BÍ ẨN NHỤC THÂN CÁC THIỀN SƯ - PGS - TS Nguyễn Lân Cường
1- Nhục thân cụ sư Rau (Thiền sư Vũ Khắc Minh).
Nhục thân thiền sư Vũ Khắc Minh sau khi tu bổ - Ảnh do tác giả cung cấp
Ngày 3.5.1983, theo yêu cầu của Văn phòng 10 Hội đồng Bộ trưởng,
Viện Khảo cổ học cử một đoàn cán bộ xuống chùa Đậu, thuộc huyện Thường
Tín (Hà Tây cũ) để kiểm tra tình trạng xuống cấp của gác chuông. Trong
đoàn có tôi. Lang thang vòng ra bên phải, sau dãy hành lang, tôi thấy
một chiếc am nhỏ, rêu phong mà bên ngoài cửa phủ mành tre. Nhìn vào bên
trong, tôi chợt giật mình vì thấy một nhà sư ngồi thiền, đôi mắt “lim
dim” như đang suy tư về cõi Phật.
Từ lâu, nhân dân quanh vùng đã
truyền tụng với nhau rằng ở chùa Đậu, có hai am nằm ở bên phải và bên
trái của chùa. Am bên phải là của thiền sư Vũ Khắc Minh, bên trái là am
thiền sư Vũ Khắc Trường. Chuyện kể rằng, khoảng thế kỷ XVII, vào một
ngày nọ, thiền sư Vũ Khắc Minh (mà nhân dân trong vùng quen gọi ngài là
cụ sư Rau - nhà sư thường chỉ ăn rau trừ bữa) bước vào trong am và nói
với các đệ tử rằng: “Mang cho ta một chum nước uống và một chum dầu để
thắp. Khi nào thấy dứt tiếng mõ hãy mở cửa am ra. Nếu thấy thi thể của
ta đã hỏng, thì dùng đất lấp am đi, còn ngược lại thì dùng sơn ta bả lên
thi thể...”. Dứt lời, cụ bước vào am tọa thiền và chỉ còn nghe vẳng ra
tiếng mõ tụng kinh suốt ngày này qua ngày khác . Tròn trăm ngày, các đệ
tử không nghe thấy tiếng mõ nữa, vội mở cửa am ra thì thấy ngài vẫn ngồi
đấy như đang trong lúc tọa thiền. Hai chân ken vào nhau đúng vị trí của
thiền, còn hai tay hơi bị xệ xuống. Nhớ lời thầy dặn, họ vội lấy sơn ta
bả lên thi hài.
Trong cuốn “Những chùa, đình và nhà thờ của Hà
Đông - Phong cảnh Hà Đông” xuất bản năm 1932 (tiếng Pháp), tác giả cho
rằng đó là những “momies” (xác ướp) kiểu Ai Cập. Thật sai lầm! Tệ hại
hơn, trong một bài báo đăng trên tờ Thời Mới vào năm 1957 lại có tiêu đề
khá giật gân Xác ướp chùa Đậu hàng trăm năm vẫn còn giữ nguyên bộ phận
sinh dục!
Bằng con mắt nghề nghiệp, tôi phát hiện qua vết nứt ở
trên trán có xương sọ ở bên trong, và thế là tôi nảy ra ý định chụp phim
X-quang để chứng minh đây là một nhục thân nguyên dạng. Nếu chứng minh
được thì rõ ràng phương thức táng này nằm ngoài 5 táng thức đã có trước
đây trên thế giới: địa táng hay thổ táng (chôn trong đất); hỏa táng (đốt
thi hài); hải táng hay thủy táng (thả xuống nước); thiên táng hay điểu
táng (cho chim ăn để được bay lên trời); huyền táng hay táng treo.
Chiều 25.5.1983, tôi chuyển nhục thân thiền sư Vũ Khắc Minh về khoa
X-quang Bệnh viện Bạch Mai. Với sự giúp đỡ tận tình của PGS - bác sĩ
Đặng Văn Ấn, bác sĩ Nguyễn Trọng Đức và các kỹ thuật viên, tôi đã tiến
hành soi phần sọ, ổ ngực và ổ bụng. Qua màn hình, tôi thấy toàn bộ xương
sườn, xương đốt sống đổ sập xuống nằm gọn trong khoang bụng. Rõ ràng,
không có chất dính giữa các xương đốt sống. Hộp sọ còn nguyên vẹn, phần
xương lá mía không bị đục vỡ như trên sọ vua Ai Cập Ramsès V để lấy não
ra. Từ đó, có thể suy ra não và các nội tạng - về mặt lý thuyết - là vẫn
còn nguyên trong nhục thân. Kết hợp giữa chiếu và phim chụp, có thể
thấy rõ các xương dưới sọ như xương cánh tay, cổ và bàn tay, xương chậu
hông, đùi, xương chày, mác và xương cổ chân, bàn chân đều nằm đúng với
vị trí giải phẫu. Trong các xương không có cốt bằng kim loại, rõ ràng
đây là một nhục thân nguyên dạng.
Bằng phương pháp quang phổ
phát xạ vùng tử ngoại và chiếu xạ tia rơn-ghen khi phân tích chất bồi
của nhục thân thiền sư Vũ Khắc Minh, Tiến sĩ Lê Nguyên Sóc cũng đã có
kết luận phù hợp với ý kiến của chúng tôi về chất bồi. Đó là hỗn hợp của
sơn ta, mùn cưa, giấy dó và đất...
Tôi mừng quá, vì như vậy là
đã chứng minh được đây là một táng thức mới mà tôi đặt tên là tượng táng
(táng theo kiểu làm thành tượng) hay thiền táng (táng theo kiểu ngồi
thiền). Sau này tôi mới biết nét văn hóa trên cũng có ở Trung Quốc. Vào
thế kỷ thứ VIII sau Công nguyên, kỹ thuật “Giáp trữ tất” (sơn ta bó lụa)
đã được thực hiện khi Lục tổ Huệ Năng (638 - 713) viên tịch. Hiện nay,
chân thân còn nguyên vẹn để tại Nam Hoa Tự, nằm ở phía tây tỉnh Quảng
Đông của Trung Quốc, thuộc thôn Nam Hoa, huyện Khúc Giang, cách TP Quảng
Châu về phía tây hơn 230 km.
Tượng đối chứng (trước) và tượng gốc (sau) của thiền sư Vũ Khắc Minh - ảnh: N.L.C
Họa sĩ sơn mài Đào Ngọc Hân đang thếp vàng tượng gốc thiền sư Vũ Khắc Minh
2- Nhục thân Thiền sư Vũ Khắc Trường.
Trong chùa còn có pho tượng cổ thứ hai: Thiền sư Vũ Khắc Trường -
người trụ trì chùa Đậu kế tục ngay sau Vũ Khắc Minh, không có tài liệu
nào nói đây là “chú, cháu” như một số báo đã đưa tin. Năm 1893, chùa bị
lụt, tượng Vũ Khắc Trường nằm ở vị trí thấp hơn nên bị nước tràn vào và
bị hỏng. Các cụ trong làng đã làm lại một pho tượng khác bằng sơn ta có
cốt dựng bằng tre và gỗ rồi xếp xương vào bên trong.
Tại Viện
Thông tin khoa học xã hội VN ở Hà Nội, chúng tôi tìm thấy hai bức ảnh
chụp tượng thiền sư Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường còn bóng nước sơn,
không hề có vết nứt nào.
Nhưng chỉ sau vài chục năm, do tượng để
trong am cạnh chùa rất ẩm ướt nên đã làm cho cả hai pho tượng xuống cấp
trầm trọng. Pho tượng Vũ Khắc Minh bị nứt ở đầu gối và phần mặt. Pho
tượng Vũ Khắc Trường, hỏng trầm trọng ở phần chõn, hầu như không còn
ngồi được ngay ngắn, nếu không có những miếng gỗ kê ở phía dưới.
Tôi bắt tay viết dự án Tu bổ, bảo quản tượng hai vị thiền sư Vũ Khắc
Minh và Vũ Khắc Trường ở chùa Đậu (Hà Tây) ngay vào đầu năm 2000. Nhóm
công tác gồm: PGS-TS Nguyễn Lân Cường (Chủ nhiệm dự án), họa sĩ sơn mài
Đào Ngọc Hân, các nhà điêu khắc Phạm Xuân Sinh, Nguyễn Ngọc Lâm, kỹ sư
Nguyễn Mạnh Hà. Ngoài ra, còn có 6 cơ quan cùng kết hợp để thực hiện dự
án, một hội đồng cố vấn và Ban quản lý dự án được thành lập. Điều khó
khăn nhất với chúng tôi là các phương án nêu ra không thể mắc sai lầm vì
hai pho tượng này là độc bản, chỉ cần mắc một lỗi nhỏ là không thể sửa
chữa được.
Ngày 18 tháng 4 năm 2003 (tức 17 tháng 3 năm Quý Mùi)
sau vài tháng tranh luận quyết liệt xem tu bổ nhục thân ở đâu, lễ khởi
công dự án tu bổ - bảo quản nhục thân hai vị thiền sư chùa Đậu được tổ
chức ngay tại chùa. Và thế là bắt đầu những ngày lao động trong suốt 6
tháng trời...
Bằng kỹ thuật truyền thống: bó, hom, lót, thí, mài
và thếp với các nguyên liệu như: sơn ta, vải màn, giấy dó, mạt cưa và
đất, chúng tôi đã tiến hành sơn 14 lớp và thếp vàng đối với tượng gốc
Thiền sư Vũ Khắc Minh, còn nhục thân Thiền sư Vũ Khắc Trường thì thếp
bạc. Sau mỗi lớp sơn lại tiến hành mài, khiến bề mặt là các lớp sơn đan
ken, xoắn quyện với nhau. Đến lớp cuối khi phủ quang dầu xong, chúng tôi
phát hiện bề mặt pho tượng không nhẵn. Những hạt bụi lơ lửng trong
không trung đã bám vào bề mặt tượng. Chúng tôi quyết định làm lại và
thực hiện khâu này trong... màn. Trời nóng, mấy anh em phải xoay trần
suốt cả buổi chiều. Thật tuyệt vời, 2 ngày sau kiểm tra trên mình thiền
sư mịn bóng, không một gợn bụi...
Với pho tượng của thiền sư Vũ
Khắc Trường, vốn là pho tượng đã được dựng lại năm 1893, nên có nhiều
chi tiết sai lệch về mặt giải phẫu. Trong dự án soạn thảo đầu tiên, tôi
có ý định dỡ ra, thu thập xương cốt rồi dựa theo xương sọ để phục nguyên
lại đúng với vẻ mặt ban đầu của thiền sư. Đây là phương pháp của
Gherasimov (người Nga) mà tôi là người VN đầu tiên và duy nhất được học
tập tại nước ngoài. Nhưng nhà chùa và cơ quan văn hóa thông tin địa
phương không tán thành, vì cho rằng nhân dân địa phương hơn trăm năm nay
đã in đậm trong tâm khảm hình ảnh của cụ Vũ Khắc Trường hiện tại rồi.
Dù phục dựng pho tượng mới có giống với hình hài thật của cụ, họ cũng sẽ
không chấp nhận. Tôi đành phải theo ý họ, mặc dầu vẫn ấm ức!
Pho tượng bị hỏng trầm trọng, bề mặt tượng lớp sơn bị mủn nát. Chỉ cần
một tác động nhẹ là cả pho tượng sẽ bị đổ sập xuống. Do đó không thể đổ
thạch cao làm khuôn trên chính pho tượng gốc để làm tượng đối chứng.
Nhóm chúng tôi quyết định giao cho nhà điêu khắc trẻ Nguyễn Ngọc Lâm làm
một pho tượng bằng đất sét có kích thước, hình dáng giống hệt tượng gốc
và tiến hành đổ khuôn để tu bổ phần chân và pho tượng đối chứng.
Vào một buổi chiều mùa hè, tôi ngồi ngắm pho tượng gốc của Thiền sư Vũ
Khắc Trường và cứ suy nghĩ mãi không hiểu tại sao vị thiền sư này có
cánh tay dài thế, khi so sánh với tỷ lệ chung của pho tượng. Tôi bàn bạc
với họa sĩ sơn mài Đào Ngọc Hân và quyết định “bí mật” khoét bốn ô nhỏ ở
vùng gần đầu xương cánh tay và khuỷu tay. Điều này cấp trên không tán
đồng, nhưng chúng tôi cứ “liều” vì biết đâu có thể phát hiện ra một chân
lý nào đó... Ước mơ ấy của chúng tôi đã thành sự thật. Trong hố khoét
của cánh tay phải ở phía trên gần vai, tôi phát hiện ra ròng rọc và chỏm
của xương cánh tay (đã bị đặt lộn ngược), bên cạnh nó là xương mác của
xương ống chân được ghép vào xương cánh tay và cũng bị lộn đầu. Đây
chính là nguyên nhân làm cánh tay của thiền sư dài quá cỡ. Chúng tôi đã
tiến hành phủ sơn ta, giấy bản, vải màn, mạt cưa, đất và thếp bạc mà chỗ
dày nhất tới 22 lớp. Toàn bộ pho tượng thiền sư Vũ Khắc Trường nặng 31
kg.
Ngày nay ai tới chùa Đậu cũng thấy có 2 cụ Minh, 2 cụ
Trường, từng cặp giống nhau như hệt. Thật ra chỉ có 2 pho tượng gốc là
đặt trong nhà tổ. Hai pho còn lại được làm bằng thạch cao để đặt trong
am ở hai bên cạnh chùa.
3- Nhục thân Thiền sư Chuyết Chuyết - Chuyện lạ từ làng Phật Tích
Nhà điêu khắc Bùi Đình Quang (trái) và nhà nhân chủng học Nguyễn Lân
Cường tái tạo hình dạng của nhục thân thiền sư Chuyết Chuyết dựa vào di
cốt còn lại - Ảnh tác giả cung cấp
Chùa Phật Tích - ngôi chùa
thời Lý nghìn năm tuổi còn giữ được pho tượng đá lớn nhất và những con
thú bằng đá, nằm trên lưng chừng núi Lạn Kha, xã Phật Tích, huyện Tiên
Du, tỉnh Bắc Ninh. Nhưng tại sao lại có tên Lạn Kha, Tiên Du và Phật
Tích?
Chuyện xưa
Trèo lên đỉnh núi phía sau chùa, chúng
ta sẽ bắt gặp mấy khối đá vuông, mặt phẳng. Các cụ già trong làng bảo
đấy là bàn cờ tiên. Tương truyền, trong làng lúc đó có một chàng tiều
phu tên gọi là Vương Chất. Một hôm, nhân lên núi đốn củi, Vương Chất
thấy hai cụ già râu tóc bạc phơ đang ngồi đánh cờ trên tảng đá bằng
phẳng. Hai cụ vừa đánh cờ vừa ăn đào và vứt hột sang bên. Vương Chất vừa
xem cờ, vừa nhặt hạt đào để ngậm tiếp. Ván cờ vừa xong, nhìn xuống
chân, thấy chiếc cán rìu đã mục và cũng là lúc hai cụ biến vào sau hàng
thông hiu quạnh... Soi mình trong bóng nước thấy râu tóc bạc trắng,
chàng mới chợt hiểu rằng mình đã lạm sống một thời gian dài ở cõi tiên -
một năm bằng sáu, bảy mươi năm ở cõi trần. Thế là, vì có tiên xuống
chơi mà người ta gọi là Tiên Du và cũng vì “cán rìu mục nát” mà núi ở
đây cũng còn có tên là Lạn Kha...
Truyện kể lại, chùa xưa rộng
rãi khang trang có tới 300 tòa nhà. Chỉ riêng công việc dọn dẹp đã cần
tới 70 người. Đặc biệt ngọn tháp của chùa cao vời vợi, nhòa lẫn trong
mây, đến nỗi ở tận kinh thành Thăng Long vẫn còn nhìn rõ. Nhà vua ngạc
nhiên hỏi cận thần cớ sao ở nơi thôn dã mà lại có cây tháp cao hơn cả
cung điện trong hoàng thành? Sau lời “quở” đó, cây tháp thần kỳ bị đổ
dọc theo sườn núi, gạch đổ xuống tới tận đầu làng dài gần cây số, nơi ấy
nay còn tên là “Ngõ Gạch”. Dưới lòng đáy tháp lộ ra một pho tượng Phật
sừng sững. Pho tượng ấy nay vẫn còn, gọi là tượng Phật A Di Đà. Để ghi
lại tích Phật ấy, làng đổi tên là Phật Tích và dời lên sườn núi.
Bí ẩn tháp Báo Nghiêm
Vào một đêm cuối tháng 8.1989, trời mưa tầm tã, những tia sét cuối
hè xé ngang bầu trời tối đen như mực, liếm sang cả phía sau sườn núi Lạn
Kha. Chính trong cái đêm mưa bão ấy, kẻ gian đã lẻn lên sau chùa phá ô
cửa nhỏ bằng đá của tháp Báo Nghiêm, hòng tìm kiếm vàng bạc, hay tượng
đồng đen trong tháp. Tháp Báo Nghiêm, dựng năm Chính Hòa thứ 13 (1692),
cao bốn tầng. Mặt tháp có chạm tượng Phật, ngồi trên tòa sen. Bọn trộm
có ngờ đâu, trong lòng tháp chỉ vỏn vẹn có một vại sành, trong đó đựng
xương và những mảnh vỡ của một pho tượng cổ. Ngày hôm sau, đoàn tham
quan gồm bảy nhà sư do Thượng tọa Thích Thanh Quang - trụ trì chùa Quỳnh
Lâm (tỉnh Quảng Ninh) dẫn đầu lên thăm khu tháp bỗng nhìn thấy các mảnh
xương, mảnh bồi nằm tung tóe dưới chân tháp. Thượng tọa vội báo cho Ban
di tích “Tìm thấy di hài của Phật Tổ rồi!...”. Ông Trần Xuân Trường và
Ban di tích của chùa vội gom lại xương và các mảnh bồi vào trong một hòm
kính đặt ở chùa. Chẳng mấy chốc, cái tin tìm thấy thi hài của “Phật Tổ”
lan đi rất nhanh. Đúng vào thời gian này, tôi đang nghiên cứu tại Viện
Khảo cổ học Viện Hàn lâm khoa học Cộng hòa Liên bang Nga (Liên Xô cũ) ở
Moscow. Về nước vào đầu tháng 3.1991, thì giữa tháng 4, tôi được Ban di
tích của chùa Phật Tích mời lên nghiên cứu nhục thân của thiền sư.
Thiền sư Chuyết Chuyết và hành trình tìm về sự thật
Ngày 10.10.1992, bà Nguyễn Thị Lan - Phó ban di tích, chính thức đề
nghị tôi đứng ra chịu trách nhiệm phục nguyên nhục thân thiền sư Chuyết
Chuyết. Tổ công tác được thành lập ngay gồm: họa sĩ sơn mài Đào Ngọc
Hân, nhà điêu khắc Bùi Đình Quang, họa sĩ Nguyễn Đình Hiển, và tôi, chịu
trách nhiệm chỉ đạo trực tiếp.
Nhục thân Thiền sư Chuyết Chuyết sau khi phục nguyên
Toàn bộ chi phí cho việc phục dựng được nhiều phật tử đóng góp vỏn
vẹn chỉ có 5 triệu đồng! Ngồi tính toán mãi tôi thấy đúng là chỉ đủ tiền
mua sơn ta, vàng lá để dát và một số nguyên vật liệu khác. Tôi nói
thẳng với anh em là kinh phí quá hạn hẹp, nên việc phục dựng xin cái tâm
là chính, chứ không có công xá gì cả... Anh em trong cả tổ đều vui vẻ
tán thành. Có khó khăn mới thấy được họ đúng là những người bạn tuyệt
vời của tôi.
Được sự giúp đỡ của Sở Văn hóa - Thông tin Bắc Ninh,
Phòng Văn hóa huyện Tiên Sơn, ngày 12.1.1993, chúng tôi đã chuyển 133
mảnh xương và 209 mảnh bồi về Hà Nội để nghiên cứu.
Cả nhóm
chúng tôi trao đổi, tranh luận với nhau xem nên phục dựng toàn bộ pho
tượng bằng cách nào. Lúc đầu, có ý kiến đưa ra là dùng dây đồng nối các
xương lại, kết hợp với khung tre làm cốt để dựng tượng. Bàn đi tính lại
mãi thấy không ổn, vì bản thân tôi muốn bên trong tượng của thiền sư chỉ
nên có di cốt của ngài. Cuối cùng, cả nhóm nhất trí theo phương án từng
bước như sau:
1. Tái tạo pho tượng bằng đất sét theo tư thế ngồi thiền.
2. Đổ khuôn pho tượng, bằng cách tạo các mảng khuôn.
3. Bồi sơn ta, lót vải màn, rắc mạt cưa, trộn sơn ta tất cả là 10 lớp ở mặt trong của khuôn.
4. Gắn xương vào đúng vị trí giải phẫu bằng chất liệu sơn ta trộn với mùn cưa.
5.
Khi sơn ta với lớp vải màn, mạt cưa đã khô cứng lại, tiến hành phá
khuôn thạch cao ở bên ngoài, gỡ các mảnh bó cốt và gắn thành hình tượng
thô.
6. Tiếp theo là các công đoạn làm sơn thông thường: “bó” hai nước, “hom” ba nước, “lót” hai nước và “thí” hai nước.
7. Thếp bạc.
8. Quang dầu hai lần.
Cả nhóm chúng tôi đã miệt mài lao động trong hơn ba tháng rưỡi và
sáng 1.5.1993, nước sơn quang cuối cùng đã phủ kín pho tượng, kết thúc
công việc của một phương án táo bạo, mà chưa một nhà điêu khắc nào làm
theo kiểu này: tượng hoàn toàn không có cốt bằng sắt, thép hay tre, gỗ
làm trụ ở bên trong.
Mặt trong của mang khuôn
Phục nguyên nhục thân xong, tôi cứ băn khoăn mãi, vì không hiểu có
chắc vị thiền sư mà chúng tôi phục nguyên là thiền sư Chuyết Chuyết hay
không? Ban Di tích của chùa nói với tôi, vị sư trụ trì ở chùa Phật Tích
trong thời gian trước chiến tranh là đại đức Hồng Đức, đã mất năm 1980
(?). Nhưng không thể chỉ có một vị sư ở chùa, nghĩ vậy nên tôi lần dò
tìm mãi thì được biết còn có ông già Triệu, vốn là sư bác của chùa vào
những năm trước khi cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ.
Tìm đến
thôn Mao Rộc, cách chùa Phật Tích 15 km, tôi gặp được cụ Nguyễn Chí
Triệu, vốn là sư bác ở chùa bốn nhăm năm về trước. Tôi mở cặp lấy ra tấm
ảnh chụp pho tượng mà chúng tôi vừa phục chế, đưa cho cụ xem. Nheo nheo
đôi mắt, cụ trả lời ngay: “Đúng là cái tượng để trong khám rồng đấy”.
Trở về Hà Nội, tôi lật tìm cuốn sách Phật Lục của Trần Trọng Kim xuất
bản năm 1943, tới trang 95 thì thấy tác giả cũng khẳng định rõ “khám thờ
Tổ đệ nhất bó cốt làm tượng...”. Lại có cả bản vẽ minh họa vị trí đặt
pho tượng Chuyết Công trong nhà Tổ, nhưng không có ảnh chụp chiếc khám.
Tiếp tục lục tìm kho tư liệu ảnh về chùa Phật Tích của Viện Thông tin
khoa học xã hội, tôi không hề thấy ảnh chiếc khám nào. Nhưng thật may
mắn khi lật tìm những tư liệu của chùa Bút Tháp, tôi chợt thấy bức ảnh
mang ký hiệu số 7956 chụp một chiếc khám vào năm 1930 và có chú thích
phía sau bằng tiếng Pháp “Khám gỗ chạm trổ thếp son giữ tượng nhà sư
Chuyết Công”.
Chùa Bút Tháp ở Bắc Ninh, cách chùa Phật Tích chỉ
độ dăm cây số theo đường chim bay. Nơi đây cũng có tháp Báo Nghiêm,
nhưng không hề có chiếc khám gỗ thờ Tổ đệ nhất. Chắc chắn người ta đã
xếp nhầm bức ảnh này vào số ảnh của chùa Bút Tháp. Tôi lại vội vàng
phóng xe máy lên gặp sư bác Nguyễn Chí Triệu để xác nhận xem có đúng
chiếc khám của chùa Phật Tích không? Ông đã khẳng định đó là chiếc khám
đặt tượng tổ Chuyết Chuyết. Từ những câu chuyện trên, chúng tôi suy đoán
rằng: Khi kháng chiến bùng nổ, thấy chùa bị pháo kích, sau đó lại bị
đốt cháy, nên có thể vị sư trụ trì của chùa đã đập vỡ pho tượng cổ thành
nhiều mảnh nhỏ, đưa vào vại sành rồi giấu vào tháp Báo Nghiêm.
Đây chính là nhục thân của thiền sư Chuyết Chuyết vốn đặt trong khám rồng ở nhà Tổ. Thế là sự thật được minh chứng...
4- Tu bổ nhục thân thiền sư Như Trí
Chụp X-quang tại Bệnh viện Đa khoa Bắc Ninh - Ảnh: N.L.C
Ni sư Đàm Chính, chùa Tiêu Sơn (huyện Từ Sơn, Bắc Ninh), năm nay đã
ngót nghét 80 tuổi. Năm 17 tuổi, bà là người đầu tiên nhìn thấy nhục
thân thiền sư Như Trí trong tòa tháp ở chùa.
Hơn 60 năm trước, ni
sư Đàm Chính đã về tu nghiệp ở chùa khi còn là một thiếu nữ 17 tuổi.
Năm 1971, khi vén một nhành cây phủ tháp Viên Tuệ, ni sư thấy một viên
gạch màu đỏ, trên đó có ghi tên và năm tịch của người trong tháp - Tỳ
kheo Như Trí (mất năm 1723). Ni sư là người đầu tiên nhìn thấy nhục thân
ngồi trong tháp, qua một khe nứt của tháp. Nhưng rồi cụ bít chặt khe
nứt này lại và giữ kín chuyện mãi đến ngày 4.3.1996, khi Hòa thượng
Thích Thanh Từ - trụ trì Thiền viện Trúc Lâm ở Đà Lạt và Tỳ kheo Thích
Kiến Nguyệt - Tổng thư ký Thiền viện Trúc Lâm tới thăm chùa Tiêu Sơn. Ni
sư Đàm Chính đã nhờ thiền viện giúp đỡ. Tôi gặp Tỳ kheo Thích Kiến
Nguyệt lần đầu tiên tại chùa Đậu (Hà Tây cũ), khi chúng tôi đang tu bổ
hai nhục thân thiền sư Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường. Tỳ kheo đã yêu
cầu chúng tôi giúp tu bổ nhục thân thiền sư Như Trí.
Bắt đầu tu bổ
Chúng tôi đã soạn thảo dự án “Tu bổ và bảo quản nhục thân thiền sư
Như Trí ở chùa Tiêu Sơn (Bắc Ninh)”. Theo dự án này, Sở Văn hóa - Thông
tin Bắc Ninh là cơ quan lập thiết kế và phương án thi công, Thiền viện
Trúc Lâm là đơn vị chủ đầu tư của dự án. Tôi là chủ nhiệm dự án cùng
thực hiện với họa sĩ sơn mài Đào Ngọc Hân và Tỳ kheo Thích Kiến Nguyệt -
Tổng thư ký Thiền viện Trúc Lâm, người theo sát dự án để lo kinh phí.
Ngày 5.3.2003, nhục thân thiền sư Như Trí được đưa ra khỏi tháp.
Nhục thân ngồi thiền định trong tư thế bán già, tay kiết ấn Tam muội,
nhưng vì ẩm mốc nên bị mục rớt phần cẳng tay. Có một lỗ thủng lớn chính
giữa mặt. Xương mũi và xương hàm trên thụt vào hộp sọ. Xương màu đen còn
nhìn thấy rõ bên trong hộp sọ. Vết nứt ở tai phải từ thái dương qua
trước dái tai xuống cổ và chạy sát tới đầu xương đòn phải. Hai tay bị vỡ
từ cánh tay đến hết bàn tay. Các mảnh vỡ rơi rụng xuống nền và lẫn với
đất, đá. Xương mỏng và có màu đen. Một vết vỡ lớn khác ở giữa ống chân
phải, không nhìn thấy xương. Mặc dầu tượng bị vỡ phần tay, ống tay bị vỡ
rụng xuống dưới, nhưng trên ống chân còn dấu vết của một phần bàn tay.
Phía trong mảng bồi, nhìn thấy rõ thớ vải bằng mắt thường. Trật tự từ
ngoài vào trong là: vải bồi, bó, hom, sơn (màu ngà). Không thấy thếp
vàng hay bạc. Nhục thân được sơn phủ bên ngoài một lớp sơn ta màu ngà,
mắt và lông mày vẽ bằng sơn đen. Lớp sơn đã bị bong tróc nhiều nơi, nên
có màu sắc loang lổ. Do nhục thân đặt trong tháp bịt kín lâu ngày trong
môi trường ẩm, mốc làm hỏng lớp sơn và bị bong tróc. Từ các phần hỏng,
thủng, hơi ẩm, côn trùng và vi sinh vật đang xâm nhập vào phá hoại phần
bên trong của nhục thân.
Do ở chùa Tiêu Sơn rất hiếm nước, khách
tham quan lại đông nên việc tu bổ, bảo quản được quyết định chuyển về
thực hiện tại chùa Duệ Khánh (xã Nội Duệ, huyện Tiên Du - Bắc Ninh).
Để diệt khuẩn ở bên ngoài và trong tượng, phải phun thuốc diệt khuẩn
và xông thuốc. Bề mặt pho tượng bị nứt, nhiều nơi bị bong tróc lớp sơn
ta. Chúng tôi xử lý ngay bề mặt pho tượng bằng cách phủ bề mặt bằng vải
màn và phủ sơn rồi rắc mạt cưa lên sơn khi bề mặt chưa khô. Bề mặt pho
tượng được gia cố dần. Khi gỡ phần nhục thân khỏi đế, chúng tôi phát
hiện đế là một tấm gốm nung màu đỏ, mặt áp vào đáy tượng có in hình nan
phên. Phía trong lớp bồi nhìn rất rõ lớp vải màn. Từ mặt đáy, chúng tôi
thấy xương sên, gót và xương mác nằm khá đúng vị trí giải phẫu. Như vậy
có thể kết luận nhục thân được bó cốt ngay sau khi tịch, không có sắp
xếp xương như nhục thân thiền sư Vũ Khắc Trường. Để xác định giới tính,
tuổi tác, tầm vóc và bệnh lý của thiền sư Như Trí, chúng tôi đã nghiên
cứu tất cả số di cốt bị rơi xuống dưới trong khi đưa nhục thân ra khỏi
tháp. Có một đốt sống ngực có chiều cao thân thấp và không cân xứng.
Điều này gợi ý cho chúng tôi về bệnh viêm cột sống của thiền sư. Diện
khớp mu còn thấy rõ để có thể định tuổi của thiền sư khoảng 40 - 45
tuổi.
Phủ tạng còn trong bụng
Ngày 11.5.2004, tôi và họa
sĩ sơn mài Đào Ngọc Hân lật ngược nhục thân để nghiên cứu phần trong
lòng và ngạc nhiên khi phát hiện ra một khối hợp chất bằng quả bưởi nằm
chính giữa phần bụng. Tượng được phủ kín bằng sơn ta, phía dưới lại có
đáy gốm, do đó khối vật chất này từ ngoài không thể lọt vào trong ổ bụng
được. Sau khi lấy mẫu phân tích, kết quả thật bất ngờ rằng đó là các
chất còn lại của phần phủ tạng trong bụng thiền sư Như Trí.
Như
vậy, đây là lần đầu tiên ở Việt Nam chúng ta phát hiện và chứng minh
được có phần nội tạng trong bụng thiền sư. Điều này có thể suy luận rằng
trong bụng thiền sư Vũ Khắc Minh ở chùa Đậu, huyện Thường Tín (Hà Tây
cũ) chắc cũng còn lại khối vật chất là phần nội tạng mà qua phim X-quang
không thể phát hiện được, như chúng tôi đã đoán định từ năm 1983.
Sau khi đã tu bổ được phần thân, chúng tôi khoét phần gáy để đưa đốt
sống cổ bị rời ra ban đầu. Đến độ sâu 1,3 cm bỗng chiếc đục trên tay họa
sĩ Đào Ngọc Hân bật trở lại, ánh xanh của gỉ đồng lóe lên. Ngày
4.6.2004, Tỳ kheo Thích Kiến Nguyệt và chúng tôi đã chuyển nhục thân tới
Bệnh viện Đa khoa Bắc Ninh để chụp phim X-quang.
Chúng tôi phát
hiện thấy sau khi bồi lớp thứ nhất, người ta đã đặt một tấm đồng lớn
trên lưng (chiều dài 65 cm; rộng 15 cm) và một tấm đồng trên ngực (chiều
rộng 22 cm). Phía ngoài hai tấm đồng là lớp bồi dày trên dưới 1 cm.
Trên đầu và bắp tay cũng được cuốn những dải băng bằng đồng có các kích
thước khác nhau. Vòng quanh đầu trên hai tai là ba dải băng: một dải nhỏ
0,6 cm, hai dải lớn hơn 0,79 cm. Có ba dải băng khác từ trên đỉnh đầu
dọc theo thái dương xuống sau cằm. Ba dải băng này có một dải to: 1cm và
hai dải nhỏ 0,5 cm. Nhìn theo chuẩn sau có bốn dải băng to chiều rộng
2,13 cm, chạy từ cổ lên đỉnh đầu luồn qua dải băng to (vuông góc với nó)
gập quay trở lại xuống cổ ở phía sau gáy. Qua phim X-quang thấy rất rõ
vết gấp này. Một số dải băng khác được cuốn quanh cổ và hai dải băng có
chiều ngang nhỏ: 0,4 cm chạy vòng từ nách vắt qua vai, từ trước ra sau.
Đây là hiện tượng đầu tiên ở Việt Nam. Có nhiều khả năng nó giúp cho
tư thế ngồi của thiền sư vươn thẳng, tránh bị cúi gập xuống ở phần cổ,
lưng và cũng có khả năng để bảo vệ hộp sọ. Lớp bồi bên ngoài nhục thân
thiền sư Như Trí dày 0,66 cm, gồm hai lớp: lớp ngoài màu vàng nâu, lớp
trong màu đen. Cả hai lớp thành phần đều gồm vải, sơn ta và mạt cưa...
Không hề có dát vàng hay bạc như tượng thiền sư Vũ Khắc Minh. Để bảo đảm
độ bền vững cho pho tượng nhục thân thiền sư Như Trí, chúng tôi đã thếp
bạc trên toàn bộ pho tượng. Chúng tôi quyết định đổ khuôn làm một pho
tượng thứ hai bằng composite đặt trong tháp Viên Tuệ, còn pho tượng gốc
đặt tại nhà Tổ.
Ngày 27.9.2004, Thiền viện Trúc Lâm đã tổ chức
lễ cầu nguyện cho thiền sư Như Trí tại chùa Duệ Khánh và làm lễ rước
nhục thân về chùa Tiêu Sơn rất trọng thể. Ngày 28.9.2004, lễ khánh thành
việc tu bổ và bảo quản nhục thân thiền sư Như Trí đã được tổ chức tại
chùa Tiêu Sơn. Thế là một dấu son nữa lại được ghi thêm vào trang sử của
ngôi chùa cổ kính này. Với riêng tôi thì có một nỗi mừng khôn tả. Vừa
mừng, vừa chờ đợi và hy vọng, vì tôi chắc rằng sẽ còn ở đâu đó, trong
những ngôi tháp cổ đang bị xuống cấp, những vị thiền sư khác đang "chờ"
chúng tôi, lại bắt tay vào một công trình tu bổ mới...
Nhục thân thiền sư Như Trí trong khám rồng (sau khi tu bổ) - Ảnh: N.L.C
Về thân thế sự nghiệp của thiền sư Như Trí tới nay chưa thấy sử liệu
nào ghi rõ, chỉ sơ lược qua một vài tác phẩm văn Nôm mà chúng ta chưa
có dịp kiểm chứng. Theo đó, Ngài cùng với một số huynh đệ có cùng chữ
NHƯ, phụ giúp thiền sư Chân Nguyên sao lục ấn hành những tác phẩm của
thời Trần còn sót lại trong nhân gian như: Khóa hư lục, Thánh đăng lục,
Tam tổ trúc lâm, Kiến tánh thành Phật và đặc biệt là tập Thiền uyển tập
anh... Theo Thượng tọa Thích Thông Phương - trụ trì Thiền viện Trúc Lâm
Yên Tử thì: “Thiền sư Như Trí là đệ tử nối pháp của thiền sư Chân
Nguyên, một thiền sư thời Hậu Lê có công phục hưng Thiền phái Trúc Lâm
do sư tổ Trúc Lâm - Trần Nhân Tông mở ra và từng trụ trì chùa Long Động ở
Yên Tử, nay là Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử. Hiện ở đây còn tháp đá tôn
thờ thiền sư, gọi là tháp Tịch Quang. Đây là mốc lịch sử của dòng thiền
Trúc Lâm. Nhiều thiền sư ra đời, những tư liệu của chư tổ được thiền sư
Chân Nguyên cùng hàng môn đồ kế tiếp, biên tập, khắc in để giữ gìn, làm
cơ sở sách cho người nghiên cứu. Thiền sư Như Trí đã từng khắc in lại bộ
Thiền uyển tập anh năm 1715, là bộ sách rất có giá trị về văn hóa của
Phật giáo Việt Nam...”. (PGS - TS Nguyễn Lân Cường)
Phòng Khám Mai dịch Sô 9 Ngách 1, Ngõ 58, Trần vỹ, Cầu Giấy, Hà Nội Đt 0766200777 Phòng khám( Làm việc Từ 8h đến 21h các ngày thứ 2 đến thứ 6 , Thứ 7, Chủ Nhật Làm cả ngày) Đến với phòng khám bạn sẽ được các Bác sỹ đầu nghành chăm sóc, khám bệnh và điều trị với các máy móc hiện đại như , Siêu âm màu 4D, Máy xét nghiệm , Máy điện tim, Nội soi cổ tử cung. Khám các bệnh sản phụ khoa, điều trị vô sinh, Quản lý thai nghén. điều tri các bệnh viêm âm đạo, Viêm lộ tuyến Cổ tử cung.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét