Thứ Tư, 12 tháng 11, 2014

CHUYÊN ĐỀ: VIÊM PHÚC MẠC DO TỤ CẦU KHUẨN

CHUYÊN ĐỀ: VIÊM PHÚC MẠC DO TỤ CẦU KHUẨN
(Bài dịch từ sách ” Division of Infection, St. Thomas”s Hospital, London, United Kingdom” trang 376-379
Bài viết tường thuật về một ca lâm sàng của một bệnh nhân bị viêm phúc mạc do nhiễm tụ cầu( pneumococcal peritonitis) sơ cấp của một phụ nữ trẻ mà không có những dấu hiệu đặc trưng, và còn có 26 trường hợp khác của viêm phúc mạc do phế cầu trong vấn đề về sức khỏe của thanh thiếu niên. Bệnh này thường rất hiếm ở người trẻ tuổi mà không có các bệnh lý như xơ gan, cổ trướng, hội chứng về thần kinh, bệnh tự miễn, hoặc ngộ độc. Nó xuất hiện hầu như riêng biệt ở những người phụ nữ, và trong phần lớn bệnh nhân, có một khả năng xuất hiện trong đường sinh dục của cá thể. Một số  ít trường hợp có thể do viêm ruột thừa cấp. Mặc dù viêm phúc mạc này thường chưa có kháng sinh, nhưng điều trị phẫu thuật can thiệp kết hợp với kháng sinh rất tốt cho bệnh nhân.
Viêm phúc mạc phế cầu khuẩn được nhận biết rõ ràng ở trẻ em nhưng hiếm ở người trưởng thành, những người thường bị xơ gan hoặc các hội chứng về thần kinh. Có nhiều mẫu báo cáo về sự lây lan của bệnh viêm phúc mạc do phế cầu khuẩn ở những bệnh nhân trải qua việc thẩm phân phúc mạc vẫn đi lại được, những người do cấy ghép xương tủy, và những người viêm thấp khớp hay bệnh ban đỏ lupus. Hơn nữa, viêm phúc mạc do phế cầu khuẩn đôi khi liên quan đến viêm nhiễm đường sinh dục ở những người phụ nữ. Trường họp mô tả dưới đây là của một người phụ nữ bị nhiễm phế cầu dẫn tới viêm phúc mạc sơ cấp mà không có triệu chứng điển hình, và tổng kết lại tài liệu về chứng nhiễm khuẩn này.
CA LÂM SÀNG
Một người phụ nữ 36 tuổi nhập viện vì đau ở vùng thượng vị suốt ba ngày và tiêu chảy, nôn ói trong 2 ngày. Tiền căn bản chưa ghi nhận bất thường, và không có bất cứ một hội chứng hô hấp hay phụ khoa nào trước đây. Bệnh nhân không đặt vòng hay sử dụng bất kỳ liệu pháp tránh thai nào trong tử cung. Cô ấy đã kết hôn, không quan hệ tình dục với bất cứ ai khác và không có nguy cơ nhiễm HIV. Thăm khám thực thể, sức khỏe bệnh nhân không được tốt, sốt 39 độ C, mạch 120 lần/phút, huyết áp chưa ghi nhận bất thường. Có một vết đau âm ỉ ở bụng mà không tìm thấy ở khung chậu. Xét nghiệm công thức máu thấy bạch cầu là 7.6 x 10^9/L với một mức chênh lệch bình thường, và mức protein C-reactive là 273. Qua cấy máu, bệnh nhân được điều thị bằng thuốc kháng sinh cefuroxime và metronidazole qua đường tĩnh mạch.
Mặc dù điều trị kháng sinh và điều trị hỗ trợ, bệnh nhân vẫn còn nhiễm độc và sốt. Siêu âm bụng cho thấy một lương dịch lỏng trong ổ bụng và nghi ngờ là viêm phúc mạc, và đã làm một cuộc mổ để giải quyết ổ nhiễm trùng mà không làm thủng tạng nào. Ruột thừa, tử cung, buồn trứng, vòi trứng đều bình thường. Một đoạn quai ruột non được bao phủ bởi một lượng dịch mỏng rỉ ra chứa nhiều tụ cầu gram dương; ngày tiếp theo, nuôi cấy dịch mủ thì thấy xuất hiện Phế cầu khuẩn( Streptococcus pneumonia, serotype 1). Phế cầu cũng được phân lập trong máu của bệnh nhân. Cô ấy được chuyển sang tăng cường chăm sóc đặc biệt với hỗ trợ thuốc kích thích co bóp tim, và máy thở. Thuốc kháng sinh cũng được đổi sang tiêm amoxicillin theo đường tĩnh mạc, liều 500 mg t.i.d trong vòng 10 ngày.
Bệnh nhân có những đáp ứng ban đàu rất tốt sau khi phẫu thuật nhưng rất khó để phục hồi hô hâp do sự suy yếu của các cơ hô hấp và không có khả năng làm sạch chất tiết. Việc cố gắng rút ống thông nội khí quản không thành công, và thủ thuật mở khí quản được tiến hành. Bệnh nhân bị rối loạn về hoạt động hành tủy khi hít phải các chất rắn và khí. Sự nghiên cứu cho thấy không có bằng chứng nào về bệnh nhược cơ, xơ cứng hay bất cứ nguyên nhân rõ ràng nào cho các triệu chứng suy cơ của bệnh nhân. Bệnh nhân cũng không có bệnh sử rối loạn do khối ung thư, nhưng cũng không có nghiên cứu sâu hơn. Tình trạng của bệnh nhân tốt hơn, được cải thiện sau một một vài tuần điều trị hỗ trợ, vậy lý trị liệu, và một vài điều trị khác kèm đóng khí quản. Bệnh nhân xuất viện sau 7 tuần và tình trạng đã khá tốt.
TỔNG KẾT NGHIÊN CƯU TRƯỚC ĐÂY
Nhiễm bệnh viêm phúc mạc do phế cầu khuẩn tụ phát ở trẻ em đã được nhận dạng từ 100 năm trước. Tỷ lệ nhiễm bệnh ccao nhất vào khoảng đọ tuổi từ 5 đến 7 tuổi và xuất hiện ở bé gái nhiều hơn bé trai( khoảng 4 lần). Bệnh nhân bắt đầu với bệnh sử là một cơn đau ngắn vùng bụng kèm sốt cao, tiêu chảy và ói mửa. Trong các cuộc phẫu thuật, có một lớp dịch rỉ xung quanh ruột mà S. pneumonia được phân lập từ đó. Mặc dù tình trạng nhiễm trùng ngày nay hiếm gặp, nhưng những năm đầu, bệnh chiếm 8-10% trong cấp cứu vùng bụng ở trẻ em. Sự kết hợp giữa viêm phúc mạc do phế cầu khuẩn và các hội chunwsg thần kinh được ghi nhận đầu tiên vào năm 1940.
Bệnh viêm phúc mạc do phế cầu khuẩn ghi nhận đầu tiên ở những bệnh nhân lớn tuổi bị xơ gan và nó không thường gạp ở những bệnh nhân mà không có các bệnh về gan, thần kinh hoặc các bệnh tự miễn. MEDLINE( cơ sở dữ liệu y khoa) đã tìm thấy những trường họp tương tự. Cho mục đích nghiên cứu lại,viêm phúc mạc do phế cầu khuẩn được xem là viêm phúc mạc mà giống pneumococci được phân lập từ máu và dịch viêm trong ổ bụng, và viêm phúc mạc được chẩn đoán qua các triệu chứng lâm sàng về sự tồn tại dịch lỏng giũa 2 lá của phúc mạc. Trẻ dưới 16 tuổi và bệnh nhân mắc các bệnh về xơ gan, cổ trướng, thần kinh, tụ miễn được ngăn chặn.
Bảng 1
Bảng 1 cho thấy chi tiết của 26 trường hợp nhiễm phế cầu gây viêm phúc mạc của thanh thiếu niên. Những ca bệnh này được xác nhận có sự viêm nhiễm cao hơn ở người phụ nữ và trong phần lớp trướng hợp, đường sinh dục là nơi nhiễm sơ cấp. Toàn bộ đường sinh dục bao gồm các bệnh lý viêm nhiễm khung chậu, xuât huyết tử cung,… S. pneumonia được phân lập từ đường sinh dục làm mẫu chỉ có khoảng 20% phụ nữ. Trong 16% trường hợp, xuất huyết tử cung được trình báo đặc trưng hơn. Sự nhiễm khuẩn xuất hiện ưu thế ở những phụ nữ đang tron độ tuổi có kinh nguyệt ( tuổi trung bình, 32 tuổi; mức 16-80 tuổi)
Trong 6 trường hợp, bệnh sử cho thấy viêm ruột thừa cũng tăng khả năng lây nhiễm và S. pneumonia cũng được cấy từ ruột thừa. Chỉ có 3 bệnh nhân có tiền sử về rối loạn hô hấp.
Đặc trưng cơ bản của nhiễm trùng viêm phúc mạc là những cơn đau bụng, sốt và tiêu chảy kèm nôn ói. S. pneumonia được cấy từ môi trường phát triển thuần khiết từ dịch rỉ của phúc mạc trong số 25 trường hợp; tuy nhiên, có 2 bệnh nhân với viêm ruột thừa, vi khuẩn được cấy trong môi trường hỗn hợp với các sinh vật kỵ khí khác.
Tất cả bệnh nhân nhận kháng sinh trong qua trình điều trị, và phần lớn phải làm phẫu thuật mở bụng. Có 3 bệnh nhân không làm phẫu thuật được, trong đó,một bệnh nhân đáp ứng với việc điều trị duy nhất bắng chloramphenicol qua đường tĩnh mạch, một trường hợp đáp ứng với penicillin, metronidazole, và gentamicin( with removal of an IUCD); và một bệnh nhân khác được điều trị bằng culdocentesis(Một thủ tục trong đó đâm kim tiêm vào trong khoang xương chậu thông qua thành âm đạo để có được một mẫu mủ.) sao đó dung kháng sinh. Với phần lớn bệnh nhân được điều trị bằng phẫu thuật, 15 trường hợp trải qua nội soi bụng và phẫu thuật vùng bụng trong 24h sau điều trị, và có 9 bệnh nhân trải qua phẫu thuật sau gần 1 tuần vì những đáp ứng đơn thuần. Lựa chọn bạn đầu của các loại kháng sinh khác nhau, nhưng thông qua việc phân lập vi khuẩn, hầu hết bệnh nhân được điều trị bên trong bằng penicillin. Thới gian điều trị có hiệu lực của kháng sinh trung bình khoảng 11 ngày ( từ 7-18 ngày). Ghi nhận 2 ca tử vong là một người phụ nữ lớn tuổi do vỡ buồng trứng, và một người phụ nữ khác vì shock.
BÀN LUẬN
Bệnh học của viêm phúc mạc do phế cầu khuẩn vẫn còn tranh cãi. Loài phê cầu có thể tăng sinh rồi đi vào khoang phúc mạc và gây ra tổn thương về đường sinh dục, ống tiêu hóa, hoặc xâm nhập vào đường máu qua hệ hô hấp. Sinh bệnh học có thể khác nhau giữa người lớn và trẻ em. Từ những nghiên cứu trước cho thấy, căn bệnh này ảnh hưởng nhiều nhất đến phụ nữ( giai đoạn kinh kỳ) và đường niệu dục là có khả năng cao nhât thành nguồn bệnh của S. pneumonia. Điều này cũng tương đương với việc phát hiện sớm ở tre nhỏ, McCartney và Fraser đã có một báo cáo chỉ có 12 trường hợp là bé trai trong số 56 trường hợp là bé gái. Tương tự như vậy, trong dữ liệu ghi nhận được từ năm 1956 đến 1970 tỷ lệ trẻ nữ : trẻ nam mắc bệnh là 4:1.
Ống tiêu hóa đã từng được nghi ngờ là nguồn xâm nhập của giống phê cầu. Nó được cho là nơi nhiễm trùng tiếp theo khi vi khuẩn di cư đến cơ quan khác, xuyên qua thành ruột để vào khoang phúc mạc. Bên cạnh đó, cũng có khả năng lây lan giũa viêm ruột thừa và viêm phúc mạc phế cầu. Ngoài ra, rõ rang là cần có một cơ hội thông thương giữa viêm ruột thừa và viêm phúc mạc. Nó không thể không có tổn thương nào để có sự di chuyển của phế cầu qua lại giũa 2 vùng trong khoang bụng.
Viêm phúc mạc do phê cầu khuẩn có thể phát sinh do nhiễm khuẩn thứ phát từ một nơi nào đó, đặc biệt là ở đường hô hấp, nhưng chỉ có 3 bài báo cáo về trường hợp liên quan bộ máy hô hấp, mà nó cung cấp rát ít thông tin để kết luận rằng viêm phổ phế cầu khuẩn, nhiễm khuẩn huyết, hoặc viêm phúc mạc thứ phát là nguyên nhân chính gây ra viêm phúc mạc do phế cầu khuẩn, ít nhất là ở người lớn. Sự nhiễm khuẩn huyết có thể là nguyên nhân phù hợp nhất trong những trường hợp viêm phúc mạc do phế cầu cả người lớn và trẻ em, nhưng nhiễm khuẩn huyết lại có thể là do viêm phúc mạc hơn là nhiễm khuẩn huyết có trước. Một số thí nghiệm cho thấy vi khuẩn có thể bị bao phủ bởi mạch máu trong vài phút khi có nhiễm trùng bên trong phúc mạc.
[…] Tóm lại, viêm phúc mạc do phế cầu khuẩn ở người trưởng thành mà không bị cổ trướng hay các rối loạn thần kinh thì rất hiếm, nhưng nó tương tự như những mô tả ở trẻ em, Sự viêm nhiễm này xảy ra ở phụ nữ nhiều hơn và thường phát tán từ đường niệu dục. Phẫu thuật ngoại khoa đóng một vai trò quan trọng với một sự điều trị phù hợp là rất tốt cho bệnh nhân.
hình ảnh phế cầu khuẩn
CT- scan viêm phúc mạc
Tài liệu tham khảo
tài liệu tham khảo
Read Full Post »
Tác giả: William Maclean và Karoly Szentpáli
Khoa ngoại, Bệnh viện Royal Hampshire County ,Winchester, UK và Upper GI Surgery, Bệnh viện Royal Hampshire County, Winchester, UK
Người dịch: Sinh viên Y6 Hồ Anh Tú

I.Giới thiệu

Chúng tôi báo cáo một case phẫu thuật nội soi điều trị bệnh lý sỏi mật kẹt ở túi thừa Meckel gây thủng và viêm phúc mạc khu trú.
Túi thừa Meckel là một túi lành tính nằm ở thành ruột non, hiện diện ở khoảng 2% dân số. Túi thừa Meckel là di tích của sự đóng không hoàn toàn của ống noãn hoàng. Túi thừa Meckel thường được lót bởi niêm mạc hồi tràng, tuy nhiên, một số loại mô lạc chỗ khác cũng được tìm thấy, bao gồm mô dạ dày, tá tràng, đại tràng, tụy, tuyến Brunner, mô gan mật, và nội mạc tử cung. Những biến chứng đã được báo cáo của túi thừa Meckel bao gồm chảy máu, nhiễm trùng, tắc nghẽn.
Liên quan đển case lâm sàng lần này, chúng tôi chưa thể tìm thấy hơn 2 trường hợp sỏi mật lớn kẹt ở cổ túi thừa Meckel gây tắc ruột, và chúng tôi cũng chưa tìm thấy trường hợp thủng tạng rỗng nào liên quan đến sỏi kẹt cổ túi thừa Meckel.

II. Case lâm sàng

Một cụ già 82 tuổi, nhập viện với bệnh sử đau hố chậu phải 12 tiếng. Bệnh nhân bắt đầu đau khi thức dậy, đau tăng dần trong ngày. Ông cảm thấy sốt, chán ăn và buồn nôn, ngoài ra, không có triệu chứng tiêu hóa gì khác.
Qua thăm khám phát hiện: bụng mềm ,ấn đau nhất ở điểm McBurney, phản ứng dội dương tính, test Rovsing dương tính.
Bệnh nhân sốt nhẹ, các maker viêm đều tăng: tổng số bạch cầu: 15,2 ngàn, CRP: 62 mg/dl. XQ ngực và XQ bụng chưa ghi nhận bất thường.
Bệnh nhân có tiền sử phẫu thuật tạo hình dạ dày và nhiều lần nong thực quản để điều trị hẹp thực quản lành tính, ngoài ra không ghi nhận tiền căn gì khác.
Bệnh nhân được chụp CT, kết quả CT: ruột thừa căng, chứa dịch, có sỏi trong ruột thừa.
 photo F1large_zps2554c003.jpg
Hình ảnh CT cho thấy một viên sỏi trong 1 một đoạn ruột
Bệnh nhân đươc chỉ định cắt ruột thừa qua nội soi.
Trong quá trình phẫu thuật nội soi, có bằng chứng của viêm phúc mạc khu trú và túi thừa Meckel được tìm thấy bị viêm, chứa một viên sỏi mật lớn, làm loét thủng thành túi thừa. Ruột thừa được tìm thấy bình thường.
 photo F2large_zps25cc3bea.jpg
Hình ảnh trong lúc phẫu thuật cho thấy viên sỏi bị kẹt trong túi thừa Meckel
Phẫu thuật nội soi được tiếp tục, túi thừa Meckel được cắt đi bằng cách sử dụng máy bấm Endo GIA TM 45, ruột non được khâu lại.
Viên sỏi mật đã được đưa ra ngoài qua ngã trên rốn, kích thước 3 x 2,5 cm. Viên sỏi được xác định là sỏi mật vì nó có màu vàng xanh và có dạng nhiều phiến tinh thể.
 photo F3large_zps2609fb05.jpg
Viên sỏi được lấy ra từ túi thừa Meckel
Bệnh nhân phục hồi tốt sau phẫu thuật và được xuất viện 2 ngày sau đó. Sau 3 tuần điều trị ngoại trú, bệnh nhân quay về với chế độ ăn kiêng và cảm thấy rất khỏe. Giải phẫu bệnh đã xác nhận túi thừa Meckel bị viêm hoại tử, bị thủng ở trung tâm và không có dấu hiệu ác tính.

III. Bàn luận

Bệnh lý liên quan đến túi thừa Meckel vẫn còn gây khó khăn trong chẩn đoán đối với những trường hợp đau hố chậu phải. Trong y văn, những biến chứng liên quan đến túi thừa Meckel bao gồm chảy máu, nhiễm trùng, và hiếm gặp là tắc nghẽn. Chúng tôi tin rằng đây là trường hợp đầu tiên được báo cáo thủng túi thừa Meckel do sỏi mật, và được điều trị với một phẫu thuật ít xâm lấn nhất.
Mặc dù chiếm tỷ lệ hiếm, nhưng case lâm sàng này đã nói lên sự quan trọng của nó trong chẩn đoán phân biệt của đau hố chậu phải. Phẫu thuật nội soi là một phương tiện chẩn đoán và điều trị tuyệt vời. Trong case này, thủng túi thừa Meckel đã được chẩn đoán rất nhanh, túi thừa đã được cắt nhanh chóng và hiệu quả cùng với sỏi mật mà không cần chuyển sang mổ hở.
Mặc dù kết quả CT đã nhầm lẫn ở trường hợp này nhưng chúng ta vẫn ủng hộ mạnh mẽ sự hữu ích của nó ở những bệnh nhân lớn tuổi trước khi nội soi chẩn đoán. Nhờ kết quả CT, chúng ta có thể loại trừ những những nguyên nhân gây đau hố chậu phải khác ví dụ như viêm túi thừa hay khối u – những nguyên nhân mà không phải mổ khẩn cấp.

IV. Tài liệu tham khảo

1. Martin JP, Connor PD, Charles K. Meckel’s Diverticulum. Am Fam
Physician 2000;61:1037–42.
2. Mohiuddin SS, Gonzalez A, Corpron C. Meckel’s diverticulum with small
bowel obstruction presenting as appendicitis in a pediatric patient. Can J
Surg 2004;47:70.
3. Sagar J, Kumar V, Shah DK. Meckel’s diverticulum: a systematic review.
J R Soc Med. 2007;100:69.
4. Nakamoto Y, Saga T, Fujishiro S, Washida M, Churiki M, Matsuda K.
Gallstone ileus with impaction at the neck of a Meckel’s diverticulum. Br J
Radiol 1998;71:1320–2.
5. Simonsen L, Schrøder M. Simultaneous occurrence of a stone in an
inflamed Meckel’s diverticulum and gallstone ileus. Ugeskr Laeger
1987;149:601–2.
6. Carter R, Imrie C. Epidemiology and intervention during the clinical
course of biliary acute pancreatitis. Dis Pancreas Curr Surg Therapy
2008;154:143–52.
Nguồn: http://jscr.oxfordjournals.org/content/2013/12/rjt097.full
Read Full Post »
Tác giả: Zachary Bauman* and John Lim
Khoa ngoại, Bệnh viện Henry Ford Macomb – Clinton Township, Royal Oak, MI, USA
Người dịch: Sinh viên Y6 Hồ Anh Tú

1. Giới thiệu

Abscess lách là một bệnh lý không thường gặp trên lâm sàng, y văn hiện tại báo cáo tỷ suất mới mắc là 0,14 – 0,7 %. Tuy abscess lách hiếm gặp trên lâm sàng, nhưng nó có khả năng gây tử vong cho bệnh nhân.
Biểu hiện của bệnh thường mơ hồ và khó đánh giả, bao gồm: đau bụng một phần tư trên trái, sốt, ớn lạnh. Bệnh nhân cũng có thể có tăng bạch cầu, sờ được khối ở một phần tư bụng trên trái, và dấu hiệu tràn dịch màng phổi trên XQ ngực.
Abscess lách thường xảy ra trên những bệnh nhân có những bệnh lý nền, thường gặp là bệnh lý tân sinh, suy giảm miễn dịch, u bướu, nhiễm trùng lan rộng, nhồi máu lách, đái tháo đường.
Cách xử trí đối với abscess lách vẫn còn bài cãi với nhiều phương thức, bao gồm: kháng sinh, dẫn lưu qua da hoặc cắt lách. Y văn hiện tại ủng hộ dẫn lưu qua da, với tỷ lệ thành công 67-100%, tuy nhiên theo một tác giả, phương pháp điều trị tốt nhất cho abscess lách là cắt lách.
Trong 600 case abscess lách được ghi nhận trong y văn hiện tại, hầu hết đều có dấu hiệu hơi tự do ở một phần tư bụng trên trái trên phim XQ ngực.
Chúng tôi báo cáo một case lâm sàng của một bệnh nhân bị  abscess lách vỡ với biểu hiện đau bụng cấp và tràn khí màng bụng. Theo hiểu biết của chúng tôi , chỉ có 4 trường hợp khác đã được báo cáo với bệnh lý abscess lách vỡ gây tràn khí màng bụng.

2. Case lâm sàng

Một bệnh nhân nữ, 48 tuổi, với tiền sử đái tháo đường, bệnh động mạch vành và vảy nến. Bệnh sử: bệnh nhân bắt đầu đau bụng lan tỏa 2 ngày trước khi nhập viện. Trên lâm sàng, bệnh nhân có nhịp tim nhanh, 130 lần /phút và huyết áp tụt 78/45 mmHg. Bệnh nhân không sốt, tỉnh táo và định hướng được người xung quanh, không gian và thời gian. Bệnh nhân được hồi sức trong khoa cấp cứu với dịch truyền tĩnh mạch; huyết áp và nhịp tim của bệnh nhân đã đáp ứng với điều trị.
Xét nghiệm cận lâm sàng ban đầu cho thấy tổng số bạch cầu bình thường: 8,3 ngàn/mcL, tuy nhiên bệnh nhân có một tình trạng nhiễm toan với pH = 7,29 và acid lactic ở mức 3,5 mmol/l.
Phim XQ bụng đứng cho thấy có hơi tự do dưới vòm hoành phải. Khám lâm sàng cho thấy bụng chướng nhiều, đề kháng thành bụng và các dấu hiệu của viêm phúc mạc.
 photo F1large_zps0f05a7a0.jpg

Phim XQ bụng đứng cho thấy hơi tự do dưới vòm hoành phải
Chúng tôi nghi ngờ bệnh nhân có tình trạng thủng tạng rỗng và chỉ định phẫu thuật nội soi. Vì sinh hiệu của bệnh nhân đã ổn định sau hồi sức, nên bệnh nhân được chụp CT để đánh giá tốt hơn vị trí của thủng tạng rỗng. Chúng tôi đã rất bất ngờ, bệnh nhân không bị thủng tạng rỗng, mà là abscess lách vỡ và gây nên tràn khí màng bụng.
 photo F2large_zps67a82f1f.jpg
CT cho thấy abscess lách dạng khí và hơi tự do trong khoang bụng
Bệnh nhân sau đó trở nên lú lẫn và sinh hiệu của bệnh nhân một lần nữa xấu đi, biểu hiện một tình trạng nhiễm trùng nặng hơn. Bệnh nhân nhanh chóng được đưa đến phòng phẫu thuật, được mổ bụng hở và cắt lách. Bệnh nhân được rửa bụng rồi đóng bụng lại. Phẫu thuật không có biến chứng, Bệnh nhân được tiếp tục sử dụng kháng sinh và chăm sóc hậu phẫu tại ICU.Bệnh nhân phục hồi tốt sau phẫu thuật.
Vi khuẩn tìm thấy trong abscess lách của bệnh nhân là Prevotella intermedia, một loại vi khuẩn thường được tìm thấy trong khoang miệng. Cấy máu âm tính. Bệnh nhân được làm những xét nghiệm tổng thể để tìm nguyên nhân của abscess lách. Siêu âm tim xuyên thực quản đã được thực hiện nhưng không tìm thấy những khối, cục máu đông hay sùi. Ngoài ra, bệnh nhân được chụp phim toàn cảnh xương hàm vì bệnh nhân than phiền đau răng 1 tuần trước khi nhập viện, kết quả âm tính. Tình trạng bệnh nhân ổn định và được xuất viện vào ngày hậu phẫu thứ 10, bốn ngày sau đó, bệnh nhân trở lại để chích ngừa sau cắt lách.

3. Thảo luận:

Tuy là bệnh lý hiếm gặp, abscess lách nên được đưa vào chẩn đoán phân biệt đối với bệnh nhân nhập viện với bệnh cảnh viêm phúc mạc hay tràn khí màng bụng. Điều này thực sự đúng cho những bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch hoặc có bệnh lý nền, bao gồm bệnh lý tân sinh, đái tháo đường, u bướu, bệnh sử nhồi máu lách, hoặc thuyên tắc mạch.
Trong case này, CT đã cung cấp những thông tin quan trọng về nguyên nhân gây ra tình trạng tràn khí màng phổi cho bệnh nhân, mà chúng tôi đã nghĩ là do thủng vết loét hoặc viêm túi thừa. Điều này đã thay đổi phương pháp phẫu thuật, ban đầu chúng tôi đã dùng một phẫu thuật ít xâm lấn hơn bằng cách bắt đầu với phẫu thuật nội soi. Tuy nhiên, chúng tôi đã phải chuyển sang mổ bụng hở cắt lách do nguy cơ nhiễm trùng nặng và sự dính của khối abscess lách. Hồi cứu lại, mổ bụng hở là phương pháp tốt nhất cho bệnh nhân này vì cung cấp một tầm nhìn tốt hơn và lau rửa khoang bụng tốt hơn. Phải chăng, nếu chúng tôi thực hiện thành công phẫu thuật nội soi, thì sẽ giảm được thời gian hồi phục cho bệnh nhân, thật sự không biết được. Y văn hiện tại ủng hộ cắt lách qua nội soi cho những bệnh nhân bị abscess lách với số ngày nằm việc trung bình khoảng 14 ngày.Ở case này, bệnh nhân chỉ nằm 10 ngày ở bệnh viện để phục hồi sau phẫu thuật mổ hở.
Y văn hiện tại báo cáo rằng vi khuẩn thường gặp trong abscess lách là vi khuẩn hiếu khí, ví dụ như Streptococci và Escherichia coli. Trong case này, vi khuẩn phân lập được là vi khuẩn kị khí Prevotella intermedia. Vi khuẩn này thường được tìm thấy ở khoang miệng và liên quan đến bệnh abscess nha chu. Mặc dù siêu âm tim xuyên thực quản và phim toàn cảnh xương hàm đều âm tính, chúng tôi tin rằng abscess lách ở bệnh nhân này là do sự di chuyển của vi khuẩn từ khoang miệng vì bệnh nhân đã than phiền đau răng 1 tuần trước khi bệnh.
Tóm lại, chúng tôi đã trình bày một case abscess lách vỡ gây biến chứng tràn khi màng bụng và viêm phúc mạc. Mặc dù hiếm gặp, chúng tôi khuyến khích nên đưa abscess lách vào chẩn đoán phân biệt ở những bệnh nhân với bệnh cảnh viêm phúc mạc và tràn khí màng bụng.
Mặc dù vẫn còn tranh cãi về xử trí abscess lách trong y văn hiện tại, chúng tôi khuyến cáo cắt lách, đặc biệt là trường hợp abscess lách vỡ gây nên tình trạng huyết động học không ổn định.
Mặc dù phương pháp cắt lách qua nội soi tốt hơn hay mổ hở tốt hơn vẫn còn bàn cãi, điều quan trọng là giải quyết nguyên nhân.
Ngoải ra, những bệnh nhân bị abscess lách cần được khám xét tổng quát, bởi vì những nguyên nhân nền sẽ gây ra những bệnh cảnh nặng nề hơn cho bệnh nhân trong tương lai.
Tài liệu tham khảo: http://jscr.oxfordjournals.org/content/2013/12/rjt111.full
Read Full Post »
A/ Tóm tắt ca lâm sàng:
I/Hành chánh
Họ tên BN: Nguyễn Văn Diệp
Giới: Nam
Tuổi: 68
Nghề nghiệp: Già
Địa chỉ: Long An
Ngày giờ nhập viện: 23g45 13/5/2013
II/ Lý do nhập viện: đau bụng
III/ Bệnh sử:
Cách nhập viện 7h,BN đột ngột đau vùng thượng vị liên tục, dữ dội, không lan, không tư thế giảm đau, không sốt, có kèm buồn nôn, không nôn ói. BN vẫn tiêu tiểu bình thường, không vàng mắt vàng da. Tình trạng đau bụng ngày càng tăng lên nên Bn đi khám ở BV đa khoa khu vực Cần Giuộc, được chẩn đoán theo dõi thủng tạng rỗng, xử trí Nospa và Lactate Ringer rồi chuyển viện 115.
IV/ Tiền căn:
Gia đình: chưa ghi nhận bệnh lý
Bản thân:
Nội khoa: chưa ghi nhận viêm loét dạ dày, chưa ghi nhận tiền căn đau tương tự trước đây, bệnh nhân mắc THA khoảng 10 năm, không rõ điều trị, điều trị không đều.
Ngoại khoa: chưa ghi nhận tiền căn phẫu thuật vùng bụng.
V/ Khám lâm sàng( thời điểm nhập viện):
a)     Tổng quát:
BN tỉnh, tiếp xúc được
Sinh hiệu: M: 88l/p            HA: 170/80mmHg       NT: 20l/p         t0: 370C
Da niêm nhạt, không vàng da
Không phù
Tuyến giáp không to, hạch ngoại vi không sờ chạm
b)     Khám ngực:
Lồng ngực cân đối di dộng theo nhịp thở
Phổi trong, không ran
Tim đều, không âm thổi
c)     Khám bụng:
Bụng cân đối, ít di động theo nhịp thở. Không sẹo mổ cũ, không tuần hoàn bàng hệ
Âm ruột 2 lần/phút
Gõ trong. Mất vùng đục trước gan
Bụng gồng cứng, ấn đau khắp bụng.
d)     Khám cơ quan khác: chưa ghi nhận bất thường
VI/ Tóm tắt kết quả CLS:
Công thức máu:
Ion đồ
Sinh hóa máu:
Siêu âm bụng
Xquang ngực và Xquang bụng đứng không sửa soạn
Liềm hơi dưới hoành
Dấu hiệu Laurell
Chẩn đoán trước mổ: Viêm phúc mạc toàn thể – Thủng tạng rỗng nghi là dạ dày
B/ Tường trình phẫu thuật:
Phẫu thuật viên: BS Chánh, BS Thanh
Nội soi thám sát qua trocar rốn, thấy bụng quá dơ, nhiều giả mạc không xử lý bằng nội soi được, chuyển mổ hở
Quan sát thấy lỗ thủng ở tiền môn vị, kích thước khoảng 1.5cm, khâu lỗ thủng sau đó đắp mạc nối lên
Rửa bụng cho đến nước trong, đặt dẫn lưu dưới gan rồi đóng bụng.
Chẩn đoán sau mổ: Viêm phúc mạc toàn thể – Thủng dạ dày tiền môn vị.
C/ Bài học kinh nghiệm:
Chẩn đoán một trường hợp thủng tạng rỗng và viêm phúc mạc
Biết được thủng tạng rỗng có thể mổ nội soi được, đầu tiên nội soi thám sát qua trocar rốn, nếu ổ bụng quá dơ thì chuyển mổ hở.
Sau khi khâu lổ thủng thì lấy mạc nối lớn đắp lên chỗ khâu.
Rửa ổ bụng bằng nước ấm, không dùng nước lạnh sẽ dễ gây sốc cho bệnh nhân.

Read Full Post »

I/ Hành chánh:

Họ tên BN: NGUYỄN VĂN T         Tuổi: 45               Giới: nam
Nghề nghiệp: công nhân viên
Địa chỉ: Nhà Bè
Ngày nhập viện: 8h30 13/4/ 2013
Ngày mổ: 16h 13/4/2013
Ngày làm bệnh án: 15/4/2013

II/ Lý do nhập viện:  

Đau bụng

III/ Bệnh sử:

- Cách nhập viện 2 ngày , bệnh nhân tự phát đau âm ĩ vùng quanh rốn , không điều trị .
- Sáng ngày nhập viện , sau ăn 10 phút, Bn đau thượng vị lan HSP , sau đó lan vai P, đau quặn từng cơn, đau dữ dội, không tư thế giảm đau–> nhập viện 115
Trong quá trình bệnh , BN không nôn ói, trung tiện được, tiêu tiểu bình thường, không sốt.
TTLNV : M 80L/P  , HA 120/90 mmHg, NĐ 37 , NT 20L/P
Vẻ mặt nhiễm trùng
Đề kháng thành bụng thượng vị , HSP
Gõ vang vùng thượng vị, mất vùng đục trước gan
CLS trước mổ:
  • CTM: WBC: 11.85 K/uL      NEU%: 86.3%       HGB: 14.7g/dL          HCT: 43,5%  PLT: 176 k/uL
  • Đông máu: PT: 12,5 s      INR: 0.98      aPTT: 26.2 s
  • Nhóm máu: O, Rh (+)
  • Ion đồ: Na+: 140 mmol/L      K+: 3.3 mmol/L      Cl-: 103 mmol/L
  • Sinh hóa máu: Bun  10.5 mg/dL    Creatinine: 0.87 mg/dL
  • AST 54 U/L, ALT 57 U/L
  • Bilirubin direct 0.16 mg/dl , Total Bilirubin 0.87 mg/dl
  • Amylase máu 54 U/L
  • Siêu âm bụng : tụ dịch dưới gan
 photo IMG_20130415_214356_zpsd8f66ea1.jpg


  • CTscan : Tràn khí tự do trong khoang bụng vùng dưới vòm hoành P- sau thành bụng trước P và vùng hố chậu, có dịch tự do quanh gan va Morisonà nghi thủng tạng rổng nghi thủng dạ dày
 photo IMG_20130417_090554_zps36d39f81.jpg
 photo IMG_20130417_090543_zpsc77adaf9.jpg
 photo IMG_20130417_090536_zps188f941a.jpg
CTscan cửa sổ khí : hơi tự do trong bụng
 photo IMG_20130417_090525_zps9111937c.jpg
CTscan mở cửa sổ khí: hơi tự do trong bụng

  • X-quang ngực: không phát hiện bất thường


 photo IMG_20130417_085701_zps095fd6f4.jpg
Chẩn đoán trước mổ: Viêm ruột thừa
Chẩn đoán sau mổ: Viêm phúc mạc do thủng dạ dày
Phương pháp mổ: Phẫu thuật viêm phúc mạc do thủng dạ dày
Diễn tiến mổ:
  1. Bệnh nhân nằm ngửa , mê NKQ
  2. Sát trùng da thường quy
  3. Rạch da the đường giữa trên rốn vào ổ bụng tham sát: bụng dơ, dịch vàng đục quanh da dày, dưới gan, douglas , thấy 1 lỗ thủng tiền môn vị, xơ chai d# 7*7 mm.
  4. Tiến hành cắt rìa lỗ thủngà GPB
  5. Khâu lỗ thủng chỉ soie 2.0
  6. Đắp mạc nối lớn cột chung lỗ thủng
  7. Rửa sạch bụng nhiều lần bằng nước muối
  8. Lau khô , dẫn lưu dưới gan
  9. Đóng bụng từng lớp
Diễn tiến từ lúc mổ đến lúc khám: bệnh nhân không sốt, hiện đã bớt đau, đã trung tiện, tiểu bình thường.

IV/ Tiền căn:

1.     Bản thân:
Chưa ghi nhận tiền căn ngoại khoa
Đau thượng vị 10 năm nay , tự điều trị thuốc dạ dày ( Phophalugel)
Hút thuốc 10packs/ys
Uống rượu thỉnh thoảng
2.     Gia đình:
Chưa ghi nhận bất thường

V/ Khám: ( 8h 15/4/2013)

1.     Khám tổng quát
Bệnh tỉnh, tiếp xúc tốt
Mạch: 80 lần/phút  Huyết áp: 120/70 mmHg   Nhiệt độ: 37oC    Nhịp thở: 20 lần/phút
tổng trạng trung bình
da niêm hồng
Hạch ngoại vi không sờ chạm.
2.     Khám ngực:
Lồng ngực cân đối, di động đều theo nhịp thở, không dấu sao mạch, không tuần hoàn bàng hệ
Rung thanh đều 2 phế trường, không điểm đau khu trú
Gõ trong
Rì rào phế nang êm dịu, không ran
Tim đều, nhịp tim 80l/p, mỏm tim nằm ở khoang liên sườn V đường trung đòn trái, T1 T2 đều rõ, không âm thổi
3.     Khám bụng:
Bụng cân đối, di động theo nhịp thở, không chướng, không tuần hoàn bàng hệ, sẹo mổ đường giữa bụng dài 12 cm , lành tốt, không rỉ máu hay dịch
Ống dẫn lưu dưới gan đã rút
Bụng ấn không đau
Gan lách không to
Gõ trong khắp bụng
Âm ruột 5 l/p
4.     Các cơ quanh khác: chưa ghi nhận bất thường

VI/ Tóm tắt bệnh án:

Bệnh nhân , nam , 45t , vào viện với lý do đau bụng
- Đau bụng đột ngột ,dữ dội lan ra khắp bụng , liên tục được chẩn đoán là viêm phúc mạc do thủng tạng rỗng ,
- Được xử trí phẩu thuật khâu lổ thủng , rửa và lau ổ bụng , sau đó đặt dẫn lưu, được chuẩn đoán sau mổ là viêm phúc mạc toàn thể do thủng dạ dày.
- Hậu phẫu ngày thứ 2 : Bn trung tiện được , còn đau nhiều ở vết mổ , vết mổ khô, lành tốt .

VII/ Chẩn đoán lâm sàng:

Viêm phúc mạc do thủng DẠ DÀY  , đã được xử trí khâu lổ thủng , đặt dẫn lưu , hậu phẩu ngày thứ 2 , bệnh nhân ổn

VIII/ Đề nghị CLS:

CTM
Ion đồ
Sinh hóa máu
XQ ngực
XQ bụng đứng không sửa soạn
SA bụng

IX/ Kết quả CLS:

1.     CTM:  WBC: 9.41 K/uL      Neu%: 82.7%
Hgb: 13.6 g/dL     Hct: 40%
PLT: 186 K/uL
2.     Ion đồ:
Na+: 137 mmol/L
K+: 4.1 mmol/L
Cl-: 104 mmol/L

X/ Biện luận

- Lâm sàng BN có đau bụng dữ dội + khám đề kháng thành bụng nhiều vị trí à nghĩ nhiếu viêm phúc mạc
- Gõ vang vùng thượng vị, mất vùng đục trước gan + tiền căn đau thượng vị 10 năm tự điều trị thuốc  à nghĩ nhiều nguyên nhân do thủng dạ dày
- BN hậu phẫu ngày 2, tiểu được, trung tiện được, nhu động ruột bình thường nghĩ chức năng tiêu hóa hồi phục BN.
-  BN không sốt,vết mổ lành tốt, không rỉ dịch, máu, nên không nghĩ có nhiễm trùng vết mổ

XI/ Chẩn đoán xác định:

Viêm phúc mạc do thủng DẠ DÀY  , đã được xử trí khâu lổ thủng , đặt dẫn lưu , hậu phẩu ngày thứ 2 , bệnh nhân ổn

XII/ Xử trí:

Theo dõi  Mạch , nhiệt độ / 24h
Rửa vết mổ , thay băng hằng ngày
Dinh dưỡng ăn thứ ăn lỏng , dễ tiêu.
Đi lại , vận động nhẹ

Thứ Ba, 11 tháng 11, 2014

Phụ nữ hiện đại có nhu cầu phòng the ngày càng lớn

Phụ nữ hiện đại có nhu cầu phòng the ngày càng lớn

Một bệnh nhân nữ khoảng 40 tuổi kể rằng, gần đây, hầu như lúc nào cũng nghĩ về “chuyện ấy”. Cô luôn bị ám ảnh bởi ý nghĩ muốn được “thỏa mãn” ngay cả khi đến công sở làm việc.
Ham muốn tình dục là một nhu cầu mang tính bản năng của mỗi con người và biểu hiện ở những mức độ khác nhau. Ở nữ giới, nhu cầu về tình dục mạnh mẽ cũng không phải là một điều lạ. Thế nhưng khi tâm trí bạn luôn nghĩ về “chuyện ấy” và không kiểm soát được hành vi thì hậu quả sẽ vô cùng nghiêm trọng.
Nhiều người nhầm tưởng, nhu cầu tình dục cao là biểu hiện của một sức khỏe tốt. Họ không biết rằng có thể bản thân đang mắc phải một căn bệnh được gọi với tên khoa học là Aphrodisia.
Phụ nữ hiện đại có nhu cầu phòng the ngày càng lớn
Nói về chứng bệnh trên, TS.BS Lê Vương Văn Vệ (Giám đốc Bệnh viện Nam học và hiếm muộn Hà Nội) cho biết, trong y học, người ta dùng thuật ngữ Aphrodisia để chỉ những phụ nữ mắc bệnh lý ham muốn thái quá (hay còn gọi là bệnh “cuồng dâm”).
Tỷ lệ mắc chứng này ở phụ nữ ít hơn nam giới nhưng do xu hướng cởi mở của xã hội, tâm lý ngại ngùng của người bệnh được giải tỏa nhiều nên các trường hợp này được phát hiện ngày càng nhiều hơn.
Bác sĩ Vệ kể: “Tôi còn nhớ trường hợp một bệnh nhân nữ khoảng 40 tuổi đến bệnh viện chúng tôi khám. Khi trình bày về bệnh tình, cô này muốn được gặp riêng bác sĩ nữ. Phải mất một hồi giải thích, cô ấy mới dám nói chuyện với tôi. Cô ấy kể rằng, gần đây, hầu như lúc nào cũng nghĩ về “chuyện ấy”.
Tập thể dục là một phương pháp để những người có ham muốn quá cao bớt nghĩ về “chuyện ấy”. Ảnh minh họa
Tập thể dục là một phương pháp để những người có ham muốn quá cao bớt nghĩ về “chuyện ấy”. Ảnh minh họa
Cô luôn bị ám ảnh bởi ý nghĩ muốn được “thỏa mãn” ngay cả khi đến công sở làm việc. Thậm chí vô tình bắt gặp một hình ảnh khiêu gợi trên mạng hay tranh ảnh gợi cảm, cô đều không nén nổi cảm xúc. Chỉ cần nằm bên chồng, cô lại xuất hiện cảm giác ham muốn.
Nếu như không được thỏa mãn thì cô thường nằm mơ đến “chuyện ấy”. Với sự ham muốn quá mức ấy, dường như chồng cô không thể đáp ứng. Gần đây, người phụ nữ này còn đi ngoại tình với một vài người để thỏa mãn nhu cầu.
Gặp tôi, cô bày tỏ nỗi lo sợ nếu tình trạng này kéo dài có thể sẽ làm tan vỡ hạnh phúc. Mong muốn của cô là nhờ bác sĩ tư vấn cách kìm hãm ham muốn sinh lý lại”.
Theo bác sĩ Vệ, tỷ lệ những người phụ nữ có ham muốn tình dục cao trong xã hội ngày càng gia tăng. Nguyên nhân gây bệnh thường bắt nguồn từ cuộc sống, khi chị em quá đầy đủ về vật chất, thoải mái tinh thần, ăn nhiều những thức ăn có tác dụng kích thích ham muốn tình dục.
“Người mắc bệnh này có ham muốn về “chuyện ấy” rất mãnh liệt. Khi quan hệ, khoái cảm của họ có thể đã lên đến tột đỉnh nhưng vẫn không đủ làm thỏa mãn. Chuyện sinh hoạt tình dục cũng giống như mọi sinh hoạt khác trong đời sống, cũng cần điều độ thì mới giữ được sự bền lâu và có lợi cho sức khỏe.
Quá ham hố hay luôn giữ lịch “yêu” dày đặc thì về lâu dài, chắc chắn sức khỏe của cả vợ lẫn chồng đều bị tổn hại. Nếu không biết cách tiết chế, sức khỏe của chị em sẽ dần cạn kiệt, ý chí và khả năng làm việc cũng suy giảm. Thậm chí, nhiều người không thoát được ra khỏi sự ám ảnh của “chuyện ấy” và trở thành tình trạng bệnh lý”, bác sĩ Vệ phân tích.
Bác sĩ Vệ cho biết thêm, nhiều phụ nữ vào khoảng 40 tuổi có xu hướng “hồi xuân” nên ham muốn về “chuyện ấy” cũng mãnh liệt hơn. Một số người “hồi xuân” đến mức thái quá khiến cho “chuyện phòng the” mất kiểm soát và ham muốn bùng phát dữ dội.
Thông thường, phụ nữ đến tuổi “hồi xuân” thì người bạn đời cũng không còn trai tráng. Lúc đó, khả năng đáp ứng nhu cầu tình dục quá cao từ phía vợ trở nên hết sức khó khăn. Nguy cơ đổ vỡ hạnh phúc gia đình cũng bắt nguồn từ lý do này.
Nhiều năm khám chữa bệnh, bác sĩ Vệ đã từng chứng kiến những trường hợp phụ nữ vì nhu cầu “ái ân” quá lớn nên mất kiểm soát. Số bệnh nhân này mê muội lao vào những cuộc tình ngoài luồng, làm dáng một cách lố bịch và có những hành động táo bạo như một cô gái tuổi thanh xuân.
Ông cảnh báo: “Khi bà xã bước vào tuổi “hồi xuân”, người chồng phải quan tâm để điều chỉnh sao cho mọi việc diễn ra một cách bình thường, dẫn dắt bạn đời vượt qua giai đoạn “sôi động” và cân bằng lại nhu cầu.
Bản thân phụ nữ khi thấy mình có biểu hiện khác lạ trong ham muốn, bỗng nhiên nghĩ đến “chuyện ấy” nhiều hơn bình thường thì cũng cần chú ý. Nếu không thể tự điều chỉnh, cân bằng lại nhu cầu bản thân thì chị em nên tìm tới các bác sĩ chuyên khoa để được tư vấn, chữa trị”.
Sống lành mạnh giúp hạn chế nguy cơ ám ảnh tình dục
Quá trình tham vấn nhiều chuyên gia y tế, chúng tôi được biết việc điều trị chứng ham muốn tình dục thái quá không phải chuyện quá khó. Khi chữa trị, những người mắc chứng này phải vượt qua tâm lý ngại ngùng, sớm tìm đến các phòng khám chuyên khoa để được bác sĩ tư vấn và uống đúng thuốc.
Người bệnh phải giữ cho tâm trạng luôn thật thoải mái, tránh những hoàn cảnh, tình huống có thể dẫn tới ham muốn tình dục. Chị em chưa xây dựng gia đình nên để tâm vào việc học tập, công tác và những sinh hoạt văn hóa lành mạnh để quên đi những suy nghĩ, ham muốn nhục dục.
TS-BS Lê Vương Văn Vệ
TS-BS Lê Vương Văn Vệ
Phụ nữ đã có gia đình thì nên cho chồng biết về tình trạng bệnh để có sự thông cảm. Khi chưa chữa khỏi bệnh, vợ chồng hãy nằm riêng giường một thời gian để giảm bớt những kích thích về “chuyện yêu”.
“Đặc biệt, người bệnh phải kiêng dùng những thực phẩm và vị thuốc có tác dụng thúc đẩy và kích thích ham muốn như: rượu, thịt dê, thịt hươu, thịt chim sẻ, sữa ong chúa, nhân sâm, lộc nhung, rau thai. Tốt nhất là ăn những thức ăn thanh đạm, có tác dụng hạ hỏa giảm dục, lợi thấp an thần như bí đao, củ niễng non, củ ấu, dưa chuột, bách hợp...
Các món như tôm xào hẹ, tôm nấu đậu phụ, tôm xào ngô và cần tây... rất tốt cho phụ nữ bị lãnh cảm và cũng có tác dụng bổ thận tráng dương cho nam nhưng lại tối kỵ với phụ nữ thường xuyên bốc hỏa vì ham muốn”, bác sĩ Vệ cho biết.
Ngoài ra, các chuyên gia khuyên những phụ nữ có ham muốn quá cao nên thường xuyên tập thể dục, tạo cho mình một cuộc sống lành mạnh, khoa học. Người chưa đi làm thì nên tích cực học tập, dành nhiều thời gian cho các hoạt động tập thể để quên đi những ý nghĩ về mang tính nhục dục.
Còn người đi làm thì cần chú tâm vào công việc để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao hoặc mục tiêu đặt ra. Người bệnh cũng phải hạn chế xem các phim ảnh, truyện khiêu dâm, kích dục vì những điều này sẽ làm nảy sinh ham muốn. Đối với bệnh nhân để bệnh tiến triển quá nặng, bác sĩ Lê Thị Kim Dung (Trung tâm Y tế lao động Nông nghiệp) tư vấn:
“Trong trường hợp ham muốn tình dục vượt quá sự kiểm soát hành vi, lệch lạc về suy nghĩ, thấy người đàn ông nào cũng muốn quan hệ thì chị em đã bị rơi vào trạng thái tâm thần và cần đưa đến bệnh viện tâm thần để điều trị.
Như trường hợp của cô “kiều nữ” Hải Dương, tuy tôi chưa gặp trực tiếp nhưng nếu đúng như báo chí nói thì cô này đã rơi vào trạng thái tâm thần và cần được điều trị sớm, nếu cứ để như vậy sẽ ảnh hưởng rất lớn đến xã hội và chính bản thân cô ấy. Vấn đề nhận thức và hiểu biết bệnh lý tâm thần ở Việt Nam còn khá hạn chế.
Vì thế, khi bản thân hoặc gia đình nhận thấy những hành vi bất thường về tình dục thì cần đến bệnh viện để kiểm tra”.         
Sinh hoạt “phòng the” thế nào là hợp lý?
Theo kinh nghiệm của người xưa thì tần suất quan hệ tình dục theo độ tuổi được tính như sau: Năm 20 tuổi, 1 tuần quan hệ khoảng 8 lần là hợp lý. Năm 30 tuổi, 2 tuần quan hệ 7 lần. Năm 40 tuổi 3 tuần quan hệ 6 lần. Năm 50 tuổi, 4 tuần quan hệ 5 lần. Năm 60 tuổi 5 tuần quan hệ 4 lần.
Tuy nhiên, theo bác sĩ Vệ thì việc quan hệ vợ chồng nên dựa vào nhu cầu và sức khỏe của các hai bên. Nếu chỉ một người có nhu cầu mà người kia thờ ơ hoặc mệt mỏi thì “chuyện ấy” cũng không thuận lợi và không có chất lượng. “Nam giới tuy thường nghĩ đến sex nhưng lại là đối tượng mất sức nhiều hơn khi “lâm trận”.
Vì vậy, việc cố gắng “chiều” theo nhu cầu quá cao của vợ sẽ không chỉ khiến họ mệt mỏi, tinh thần bệ rạc mà còn gây cho họ tâm lý sợ “quan hệ”. Nói chung, quan hệ bao lâu, bao nhiêu lần một tuần là vấn đề nhạy cảm nhưng hai vợ chồng nên trao đổi thẳng thắn với nhau để không ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình lâu dài”, bác sĩ Vệ cho biết.

Chủ Nhật, 9 tháng 11, 2014

Sợ tinh dịch của chồng

Sợ tinh dịch của chồng

PN - Tôi mới lập gia đình và gặp ngay chuyện khó tin là vợ tôi có vẻ rất ngại ngần, thậm chí xanh mặt khi thấy thân thể của tôi, nhất là “chỗ kín” và… tinh dịch. Lúc đầu tôi nghĩ do mới mẻ, nhưng càng về sau càng tệ, ảnh hưởng lớn đến chuyện vợ chồng…
Ng. Thân (TP.HCM)
Khi có sự cố phòng the, chồng chớ nên nóng vội, trách cứ, mà hãy bình tĩnh, cảm thông sẽ  giải tỏa được vấn đề. Ảnh minh họa: internet
Khó tin nhưng những cú mất cảm tình tréo ngoe này vẫn có thể xảy ra dưới nhiều sắc thái khác nhau. Trước hết đây có thể là nỗi sợ tự nhiên của những cô gái trẻ nhạy cảm chưa từng diện kiến “yếu nhân” của đàn ông. Nhiều cô lại phát sợ theo hướng trái khoáy hơn là… sợ bẩn (dưới mắt họ, “chỗ ấy” là công cụ hèn kém của đàn ông). Nhiều cô lại xanh mặt vì bất an về sự bất tương thích của hai “đơn vị tương tác”. Không ít cô không tin rằng “chỗ kín” trên cơ thể mình đủ giãn nở để tiếp nhận suôn sẻ, không đau đớn, không rách vỡ với “đại diện” của lang quân. Dễ hiểu, cú lượng giá lo xa này thường rơi vào những trường hợp kích cỡ của lang quân có phần quá phát hoặc do tân lang quá đường đột, mạnh bạo trong lần đầu gần gũi.
Tuy vậy, cần lưu ý đến chứng ám sợ “của quý” thật sự hoàn toàn không phải do lầm hay thiếu kinh nghiệm. Cụ thể, nó là một trong xê-ri ám sợ cơ quan sinh dục, sợ tinh dịch, sợ khỏa thân, thậm chí sợ chính cuộc làm tình. Như nhiều hình thức ám sợ khác rất khó tìm thấy căn nguyên, chỉ một ít là có thể tìm thấy đầu dây. Đó là những cô gái hồi nhỏ vô tình chứng kiến cảnh nhạy cảm của người thân (rõ ràng hơn nếu phải chứng kiến những màn chăn gối bạo lực, biến thái). Có cô tận mắt mục kích màn đánh ghen long trời lở đất, xé áo, làm nhục phụ nữ. Một nguyên cớ có vẻ gián tiếp nhưng gây sợ không kém là nỗi sợ có thai, sợ phá thai (chứng kiến cơn lâm bồn vật vã, khổ sở của ai đó, có khi từ… phim ảnh).
Dù cơ duyên gì thì cú ám sợ này cần được giải tỏa sớm bởi nó sẽ là hậu quả không hay cho cuộc sống vợ chồng. Tân lang phải đóng vai trò “phá băng” chủ lực. Bình tĩnh, cảm thông, từ tốn, cộng với thời gian thì hầu hết cú rối kiểu này sẽ được gỡ.
Xin nhắc lại, vai trò vừa là chồng vừa là thầy thuốc của các tân lang là rất quan trọng, trong đó cần chú ý thái độ tránh sốt ruột, nóng vội, trách cứ, than thân kể khổ.
 BS ĐỖ MINH TUẤN

Thứ Hai, 3 tháng 11, 2014

Nang tuyến Bartholin

Nang tuyến Bartholin

Nang tuyến bartholin là bệnh lý phụ khoa ở phụ nữ tuổi sinh sản. Hàng năm, phụ nữ bị nang tuyến bartholin chiếm 2% số bệnh phụ khoa.
Mặc dù việc điều trị đơn giản nhưng vấn đề được quan tâm là sự tái phát và chẩn đoán phân biệt nang tuyến với áp-xe hoặc tổn thương ác tính.
Vị trí của tuyến Bartholin
Tuyến Bartholin là tuyến thuộc cơ quan sinh dục ngoài, nằm ở cửa âm đạo vị trí 4 giờ và 8 giờ. Đây là những tuyến nhỏ nên rất khó để nhìn hay nhận thấy khi tuyến bình thường. Tuyến có dạng hình cầu, đường kính 1cm, được cấu tạo bởi tế bào trụ tiết nhầy.
Chức năng của tuyến là tiết ra chất nhầy vào trong bề mặt môi nhỏ của âm hộ bao quanh âm đạo, giữ cho vùng đó được bôi trơn khi giao hợp và giữ ẩm.
Tại sao có nang tuyến Bartholin?
Sự hình thành nang tuyến là do tắc nghẽn ống tuyến, trong khi tuyến vẫn tiếp tục tiết ra chất nhầy, làm hình thành một nang có thành mỏng. Gọi là nang tuyến Bartholin hay cyst Bartholin.
Sự tắc nghẽn của ống tuyến có thể do nguyên nhân nhiễm trùng và phù nề làm chèn ép ống tuyến, hoặc do chấn thương, nhiễm trùng mãn tính làm tắc miệng ống tuyến.
Chẩn đoán nang tuyến Bartholin
Nang tuyến Bartholin là loại tổn thương dạng nang, kích thước 1,5 – 3cm, thường gặp nhất ở vùng âm hộ. Mặc dù nang tuyến thường chỉ một bên âm hộ và không biểu hiện triệu chứng gì, nên không cần điều trị, nang tuyến có thể tự tiêu đi.
Nang tuyến điều trị, khi nang có sự tăng kích thước, có khi 5 – 10cm hoặc bị nhiễm trùng và gây đau ở vùng âm hộ. Thường gặp lứa tuổi 25 – 45. Xác định nang tuyến Bartholin là một chẩn đoán hoàn toàn lâm sàng.
Phương pháp chẩn đoán đầu tiên và đơn giản nhất là quan sát tổn thương, xác định kích thước, mật độ, độ di động và cảm giác đau khi ấn. Nang tuyến và ống tuyến nằm phía trong và ở phần dưới của môi nhỏ âm hộ.
Chẩn đoán phân biệt nang tuyến Bartholin
Một số bệnh lý vùng âm hộ – âm đạo có triệu chứng gần giống của nang tuyến Bartholin. U mỡ hay nang vùng môi lớn: khối u nằm ngoài vùng âm hộ, xác định khám bằng tay và quan sát tổn thương.
Tụ máu vùng âm hộ: sau chấn thương hay sang chấn vào vùng âm hộ, triệu chứng đau nhức, khối u to, bầm tím rịn máu. Nang tuyến Skene: vị trí nang nằm ngang lỗ niệu đạo, cao hơn tuyến Bartholin 2 – 3cm.
Xử trí nang tuyến Bartholin
Thông thường mở thông túi, có hai phương pháp:
– Rạch bóc nang tuyến, may viền túi làm thông ống tuyến gọi là may thông túi bằng chỉ tan như Chromic 2 ô, giúp tái tạo nang tuyến.
– Bóc chọn nang tuyến may mũi rời bằng chỉ tan. Đây là biện pháp cắt bỏ hoàn toàn nang tuyến. Kết hợp thuốc kháng sinh và thuốc giảm đau, kháng viêm. Mẫu mô nang tuyến sau khi bóc ra, cần gởi làm giải phẫu bệnh, để xác định bản chất nang tuyến.

Áp-xe nang tuyến Bartholin.
Khi nang tuyến bị nhiễm trùng thì nang tăng kích thước rất nhanh sau 2 – 4 ngày và gây đau nhiều, kèm theo sốt. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng tuyến Bartholin có thể bị áp-xe mà không cần có tổn thương nang trước đó.
Trước đây, quan niệm phổ biến cho rằng, áp-xe tuyến Bartholin là do hai tác nhân chính là lậu cầu hoặc chlamydia. Ngày nay, với những bằng chứng vi sinh học qua các nghiên cứu, các nhà khoa học kết luận rằng áp-xe của cơ quan này là do nhiều loại vi khuẩn gây ra.
Brook đã phân lập và báo cáo tổng cộng có đến 67 loại vi khuẩn trong các trường hợp áp-xe tuyến Bartholin.
Xử trí áp-xe tuyến Bartholin
Kháng sinh toàn thân dùng loại kháng sinh như: cefotaxim 1g tiêm tĩnh mạch kết hợp Tobi 80mg tiêm bắp. Dùng giảm đau panadol 0,5g và alpha chymotrpysin.
Sau 24 – 48 giờ. Rạch khối áp-xe của tuyến đặt penrose dẫn lưu. Có thể cắt bỏ hoàn toàn tuyến Bartholin. Tiếp tục thuốc kháng sinh bằng đường uống.
Sự tái phát trong nang tuyến Bartholin và cách phòng ngừa
Khoảng 20% trường hợp nang tuyến và áp-xe tuyến Bartholin bị tái phát và thường do vi trùng bệnh lậu gây nên.
Cần vệ sinh vùng âm đạo sạch sẽ, sử dụng việc tắm ngồi là biện pháp ngăn ngừa tái phát.
Việc phẫu thuật để giữ lỗ thông không bị bít lại, như may thông túi, hay có thể cắt bỏ hoàn toàn tuyến ống Bartholin.
Điều trị triệt để các bệnh lây qua đường tình dục.
Sử dụng bao cao su trong giao hợp nhằm ngăn ngừa sự lây truyền.
Ung thư tuyến Bartholin
Có hai dạng: nguyên phát và thứ phát:
Ung thư nguyên phát tuyến Bartholin là một bệnh lý phụ khoa hiếm gặp, chỉ chiếm 1% ung thư đường sinh dục nữ. Ung thư có triệu chứng điển hình giống như của áp-xe tuyến: khối u âm hộ, có hoặc không có loét và giao hợp đau.
Do bệnh lý thuộc loại hiếm gặp nên các đặc điểm dịch tễ học của các yếu tố nguy cơ vẫn chưa được biết rõ. Độ tuổi trung bình bị ung thư là: 55 – 65 tuổi.
Ung thư thứ phát tuyến Bartholin là dạng ung thư của vùng mô lân cận hoặc từ nơi khác di căn tới. Chẩn đoán ung thư tuyến Bartholin cần sinh thiết mẫu mô làm xét nghiệm giải phẫu bệnh có sự hiện diện tế bào ác tính. Điều trị ung thư tuyến Bartholin: phẫu thuật kết hợp xạ trị.

Thứ Ba, 28 tháng 10, 2014

Phết mỏng cổ tử cung (Pap’ smear):

Phết mỏng cổ tử cung (Pap’ smear):


Phết tế bào cổ tử cung (hay phết tế bào âm đạo: Pap' smear, tức là xét nghiệm Pap) là một xét nghiệm tế bào học để tìm những tế bào bất thường trong lớp biểu mô cổ tử cung.

Pap có thể cho biết tình trạng hiện tại cổ tử cung : bình thường, viêm nhiễm, tái tạo, những tổn thương không ung thư và tổn thương ung thư.

Đây là một xét nghiệm đơn giản, thường được thực hiện ở các phòng khám phụ khoa, và là bước đầu tiên trong bộ ba xét nghiệm dùng để tầm soát đồng thời cũng để chẩn đoán ung thư cổ tử cung.

Pap phát hiện sớm các tổn thương tiền ung thư hoặc ung thư giai đoạn sớm, giúp cho người bệnh có cơ hội điều trị lành bệnh hoàn toàn trước khi ung thư xâm lấn hoặc di căn sang các vùng khác.

• Quy trình làm Pap:
- 2 ngày trước khi xét nghiệm: không thụt rửa âm đạo, không đặt thuốc, bôi kem, dùng hóa chất khử mùi ở âm đạo.

- 1 ngày trước khi xét nghiệm : không giao hợp.

- Không làm Pap khi đang có kinh.

Tất cả những lý do trên sẽ làm tế bào âm đạo biến đổi. Đôi khi làm mất những tế bào bất thường khiến kết quả không chính xác. Thời gian tốt nhất vào khoảng ngày 10 – 20 của chu kỳ kinh.

Làm xét nghiệm Pap không đau nhưng trong quá trình tiến hành có thể gây xước nhẹ cổ tử cung và gây ra chút máu hồng

• Chỉ định:

Phết tế bào cổ tử cung được chỉ định cho những bệnh nhân sau:

- Khi khám phụ khoa phát hiện thấy những tổn thương ở cổ tử cung.

- Khi có yếu tố nghi ngờ ung thư cổ tử cung như: xuất huyết âm đạo bất thường…

- Đối với những bệnh nhân bị nhiễm HIV là những đối tượng có nguy cơ cao bị ung thư cổ tử cung, do đó theo Hiệp hội ung thư Hoa Kỳ khuyến cáo nên tầm soát Pap cho người nhiễm HIV mỗi 6 tháng / lần. Nếu kết quả bình thường sau 2 lần thử liên tiếp, Pap sẽ được kiểm tra mỗi 1 năm / lần

- Những bệnh nhân đã qua phẫu thuật cắt tử cung:

+ Nếu cắt tử cung toàn phần (cắt cả thân và cổ tử cung): sau mổ trong vòng 6 tháng, kiểm tra bằng phết tế bào ở mỏm cắt âm đạo. Sau đó không cần làm Pap nếu lý do trước phẫu thuật không phải là ung thư. Nếu lý do mổ vì ung thư, cần kiểm tra Pap mỗi 6 tháng.

+ Nếu cắt tử cung bán phần (chỉ cắt thân tử cung): vẫn tiếp tục tầm soát Pap theo lịch.

- Kiểm tra định kỳ cho tất cả các phụ nữ đã có quan hệ tình dục. Đây là một xét nghiệm thường quy cần làm cho tất cả phụ nữ đã có quan hệ tình dục. Không giới hạn về tuổi, ngay cả những bệnh nhân mãn kinh cũng cần được tầm soát ung thư bằng Pap.

+ Có một số đề nghị được chấp nhận rộng rãi, như theo đề nghị của Hội Ung thư Hoa Kỳ thì mỗi phụ nữ đã có quan hệ tình dục nên được phết tế bào cổ tử cung mỗi năm một lần. Sau 3 lần liên tiếp với kết quả bình thường thì khoảng thời gian làm lại có thể thưa ra tùy theo đánh giá của bác sĩ. Thời gian này có thể là mỗi 3 năm, cho đến lúc 60 tuổi. Nếu trên tuổi này mà kết quả vẫn bình thường thì có thể loại khỏi chương trình tầm soát.

+ Theo chương trình tầm soát ung thư cổ tử cung, Pap' smear được làm cho mọi phụ nữ trên 18 tuổi đã có giao hợp.

Nếu kết quả bình thường, làm lại lần thứ hai một năm sau. Nếu hai lần liên tiếp kết quả bình thường thì sau đó mỗi ba năm làm lại Pap' smear một lần cho đến năm 60 tuổi. Nếu trên 60 tuổi mà kết quả Pap' smear vẫn bình thường thì có thể loại khỏi chương trình tầm soát. Đối với những phụ nữ có nguy cơ cao, có thể được thực hiện Pap' smear với nhịp độ gần hơn.

Chương trình tầm soát ung thư cổ tử cung nên làm như sau:
Thực hiện phết mỏng cổ tử cung lần thứ nhất sau lần giao hợp đầu tiên.

Sau đó, mỗi năm làm một lần đến năm 35 tuổi.

Nếu các kết quả đều tốt thì sau đó mỗi 5 năm làm phết mỏng cổ tử cung một lần cho đến năm 60 tuổi.

Nếu kết quả Pap' smear vẫn bình thường cho đến năm 60 tuổi thì có thể loại phụ nữ này ra khỏi chương trình tầm soát.

Nếu xét nghiệm Pap nghi ngờ nên làm Pap lại.

Nếu kết quả Pap' smear có những bất thường của tế bào biểu mô lát phải làm thêm xét nghiệm soi cổ tử cung và có thể kèm theo sinh thiết cổ tử cung.


 
 (Quay lại trang trước)                                         Bs. Diệu Dung

Ung thư âm hộ

Ung thư âm hộ

Những điều nên biết

Nếu bạn ngứa quanh âm đạo trong thời gian dài thì đó là một trong những dấu hiệu báo động để bạn đi kiểm tra sức khoẻ vùng này.

Ung thư âm hộ bắt đầu ở trong âm môn, sau đó ảnh hưởng đến môi âm hộ, các nếp gấp da bên ngoài âm đạo. Trong một số trường hợp, bệnh có thể bắt đầu từ âm vật hoặc trong các tuyến ở hai bên âm đạo.

Các yếu tố nguy cơ dẫn đến bệnh này bao gồm: nhiễm virus papilloma (virus gây ung thư cổ tử cung hoặc mụn cóc sinh dục) ở phụ nữ dưới 50 tuổi, sự thay đổi của da như xơ cứng hoặc tăng sản các biểu mô da có vảy ở phụ nữ trên 50 tuổi, hút thuốc….

Gần 20% phụ nữ mắc bệnh ung thư âm hộ không có triệu chứng. Trong số trường hợp còn lại, các biểu hiện có thể gặp là:
- Ngứa quanh âm đạo trong nhiều năm hoặc có thể bị chảy máu âm đạo.
- Thay đổi da xung quanh âm môn.
- Nốt ruồi hoặc đốm trên da có thể hồng, đỏ, trắng, hoặc màu xám.
- Da dày lên.
- Da đau loét.
- Đau hoặc rát khi tiểu tiện.
- Đau khi giao hợp.
- Xuất hiện mùi không bình thường ở âm đạo.


Nếu nghi ngờ ung thư âm hộ, bạn cần đi khám và làm những xét nghiệm như sinh thiết, chụp CT hay MRI xương chậu để tìm lây lan bệnh ung thư, xét nghiệm khung xương chậu để tìm thay đổi ở da.

Hầu hết bệnh nhân được chẩn đoán và điều trị ở giai đoạn đầu sẽ có kết quả tốt. Để ngăn ngừa ung thư âm hộ, cần thực hành tình dục an toàn, tiêm vaccine phòng ung thư cổ tử cung, khám sức khoẻ định kỳ đều đặn.

GIỜ LÀM VIỆC PHÒNG KHÁM VIỆT PHÁP



Là một phòng khám chuyên SẢN PHỤ KHOA-VÔ SINH - NHŨ HOA., đã nhiều năm kinh nghiệm tại bệnh viện Từ Dũ và các bệnh viện lớn tại Thành phố HCM như: bệnh viện Việt Pháp (FV), bệnh viện Sản Nhi Hạnh Phúc (Singapore), bệnh viện Phụ Sản Quốc Tế, Phòng Khám quốc tế Yersin, Phòng Khám quốc tế Victoria, bệnh viện An Sinh, Bệnh viện quốc tế Vũ Anh...


Thời gian làm việc từ: 17h tới 20h30 tất cả các ngày trong tuần,

Làm việc cả ngày lễ, tết, thứ 7 và chủ nhật. Sáng: 8h-12h, chiều: 15h-20h


Địa chỉ: SMA BUILDING, 13A Đống Đa F2, quận Tân Bình, Tp Hồ Chí Minh. (Khu sân bay Tân Sơn Nhất, có chỗ để xe hơi trong sân rộng rãi)
(Xem Bản đồ vị trí phòng khám)

Phòng khám bao gồm các dịch vụ sau:


Khám thai

Khám phụ khoa và điều trị:

Khám nhũ hoa và điều trị các bệnh lý lành tính của tuyến vú:

  • Bướu sợi tuyến vú
  • U nang tuyến vú
  • Xơ nang tuyến vú
  • Áp xe tuyến vú
  • Viêm tuyến vú
  • Khám vú định kỳ, kết hợp siêu âm vú, nhũ ảnh, sinh thiết vú (FNA). Để tầm soát ung thư vú.

Siêu âm chẩn đoán:

Soi cổ tử cung:

Xét nghiệm:

Xét nghiệm tầm soát phát hiện dị tật thai giai đoạn sớm:

Khám và điều trị vô sinh hiếm muộn

Khám và tư vấn các biện pháp kế hoạch hóa gia đình

Thứ Sáu, 24 tháng 10, 2014

So sánh hiệu quả khởi phát chuyển dạ của prostaglandin E2 và ống thông foley ở thai ≥37 tuần thiểu ối

TÓM TẮT
Mở đầu và mục tiêu
Khởi phát chuyển dạ (KPCD) là một can thiệp lâm sàng thường gặp trong sản khoa, trong đó thiểu ối là một chỉ định thường gặp. Có 2 phương pháp khởi phát chuyển dạ là cơ học và dược học. Mục tiêu chính là so sánh hiệu quả KPCD của prostaglandin E2 (PGE2) gel với thông foley đặt kênh cổ tử cung ở thai ≥37 tuần thiểu ối. Mục tiêu phụ là so sánh kết cục chuyển dạ của giai đoạn I-II; so sánh tác dụng không mong muốn và biến chứng giữa 2 phương pháp.
Đối tượng và phương pháp
Trong thời gian từ 15/10/2011 đến 15/02/2012, chúng tôi tiến hành nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng có nhóm chứng ở thai phụ ≥37 tuần thiểu ối, tại Bệnh viện Từ Dũ. Với mỗi nhóm 50 thai phụ, nhóm thử nghiệm: KPCD bằng PGE2 gel, nhóm chứng: KPCD bằng foley, thể tích bóng bơm 60ml.
Kết quả và kết luận
Hiệu quả KPCD thành công của phương pháp PGE2 và foley (80% và 76%) với p>0,05. Một số điểm khác biệt có ý nghĩa thống kê về kết cục chuyển dạ giữa 2 phương pháp (p<0,05): thay đổi điểm Bishop sau KPCD bằng PGE2 cao hơn foley; thời gian từ khi KPCD đến khi sinh của PGE2 ngắn hơn foley; tăng co bằng oxytocin sau KPCD nhóm PGE2 thấp hơn foley; cơn gò nhiều hơn ở nhóm PGE2 so với foley. Tác dụng không mong muốn sau KPCD bằng PGE2: sốt (2%), buồn nôn-nôn (10%), tiêu chảy (2%), vỡ ối (4%), nhiễm trùng (2%), cơn gò cường tính (6%). Foley không ghi nhận trường hợp nào. Sự khó chịu khi KPCD bằng foley 30%, PGE2 14%.
Từ khóa: Khởi phát chuyển dạ, prostaglandin E2 gel, thông foley
MỞ ĐẦU
Khởi phát chuyển dạ là một can thiệp lâm sàng thường gặp trong sản khoa. Trong 2 thập kỷ qua, tỉ lệ khởi phát chuyển dạ ngày càng tăng. Theo thống kê của Phòng Kế hoạch tổng hợp Bệnh viện Từ Dũ, từ năm 2010-2011, mỗi năm có khoảng 4.204-7.060 trường hợp khởi phát chuyển dạ [1].
Có nhiều chỉ định khởi phát chuyển dạ, trong đó thiểu ối là một chỉ định thường gặp trong sản khoa. Khi lượng nước ối giảm sẽ có tình trạng chèn ép dây rốn làm giảm lượng máu nuôi thai, thai suy dinh dưỡng, thai lưu hoặc chết lúc chuyển dạ. Vì vậy cần phải chấm dứt thai kỳ thiểu ối bằng phương pháp nào để có thể mang lại kết cục tốt cho cả mẹ lẫn con, không phải chỉ mổ lấy thai mà còn có thể sinh được ngả âm đạo.
Có 2 phương pháp khởi phát chuyển dạ là phương pháp cơ học và dược học. Tại Việt Nam nói chung và Bệnh viện Từ Dũ nói riêng, cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu nào so sánh hiệu quả khởi phát chuyển dạ của phương pháp cơ học và dược học.
Chính vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu: “So sánh hiệu quả khởi phát chuyển dạ của prostaglandin E2 dạng gel và ống thông foley đặt kênh cổ tử cung ở thai ≥37 tuần thiểu ối” với câu hỏi nghiên cứu: Sử dụng prostaglandin E2 dạng gel đặt kênh cổ tử cung trong khởi phát chuyển dạ ở thai ≥37 tuần thiểu ối cho hiệu quả như thế nào so với khởi phát chuyển dạ bằng ống thông foley?
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Mục tiêu chính
So sánh hiệu quả KPCD của PGE2 dạng gel với ống thông foley đặt kênh cổ tử cung trong khởi phát chuyển dạ ở thai ≥37 tuần thiểu ối có chỉ định sinh ngả âm đạo.
Mục tiêu phụ
- So sánh kết cục chuyển dạ của giai đoạn I và giai đoạn II giữa 2 phương pháp KPCD.
- So sánh tác dụng không mong muốn và biến chứng giữa 2 phương pháp KPCD.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Thử nghiệm lâm sàng không mù, ngẫu nhiên, có nhóm chứng.
Đối tượng nghiên cứu
- Dân số mục tiêu: thai phụ có chỉ định khởi phát chuyển dạ chấm dứt thai kỳ mà cổ tử cung không thuận lợi hay chỉ số Bishop<5.
- Dân số nghiên cứu: thai phụ ≥37 tuần thiểu ối nhập Khoa Sản A, Bệnh viện Từ Dũ có chỉ định khởi phát chuyển dạ.
- Dân số chọn mẫu: Thai phụ ≥37 tuần thiểu ối nhập Khoa Sản A, Bệnh viện Từ Dũ có chỉ định KPCD, hội đủ điều kiện các tiêu chuẩn chọn mẫu và đồng ý tham gia nghiên cứu trong thời gian từ 15/10/2011 đến 15/02/2012. Với nhóm thử nghiệm: KPCD bằng PGE2 dạng gel, nhóm chứng: KPCD bằng thông foley số 20, thể tích bóng bơm 60ml.
- Tiêu chuẩn chọn mẫu: thai phụ đồng ý tham gia nghiên cứu, thai ≥37 tuần, thiểu ối AFI≤5, Bishop<5, có khả năng sinh ngả âm đạo, con so hoặc con rạ, đơn thai-ngôi đầu, Nonstresstest có đáp ứng, siêu âm Doppler cho các chỉ số Doppler bình thường, ước lượng con: 2.500-3.500g.
- Tiêu chuẩn loại trừ:
  • Mẹ: sẹo mổ trên cơ tử cung, đã sử dụng một biện pháp KPCD trước đó, viêm nhiễm đường sinh dục cấp, tiền căn dị ứng PGE2 và Latex, bệnh lý nội khoa nặng (tim, suyễn, glaucoma, tăng nhãn áp), đã có chuyển dạ: cổ TC mở ≥2 cm, xóa ≥60%, có 3 cơn gò trong 10 phút.
  • Con: ngôi bất thường, nhau tiền đạo, nhau bám thấp, vỡ ối, rỉ ối.
- Tiêu chuẩn chấm dứt nghiên cứu: khi sản phụ thay đổi ý kiến không tiếp tục tham gia nghiên cứu hoặc khi có cơn gò cường tính ≥6 cơn trong 10 phút [4,6] kèm theo thay đổi bất thường tim thai, thai suy, nhau bong non, vỡ tử cung.
Cỡ mẫu
hinh8
Với: Nguy cơ tương đối cần kiểm định: Ro=1, xác xuất thất bại của phương pháp Foley (Bùi Ngọc Phượng, 2009): P2=34% [3], nguy cơ tương đối (ước tính): RRa=0,5, mức ý nghĩa: α=0,05, lực của test: (1–β) =0,90, giả thuyết có (HA), kiểm định 2 phía: nguy cơ tương đối ≠1.
→ N=45. Ước tính 10% chấm dứt nghiên cứu giữa chừng nên cỡ mẫu dự trù mỗi nhóm là 50.
Phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên
Trình tự phân bố ngẫu nhiên được tạo theo phương pháp chia nhóm block chuyển vị ngẫu nhiên, với cỡ block là 4, có 6 chuyển vị của block là: 1-AABB, 2-ABAB, 3-ABBA, 4-BBAA, 5-BABA, 6-BAAB. Với: nhóm A đặt PGE2 (Cerviprime gel), nhóm B đặt ống thông foley.
Phương pháp tiến hành
Phương tiện thu thập số liệu: bảng thu thập số liệu, ống thông foley loại 2 nhánh số 20, thuốc prostaglandin E2 (Cerviprime gel 0,5mg).
Tiến trình thu thập số liệu
hinh6
Tiêu chuẩn đánh giá khởi phát chuyển dạ [2,3,4]
- KPCD thành công: là khi chỉ số Bishop tăng ≥3 điểm [3,5] sau 24 giờ KPCD bằng PGE2 hoặc sau 24 giờ KPCD bằng Foley.
- KPCD thất bại: là khi không đạt tiêu chuẩn thành công hoặc khi tử cung không có 1 chút đáp ứng nào đối với các kích thích hoặc khi TC gò ≥6 cơn trong 10 phút mà cổ TC không mở.
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Tóm lược các bước thu thập số liệu
Thu thập số liệu
Trong thời gian nghiên cứu, có 107 thai phụ thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu và được mời tham gia nghiên cứu. Loại khỏi nghiên cứu 7 trường hợp gồm: 2 trường hợp không đồng ý tham gia vì muốn mổ lấy thai; 1 trường hợp ối vỡ non sau khi đồng ý tham gia; 2 trường hợp có Bishop thay đổi ≥6 điểm sau khi đồng ý tham gia; 1 trường hợp mồng gà cổ tử cung; 1 trường hợp thay đổi ý kiến không đồng ý đặt tiếp liều PGE2 thứ 2. Kết quả chúng tôi thu nhận 100 trường hợp thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu, đồng ý tham gia và hoàn tất nghiên cứu. Trong đó có 50 ca tính đến thời điểm phân tích giữa kỳ.
Kết quả phân tích giữa kỳ
Với kết quả phân tích giữa kỳ ghi nhận khi KPCD bằng PGE2, khả năng thành công tăng lên 1,27 lần so với KPCD bằng đặt thông foley (RR=1,27; KTC 95% 0,91-1,78), sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê.
Với qui trình chọn mẫu ngẫu nhiên chúng tôi nhận mẫu một cách thuận lợi, dễ dàng, thỏa các tiêu chuẩn chọn mẫu. Chưa ghi nhận trường hợp nào có tác dụng phụ trầm trọng cũng như có biến chứng khi được KPCD bằng PGE2. Không ghi nhận than phiền về tiến trình nghiên cứu từ thai phụ và đồng nghiệp.
Chúng tôi đã trình kết quả phân tích giữa kỳ lên Hội đồng Y đức, Hội đồng Nghiên cứu khoa học của Bệnh viện Từ Dũ và cho phép chúng tôi tiếp tục tiến hành tiếp nghiên cứu theo đề cương gốc.
Đặc điểm dịch tễ của đối tượng tham gia nghiên cứu
Bảng 1. Đặc điểm dịch tễ học của đối tượng tham gia nghiên cứu.

Cerviprime

Thành phần: Mỗi bơm tiêm Dinoprostone 0,5 mg
Chỉ định
Cerviprime được sử dụng để chuẩn bị trước cho sự chín muồi và giãn nở cổ tử cung ở phụ nữ mang thai đúng kỳ hoặc gần đến kỳ sanh với đặc điểm khởi phát chuyển dạ không thuận lợi như chỉ số Bishop thấp.
Chống chỉ định
Không có chống chỉ định tuyệt đối đối với việc sử dụng Cerviprime gel. Tuy nhiên, không khuyến cáo sử dụng thuốc trong các trường hợp sau:
1. Sản phụ quá mẫn cảm với prostaglandin.
2. Các sản phụ có chống chỉ định đối với các thuốc có tác dụng kích thích chuyển dạ (oxytocic):
a) Sản phụ có tiền sử sanh mổ hoặc phẫu thuật lớn ở tử cung.
b) Sản phụ có tình trạng bất tương xứng đầu chậu.
c) Sản phụ đã có suy thai trước đây.
d) Sản phụ lớn tuổi đã sanh nhiều lần.
e) Sản phụ sanh khó hoặc sang chấn khi chuyển dạ.
f) Sản phụ có tình trạng tăng cơn gò tử cung về cường độ và tần số.
g) Cấp cứu sản khoa khi mà tỷ số giữa lợi ích-nguy cơ cho bào thai hoặc sản phụ ưu tiên cho chỉ định phẫu thuật.
3. Sản phụ có tình trạng nhau tiền đạo hay bị chảy máu âm đạo không giải thích được trong thời kỳ mang thai.
4. Tình trạng bệnh nhân không cho phép chỉ định sinh ngả âm đạo như tình trạng mạch máu tuần hoàn nhau thai nhi nằm sát hay vắt ngang lỗ trong cổ tử cung (vasa previa) hay nhiễm herpes bộ phận sinh dục tiến triển.
Thận trọng lúc dùng
Cần thận trọng khi sử dụng dinoprostone trong các trường hợp sau:
  1. Bệnh nhân bị glôcôm hoặc tăng nhãn áp.
  2. Hen suyễn hay tiền sử bị hen suyễn.
Trong quá trình sử dụng dinoprostone gel, cần theo dõi cẩn thận cơn gò tử cung, tình trạng thai, sự giãn và xóa mở cổ tử cung để phát hiện các tác động không mong muốn như cơn gò tử cung cường tính hoặc suy thai. Khi cơ tử cung co thắt mạnh kéo dài, vỡ tử cung có thể xảy ra.
Không bơm Cerviprime vượt quá lỗ trong cổ tử cung.
Thận trọng khi sử dụng Cerviprime gel trên bệnh nhân bị rối loạn chức năng thận hay gan.
Thận trọng khi dùng Cerviprime gel trên bệnh nhân bị vỡ ối. Tính an toàn khi sử dụng trên các bệnh nhân này chưa được xác định.
LƯU Ý: Prostaglandin có khả năng làm tăng tác động của oxytocin trên tử cung mang thai. Nếu oxytocin được sử dụng tiếp theo để khởi phát chuyển dạ, nên theo dõi cẩn thận hoạt động của tử cung.
Lúc có thai và lúc nuôi con bú
Nhóm C
Prostaglandin E2 làm tăng sự dị dạng xương trên chuột và thỏ. Tuy nhiên, những tác dụng như vậy không được nhận thấy trên lâm sàng vì Cerviprime gel được chỉ định sử dụng sau thời kỳ biệt hóa các cơ quan.
Tương tác thuốc
Prostaglandin có khả năng làm tăng tác động của oxytocin (co cơ tử cung).
Thuốc kháng viêm không steroid (NSAID) dường như không có tác động tương tác nào ở liều thông thường.
Tác dụng ngoại ý
Tần suất và mức độ nặng của các phản ứng ngoại ý khi dùng dinoprostone phụ thuộc vào liều dùng và cũng phụ thuộc ở một mức độ nào đó vào đường dùng.
Phản ứng ngoại ý với dinoprostone được ghi nhận thường nhất là buồn nôn, nôn và tiêu chảy. Đã có ghi nhận thay đổi tim thai trong quá trình sanh. Vỡ tử cung và bất thường cơn gò tử cung kèm hoặc không kèm suy thai cũng được báo cáo.
Trong các thử nghiệm có đối chứng, những phản ứng ngoại ý sau được báo cáo với tần suất ≥ 1 %:
- Trên người mẹ: cơn gò tử cung bất thường, tác động trên dạ dày-ruột, đau lưng và sốt.
- Trên thai nhi: thay đổi về nhịp tim thai, chậm nhịp tim.
Các phản ứng khác được báo cáo trong y văn, liên quan đến việc sử dụng dinoprostone gel đặt trong kênh cổ tử cung, bao gồm cả tình trạng vỡ ối sớm, suy thai và nhiễm acid bào thai.
Trong quá trình lưu hành thuốc đã có báo cáo về sự tăng nguy cơ đông máu nội mạch lan tỏa được mô tả trên các bệnh nhân mà có khởi phát chuyển dạ bằng thuốc, hoặc với dinoprostone hoặc với oxytocin. Tuy nhiên tần suất của các phản ứng này lại rất thấp (< 1/1000 lần chuyển dạ).
Liều lượng và cách dùng
Sử dụng catheter có trong hộp thuốc để bơm toàn bộ thuốc trong bơm tiêm vào kênh cổ tử cung ngay dưới lỗ trong cổ tử cung. Nên hướng dẫn bệnh nhân nằm ngửa thêm tối thiểu 30 phút.
Hướng Dẫn Sử Dụng:
Cerviprime gel được cung cấp trong bơm tiêm được thiết kế đặc biệt chứa sẵn thuốc và dùng một lần. Bơm tiêm gồm 3 thành phần: catheter, ống bơm và ống đựng thuốc. Khi đóng gói, nhà sản xuất gắn ống bơm vào miệng của ống đựng thuốc. Tất cả các bộ phận được đựng trong vỉ kín. Để sử dụng thuốc, cần phải lắp ráp lại bơm tiêm. Một lượng thuốc dư được thêm vào để bù trừ lượng gel dính lại trong catheter.
Quá liều
Dùng quá liều Cerviprime gel có thể gây cơn gò tử cung cường tính, mà hiện tượng này cũng có thể xảy ra nếu sử dụng gel không đúng và thuốc lan rộng trong khoang ngoài màng ối. Trong trường hợp này có thể sử dụng các thuốc bêta-adrenergic như terbutaline để làm giãn cơ tử cung.
Bảo quản
Nên bảo quản trong tủ lạnh ở nhiệt độ 2-8oC. Không đông lạnh.
Gel dùng bơm vào ống cổ tử cung 0,5 mg/3 g : hộp 1 bơm tiêm có sẵn thuốc với 1 catheter

Thứ Ba, 21 tháng 10, 2014

vòng mirena

Vòng tránh thai nội tiết
BS Trần Thị Thúy Phượng
           Khoa KHGĐ - BV Từ Dũ

Từ lâu tránh thai bằng dụng cụ tử cung (DCTC) đã trở  nên rất phổ biến. Rất nhiều loại DCTC được tạo ra nhằm mục đích tăng hiệu quả tránh thai, và làm giảm tối thiểu những tác dụng phụ cho những phụ nữ chọn phương pháp tránh thai bằng DCTC.
 Hiện nay, đã có vòng tránh thai thế hệ mới -MIRENA- là một loại vòng chứa nội tiết. Đây là loại vòng được biết đến với nhiều ưu điểm, đã làm phong phú cho các phụ nữ khi chọn lựa phương pháp tránh hiện đại và hiệu quả cao. Ngoài tác dụng tránh thai, MIRENA còn được sử dụng như là phương pháp điều trị duy trì đối với những trường hợp rong kinh rong huyết, cường kinh, bảo vệ nội mạc tử cung...
Sơ lược về hình dáng và cấu tạo của  MIRENA
Mirena có dạng hình chữ T được cấu tạo bởi nhựa dẻo thấm Sulfate Barium, tạo ra hình ảnh cản quang, vì vậy có thể nhận biết sự hiện diện của vòng trên siêu âm và X quang. Chiều dài của vòng 32mm, tận cùng của khung T là vòng nhỏ có gắn sợi dây polyethylene. Nguồn dự trữ steroid chứa trong ống hình trụ dài19mm bọc ở phía ngoài nhánh dọc chữ T, chứa 52mg levonorgestrtrel (LNG) và được phủ bên ngoài bởi một lớp màng polydimethylsiloxane. Lớp màng này có tác dụng điều chỉnh sự  phóng thích LNG trong buồng tử cung.
Tốc độ phóng thích ban đầu của LNG mỗi ngày vào buồng tử cung là 20µg, và sẽ giảm xuống khoảng 11µg/ ngày sau 5 năm.
 Những hiệu quả của Mirena

  • Trong ngừa thai
 Hiệu quả ngừa thai cao: tỷ lệ có thai trong năm đầu sử dụng là 0-0.2%, tỷ lệ có thai tích luỹ trong 5 năm sử dụng là 0.5-1.1%, cho thấy hiệu quả ngừa thai của Mirena đạt 99%. Mirena được đánh giá tương đương với triệt sản nhưng lại có khả năng hồi phục chức năng sinh sản một cách nhanh chóng.
Cơ chế:  Levonorgestrel có tác dụng làm cô đặc chất nhầy cổ tử cung, như rào cản sự xâm nhập của tinh trùng, làm giảm tính di động của tinh trùng, nhằm ngăn chặn quá trình thụ tinh. Ngoài ra, lớp nội mạc tử cung mỏng đi sẽ không thích hợp cho sự làm tổ của trứng đã thụ tinh.
  • Trong điều trị rong kinh, cường kinh
Rong kinh là một trong những bệnh phụ khoa mà phụ nữ vô cùng lo lắng, gây ảnh hưởng nhiều đến sinh họat hằng ngày, cũng như chất lượng cuộc sống của các chị em phụ nữ bị giảm sút rất nhiều. Rong kinh nếu không chữa trị có thể gây biến chứng như thiếu máu thiếu sắt, thống kinh, nhiễm trùng cấp tính, vô sinh là biến chứng gây ảnh  hưởng nặng nề đến tâm lý người bệnh.
Một khi đã xác định có rối loạn về kinh nguyệt, thì các chị em nên được khám chuyên khoa, nhằm xác định bệnh lý của mình và nguyên nhân do đâu. Mục đích nhằm giúp cho việc điều trị có hiêu quả và nhanh chóng, tránh những biến chứng đáng tiếc.
           

   
Mirena ngoài tác dụng ngừa thai còn được coi như là một phương pháp điều trị hiệu quả những trường hợp rong kinh cơ năng liên quan đến nội tiết, và những trường hợp rong kinh  do u xơ tử cung, hay lạc nội mạc tử cung.
 Cơ chế: sự phóng thích LNG trong khoang tử cung sẽ có tác dụng tại chỗ, làm giảm sụ tăng sản của lớp nội mạc tử cung trong vòng 3-6 tháng đầu sử dụng, điều này có tác dụng làm lượng máu và số ngày hành kinh một cách đáng kể (lượng máu kinh giảm được 90%). Sau 3-4 tháng người sử dụng sẽ có chu kỳ kinh không đều (lượng máu kinh giảm hơn 70%), có thể có hiện tượng ra huyết rỉ rả. 20% phụ nữ sẽ có hiện tượng vô kinh trong 1 năm đầu sử dụng, và con số này lên tới 60% nếu tính đến thời  điểm sử dụng là 5 năm.
 Một số tác dụng khác của Mirena
 Ngừa thiếu máu vì làm giảm số ngày hành kinh.
Giảm triệu chứng đau dụng kinh.
Giảm nguy cơ mắc bệnh viêm nhiễm vùng chậu, viêm nội mạc tử cung, viêm cổ tử cung.
Giảm nguy cơ thai ngoài tử cung.
Không ảnh hưởng lên trọng lượng cơ thể.
 Đối tượng sử dụng Mirena
Những phụ nữ muốn tránh thai lâu dài có thể phục hồi.
Rong kinh, cường  kinh, thống kinh liên quan rối loạn nội tiết, u xơ tử cung, lạc nội mạc tử cung.
Liệu pháp hormon thay thế trong những trường hợp phụ nữ mãn kinh không thể dung nạp progestin đường uống.
 Thời hạn sử dụng: 5 năm.
 Những trường hợp chống chỉ định:
Ung thư vú.
Có thai.
Viêm nhiễm vùng chậu cấp tính.
Nhiễm khuẩn sau hút thai, sau sẩy thai.
Nhiễm khuẩn hậu sản.
Rong huyết chưa chẩn đoán được nguyên nhân.
Những bất lợi khi sử dụng Mirena
 Vì Mirena thực chất cũng là một dụng cụ được đưa vào lòng tử cung nhẳm tạo hiệu quả tránh thai nên Mirena cũng có những tai biến giống như đặt những DCTC khác xảy ra ngay tại thời điểm dặt: co thắt và đau, thủng tử cung (hiếm gặp). Một số trường hợp vòng nằm lệch vị trí hay tuột thấp.
 Một số tác dụng  phụ có thể gặp khi sử dụng vòng Mirena như: rối loạn kinh nguyệt, tình trạng ra  huyết rỉ rả kéo dài, nhức đầu, đau ngực, mụn trứng cá. Tuy nhiên những triệu chứng  khó chịu này chỉ thường gặp trong những tháng đầu tiên và sẽ đa phần giảm dần theo thời gian sử dụng.
Thời điểm đặt và theo dõi sau khi đặt Mirena
Trong vòng 7 ngày đầu tiên của kỳ kinh.
Có thể đặt vào  thời điểm khác của chu kỳ nếu chắc chắn không có thai.
Ngay sau khi hút thai.
Muốn đổi phương pháp ngừa thai khi đang sử dụng một biện pháp tránh thai lâu dài khác.
Sau sanh 6 tuần, trường hợp nếu chưa có kinh  thì cần chắc chắn không có thai.
Phụ nữ sau sanh và đang cho con bú vẫn có thể sử dụng mirena ngừa thai, vì không gây ảnh hưởng đến chất lượng của sữa mẹ và sự phát  triển của trẻ.
         
Vế vấn đề có thai trở lại sau khi ngưng sử dụng vòng Mirena
Đây là điều  mà người sử dụng rất quan tâm khi chọn biện pháp tránh thai có tác dụng lâu dài này. Dựa trên những nghiên cứu người ta thấy rằng khả năng mang thai cũng như chức năng buồng trứng của người sử dụng sẽ lập tức hồi phục ngay sau khi tháo vòng.
Mỗi một phương pháp tránh thai đều có những ưu điểm và nhược điểm. Tùy vào mức độ ảnh hưởng trên từng đối tượng sử dụng như thế nào mà người sử dụng có thể chấp nhận và tiếp tục sử dụng hay không.
Vòng tránh thai nội tiết là một phương pháp ngừa thai hiệu quả cao và lâu dài, đồng thời được sử dụng như là một phương pháp điểu trị duy trì trong một sốtrường hợp. Tuy nhiên, giá thành của phương pháp này vẫn còn khá cao, đối tượng sử dụng thường là những người có thu nhập cao. Do đó, trước khi quyết định chọn lựa một phương pháp ngừa thai nào thì việc cân nhắc sự phù hợp về giá thành, nhu cầu và tính  hiệu quả của phương pháp đó rất cần thiết.