máy này sẽ phản chiếu hình ảnh trên màn hình siêu âm.
Thực hiện

Khi tiến hành siêu âm, bác sĩ sẽ thoa lên bụng bầu một loại thuốc nhờn, giúp sóng siêu âm có thể chuyển dịch từ máy dò vào bên trong cơ thể. Máy dò được xoa lên khắp bề mặt bụng bầu cho đến chỗ hình ảnh được nhìn thấy rõ nhất thì dừng lại.

Không cần nhịn tiểu để có đầy nước trong bàng quang

Trong những tuần lễ đầu của thai kỳ, tử cung (dạ con) và buồng trứng nằm sâu bên trong khung chậu và thường bị ruột che lấp, vì vậy, sóng siêu âm không đi xuyên qua được. Khi đó, nếu siêu âm sẽ không thấy khung chậu và tử cung. Khi bàng quang căng đầy do nước tiểu, ruột bị đẩy ra chỗ ngay bên cạnh.
Mô tả ảnh.

Giai đoạn sau của thai kỳ, tử cung lấn cao lên khỏi khung chậu. Nếu bàng quang căng nước tiểu thì dễ dàng thấy phần dưới của tử cung hơn. Nhưng điều này cũng không cần thiết. Vì thế, trước khi siêu âm bạn không cần nhịn tiểu để bàng quang được đầy.

Ảnh hưởng của sóng siêu âm

Siêu âm là phương pháp khám thai phổ biến gần 30 năm nay. Nhiều nghiên cứu chứng minh, chưa có bằng chứng của việc siêu âm gây hại cho mẹ và bé. Tần suất siêu âm của mỗi thai phụ là khác nhau. Có người chỉ siêu âm vài ba lần nhưng cũng có người siêu âm đến hàng chục lần trong toàn bộ thai kỳ.

Giới hạn của siêu âm

Siêu âm giúp phát hiện bất thường trong bào thai nhưng không phải phương pháp chính xác để chấn đoán những bất thường đó. Phần lớn trường hợp, để kết luận dị tật bào thai, siêu âm phải được tiến hành cũng những phương pháp xét nghiệm khác như chọc dò ối…

Mục đích của siêu âm

Siêu âm có một số vai trò như sau:

- Tính ngày sinh dự kiến.

- Kiểm tra thai có phát triển bình thường trong giai đoạn đầu không.

- Xác định số bào thai (song thai, đa thai).

- Kiểm tra vị trí nhau thai.

- Theo dõi sự phát triển của bào thai ứng với tuổi thai.

Sau tháng thứ ba, siêu âm có thể cho kết quả rõ, chi tiết về chân tay và nhiều bộ phận của thai nhi, kể cả xương sống, tim, bàng quang… Ngoài ra, siêu âm còn cho những hình ảnh liên tục, không bị gián đoạn nên là công cụ đắc lực khi tiến hành chọc dò ối.

Hình ảnh từ siêu âm

Siêu âm cho hình ảnh từng lớp hay từng phần một. Hình siêu âm giống như lát bánh lấy ra từ một ổ bánh mỳ. Hình hiển thị trên máy có thể không cho thấy toàn bộ cơ thể của bé mà chỉ cho biết từng bộ phận. Chẳng hạn, một bức hình cho thấy đầu và thân của bé, bức khác hiển thị chân của bé.
Tìm hiểu phương pháp dùng máy dò âm đạo

Thai phụ có thể được bác sĩ kiểm tra với một máy dò đặc biệt ở âm đạo. Phương pháp này hơi khó chịu nhưng không gây hại cho thai.

Thử que thử thai và đọc kết quả thế nào cho đúng

Thực tế, những thử nghiệm thử thai không hề đơn giản như một số chị em vẫn nghĩ. Có rất nhiều thắc mắc và lo lắng xung quanh thử nghiệm này!

Câu hỏi 1. Khi tôi kiểm tra nước tiểu của mình để phát hiện có đang mang bầu hay không, tôi thấy 1 vạch đầu tiên trên que thử có màu hồng nhưng màu đó lại biến mất sau một vài phút. Vậy tôi có thai hay không? (Ngọc Hà, ĐN)

Trả lời:
Ngọc Hà thân mến!
Thường thì nếu vạch báo hiệu trên que thử biến mất thường cho thấy một kết quả tiêu cực: Bạn đang không mang thai. Tuy nhiên để chắc chắn điều này, bạn nên tiếp tục một thử nghiệm lần 2 với que thử để kiểm tra một kết quả chính xác nhất nhé.

Câu hỏi 2. Khi tôi dùng que thử để thử thai, lúc ban đầu nó chỉ có một vạch và báo hiệu một kết quả là tôi không mang thai. Tuy nhiên, cứ để que thử đó trong 1h sau tôi lại thấy một vạch màu hồng nữa xuất hiện trên que thử. Tôi nên kết luận thử nghiệm với que thử của mình như thế nào đây? (Quế Chinh, 24 tuổi)

Trả lời:
Chào Quế Chinh!
Ở trường hợp của bạn, có hai khả năng có thể xảy ra. Trước tiên, bạn có thể đang mang thai nhưng mức độ hormone hCG còn thấp.
Thứ hai, vạch màu hồng đã xuất hiện trong que kiểm tra của bạn sau 1h có thể là do bốc hơi hoặc phản ứng một số hóa chất trong môi trường xung quanh. Do đó, để biết kết quả chính xác, bạn cũng nên thực hiện thử nghiệm này thêm một lần nữa cách khoảng 1 tuần sau đó.

Câu hỏi 3. Mình nên làm gì nếu thấy kết quả thử nghiệm que thử là âm tính - một vạch (không mang bầu) nhưng chu kỳ nguyệt san của mình thì lại lặn mất tăm gần 2 tháng nay? (Minh Hạ, 26 tuổi)

Trả lời:
Chào Minh Hạ!
Nếu bạn đang rơi vào tình cảnh này thì hãy cố kiên nhẫn chờ đợi thêm một tuần nữa và sau đó lại kiểm tra nước tiểu của bạn với một que thử thai mới nhé.
Nếu tại thời điểm lần thử thứ 2 này, que thử cũng vẫn cho kết quả âm tính và bạn vẫn không thấy cô nàng nguyệt san ghé thăm thì bạn nên tham khảo ý kiến của một bác sĩ chuyên khoa càng sớm càng tốt. Rất có thể, cô nàng "đèn đỏ" không ghé thăm bạn nữa do một số bệnh tật trong cơ thể gây nên chăng?

Câu hỏi 4. Không hiểu sao trước khi dùng que thử, mình đã nhận được kết quả báo hiệu là đang có thai. Tuy nhiên mình lại thấy máu nguyệt san như bình thường. Mình đang không hiểu gì hết! (Nguyên Thảo, HCM)

Trả lời:
Bạn Nguyên Thảo thân mến!
Một lần nữa, ở trường hợp của bạn có hai khả năng có thể xảy ra. Có thể bạn đã có thai nhưng thai của bạn đã bị sẩy sau đó. Hoặc trong máu kinh nguyệt ngày đầu tiên của bạn có chứa hormone hCG trong đó. Vì thế, bạn nên tham khảo ý kiến một chuyên viên y tế để xác nhận với một số thử nghiệm khác.
Thứ hai, không loại trừ trường hợp que thử thai đã cho bạn một kết quả sai.

Câu hỏi 5. Mình nghe nói rằng, kết quả thử nghiệm mang thai có thể bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác nhưng chỉ cần thử thai bằng que thử thai là đủ. Có khi nào mức độ hormone hCG có trong nước tiểu mà không phải do mang thai không? (Nguyễn Hoa, HN)

Trả lời:
Nguyễn Hoa thân mến!
Thực tế, thử nghiệm mang thai với que thử có thể phát hiện sự hiện diện của hormone hCG trong nước tiểu. Tuy nhiên, mặc dù độ chính xác 99%, nhưng bạn không nên chỉ dựa vào kết quả tích cực thể hiện qua việc kiểm tra với que thử thai mà nên phải xác nhận chính xác bởi một bác sĩ chuyên khoa.
Ngoài ra, trong trường hợp u nang buồng trứng và mang thai ngoài tử cung mức độ hormone hCG cũng tăng trong cơ thể người phụ nữ.

Câu hỏi 6. Mình đang rất muốn dùng que thử thai để thử kết quả. Tuy nhiên cô bạn đồng nghiệp củ mình lại khuyên mình đến bệnh viện để thử máu hoặc xét nghiệm nước tiểu vì chúng sẽ cho kết quả chính xác hơn. Điều này thực hư thế nào? (Bình Lan, HN)

Trả lời:
Bạn thân mến!
Đúng là một xét nghiệm máu luôn luôn chính xác hơn tuy nhiên bạn phải mất khá nhiều thời gian và chi phí cho nó cũng đắt đỏ hơn nhiều so với khi sử dụng que thử thai.
Ngoài ra, xét nghiệm máu có 2loại: định lượng và định tính. Các xét nghiệm máu định lượng có thể phát hiện hàm lượng rất thấp của hormone hCG, vì thế kết quả của nó không phải luôn luôn chính xác.
Các xét nghiệm máu định tính đưa ra một câu trả lời có hoặc không có. Theo đó mức độ hormone hCG mức dưới 5 được lấy làm kết quả thử nghiệm tiêu cực (không mang thai) trong khi mức độ hormone hCG trên 5 được coi là kết quả tích cực (có thai).
Vì thế, có vẻ như một bước thử nghiệm mang thai không phải là 100% là đáng tin cậy. Bạn nên tìm lời khuyên của bác sĩ nếu bạn có triệu chứng mang thai.
Thảo Nguyên (Theo Buzz)

Hội chứng down

Hội chứng Down (HC Down) do bác sĩ Langdon Down lần đầu tiên mô tả tình trạng bệnh năm 1887. Đến năm 1957 nguyên nhân bệnh được phát hiện là do thừa một nhiễm sắc thể số 21 trong bộ gen còn gọi là tam thể 21 hoặc trisomy 21 (tri-xô-mi 21).
Bệnh gây ra tình trạng chậm phát triển thể chất và tâm thần và có tần suất khoảng 1:700 trẻ sơ sinh. Các triệu chứng của HC Down có thể rất khác nhau giữa các trẻ mắc bệnh. Có trẻ cần phải được điều trị và chăm sóc rất nhiều nhưng có trẻ cần ít sự chăm sóc hơn.
Hội chứng Down không thể điều trị khỏi tuy nhiên có thể chẩn đoán sớm trong thời kỳ mang thai trước khi trẻ được sinh ra.

Cơ chế gây HC Down

Bình thường thai được thừa hưởng vật chất di truyền gồm 46 nhiễm sắc thể, trong đó có 23 nhiễm sắc thể từ mẹ và 23 nhiễm sắc thể từ cha. Tuy nhiên ở hầu hết các trường hợp HC Down, thai có 47 nhiễm sắc thể do có thừa một nhiễm sắc thể số 21. Chính sự dư thừa vật chất di truyền này gây nên các rối loạn về thể chất và trí khôn của trẻ.
Bộ nhiễm sắc thể của người nữ bị Trisomy 21
Bộ nhiễm sắc thể của người nữ bị Trisomy 21 (Hội chứng Down)
Nguyên nhân chính xác gây ra tình trạng rối loạn này vẫn chưa được xác định cụ thể ở từng người. Tuy nhiên, thống kê thấy rằng phụ nữ từ 35 tuổi trở lên có nguy cơ sinh con bị HC Down tăng lên rõ rệt. Ở tuổi 30 nguy cơ sinh con HC Down khoảng 1:1000. Có nghĩa là 1000 phụ nữ 30 tuổi sinh con thì chỉ có 1 người sinh con bị HC Down. Tuy nhiên nguy cơ này tăng lên 1:400 ở phụ nữ 35 tuổi và 1:60 ở phụ nữ 42 tuổi.

Các rối loạn ở trẻ bị HC Down

Các trẻ bị HC Down thường có chung một số đặc điểm về thể chất như mặt dẹt, mắt xếch, tai nhỏ, rãnh khỉ (là rãnh ngang liên tục ở lòng bàn tay) và lưỡi dầy và dài. Đặc biệt khi lớn khuôn mặt của các trẻ bị bệnh rất đặc trưng, dễ nhận biết và giống nhau giữa các trẻ nên dân gian còn gọi là ‘bệnh mặt giống’.
Khi mới sinh trẻ bị HC Down thường có trọng lượng và kích thước bình thường. Nhưng sau đó trẻ có khuynh hướng phát triển chậm hơn so với trẻ bình thường cùng tuổi.
Trương lực cơ mềm và khớp lỏng lẻo cũng là đặc điểm của trẻ bệnh HC Down. Mặc dù hầu hết đều cải thiện nhưng nhìn chung trẻ bị HC Down sẽ có quá trình phát triển như biết ngồi, bò và đi chậm hơn so với trẻ bình thường.
Ở trẻ sơ sinh, tình trạng nhược cơ có thể gây khó khăn trong việc nuôi bú, nuôi ăn, táo bón và các vấn đề tiêu hóa khác. Ở trẻ lớn có thể bị chậm phát triển ngôn ngữ, kỹ năng tự chăm sóc như ăn uống, mặc quần áo và đi vệ sinh.
Trí thông minh và khả năng nhận biết của trẻ bị HC Down thường bị chậm phát triển từ nhẹ tới vừa. Trẻ có thể học và phát triển các kỹ năng nhưng thường rất chậm và phải học suốt đời. Ngoài ra khả năng này thay đổi rất khác nhau giữa các trẻ và không thể đoán trước được.
Trẻ bị HC Down thường bị kèm theo các bất thường bẩm sinh khác trong đó dị tật bẩm sinh tim là phổ biến nhất như thông liên thất, còn ống động mạch, tứ chứng Fallot (pha-lô). Ngoài ra còn có các dị tật khác về thính giác, thị giác, rối loạn tuyến giáp, bất thường về tiêu hóa, động kinh, các vấn đề về hô hấp, béo phì, dễ bị nhiễm trùng và ung thư bạch huyết.

Chẩn đoán trước sinh

Có hai loại xét nghiệm để phát hiện HC Down ở thai gồm xét nghiệm tầm soát và xét nghiệm chẩn đoán. Xét nghiệm tầm soát giúp ước lượng được nguy cơ HC Down ở thai còn xét nghiệm chẩn đoán giúp xác định chính xác có hay không HC Down ở thai.
Mặc dù xét nghiệm tầm soát thường không đau và không xâm lấn nhưng nó lại không thể đưa ra câu trả lời chắc chắn liệu thai có bị HC Down hay không. Vì thế giá trị chủ yếu của xét nghiệm tầm soát là cung cấp thông tin giúp cho các cặp vợ chồng quyết định có thực hiện xét nghiệm chẩn đoán hay không.
Các xét nghiệm chẩn đoán có khả năng phát hiện HC Down và một số rối loạn nhiễm sắc thể khác với độ chính xác rất cao hơn 99%. Tuy nhiên do xét nghiệm đòi hỏi phải thực hiện một số thủ thuật xâm lấn trong tử cung như chọc hút dịch ối hoặc sinh thiết gai nhau có liên quan đến nguy cơ sẩy thai và các tai biến khác ở thai. Vì thế xét nghiệm chẩn đoán thường chỉ áp dụng cho các thai phụ có nguy cơ cao sinh con bị HC Down qua xét nghiệm tầm soát, phụ nữ trên 35 tuổi hoặc tiền sử gia đình có bất thường di truyền.

Chẩn đoán sau sinh

Sau khi sinh, trẻ bị HC Down thường dễ nhận biết và được chẩn đoán bằng cách lập bộ nhiễm sắc thể (karyotype) của tế bào máu để xác định cấu trúc và số lượng của nhiễm sắc thể số 21 ở trẻ.

Chuận bị gì trước khi mang thai

Khi bạn chuẩn bị mang thai, bên cạnh những chuẩn bị về tâm lý và tài chính, một điều không thể thiếu là sự chuẩn bị về sức khỏe của hai vợ chồng. Vậy bạn cần phải chuẩn bị những gì?
Sau đây là một số việc cần làm theo thứ tự thời gian:

6 tháng trước khi mang thai

Nếu bạn quá gầy hay quá béo thì đây là thời điểm thích hợp để bạn thay đổi chế độ ăn hàng ngày nhằm đảm bảo cân nặng của mình nằm trong giới hạn chuẩn. Chỉ số BMI - hay gọi là chỉ số khối cơ thể - được dùng để đánh giá mức độ gầy hay béo của mỗi người. Chỉ số BMI được tính như sau: BMI = Cân nặng / (chiều cao x chiều cao). Trong đó: Cân nặng tính theo đơn vị Kg, chiều cao tính theo đơn vị Met.
  • Nếu chỉ số BMI < 18,5: Bạn quá gầy. Nghiên cứu cho thấy những phụ nữ có BMI < 18,5 có nguy cơ sẩy thai cao hơn bình thường 17%.
  • Nếu chỉ số BMI > 23: Bạn quá béo và nếu có thai, trẻ đẻ ra có nguy cơ mắc các bệnh béo phì và bệnh tiểu đường.
Bạn và chồng cũng cần thống nhất về việc ngừng hoặc bỏ thuốc lá, rượu và các chất kích thích... vì các chất này ảnh hưởng đến chất lượng tinh trùng cũng như làm tăng các nguy cơ: sẩy thai, thai chết lưu, đẻ non, gây dị tật cho thai nhi...

3 tháng trước khi mang thai

Bạn có thể đi tiêm phòng một số bệnh như: cúm, Rubella  vì nếu mắc những bệnh này trong 3 tháng đầu của thai kỳ thì thai nhi có nguy cơ bị dị tật bẩm sinh rất cao.

Nếu ở Hà Nội bạn có thể tiêm phòng ở một số địa chỉ:

  • Phòng khám đa khoa hữu nghị việt phápi - 112, phố mai dịch, cầu giấy, điện thoại: 04.66741651
  • Trung tâm Y tế dự phòng sở Y tế Hà Nội  - 50C Hàng Bài, điện thoại: 04.8229263 
  • Trung tâm tiêm chủng Quốc Tế - 4 Sơn Tây, điện thoại: 04.7339803

Nếu bạn ở TP. Hồ Chí Minh bạn có thể tiêm phòng ở:

  • Viện Pasteur TP.HCM tại số 282 Nam Kỳ Khởi Nghĩa Phường 8 Quận 3 TP.HCM
  • Đội Y tế Dự phòng của các Trung tâm Y tế Quận Huyện..
Nếu bạn đang sử dụng thuốc tránh thai hoặc đang đặt vòng thì đây cũng là thời điểm thích hợp để dừng thuốc hoặc tháo vòng và chuyển sang sử dụng biện pháp tránh thai khác thích hợp hơn (VD: bao cao su).
Ngoài ra, hãy đảm bảo bạn tiêm vaccin ít nhất trước khi mang thai 1 tháng. 

2 tháng trước khi mang thai

Bạn và gia đình nên tẩy giun vì bạn sẽ ko thể tẩy giun trong khi mang thai. Đặc biệt cần phải tẩy giun cho toàn bộ thành viên trong gia đình cùng một thời gian để đảm bảo không có sự lây chéo ngược lại.

1 tháng trước khi có thai

Bạn hãy bắt đầu uống bổ sung viên Sắt và acid Folic để phòng tránh dị tật ống thần kinh cho thai nhi. Việc bổ xung Acid folic quan trọng nhất là trước khi mang thai 1 tháng và sau đấy 3 tháng. Bạn nên bổ sung trước khi mang thai 3 tháng và tiếp tục uống acid folic kèm với sắt đến khi sau khi sinh một tháng (Bạn nên lựa chọn viên sắt có chứa 60mg sắt nguyên tố, và acid folic: 400mcg).
Ngoài ra hai vợ chồng bạn nên thu xếp đi kiểm tra sức khỏe toàn diện. Bác sỹ sẽ cho các bạn làm một số xét nghiệm sau:
  • Xét nghiệm công thức máu: Xem bạn có bị mắc các bệnh về máu như: thiếu máu, bất thường tế bào máu... cũng như cho bạn biết nhóm máu của mình.
  • Xét nghiệm hóa sinh máu: Xem bạn có bị mắc bệnh tiểu đường, đánh giá chức năng gan, thận cũng như phát hiện các bất thường khác nếu có.
  • Xét nghiệm nước tiểu: Tìm các yếu tố bất thường trong nước tiểu như: hồng cầu, bạch cầu, protein, glucose, vi khuẩn...
  • Siêu âm ổ bụng: Đánh giá về hình thái học và phát hiện các bất thường các tạng trong ổ bụng như: gan, lách, tụy, thận, tử cung, buồng trứng.
  • Điện tâm đồ: Phát hiện các bệnh về tim như: rối loạn nhịp tim, nhồi máu cơ tim...
  • Xét nghiệm một số bệnh lây truyền qua đường máu: như Viêm gan B, HIV...
  • Khám phụ khoa: Phát hiện các yếu tố nguy cơ có thể ảnh hưởng đến việc mang thai như: Viêm nhiễm đường sinh dục, polyp cổ tử cung..
  • Khám nha khoa: Rất nhiều bà mẹ vì không coi trọng mà bỏ qua bước khám này. Trên thực tế, phụ nữ trong quá trình mang thai và sau khi sinh rất dễ mắc các bệnh răng miệng do phải ăn số lượng nhiều, ăn nhiều bữa. Thao tác đơn giản là lấy cao răng sẽ giúp các bạn hạn chế được nguy cơ mắc các bệnh: viêm lợi, viêm quanh cuống, abces răng... vì nếu mắc các bệnh này trong thời kỳ mang thai hay thời kỳ cho con bú sẽ gây khó khăn cho việc điều trị.
Bác sỹ Phương Thảo - www.hiemmuon.vn