Cách đây ít lâu, Nhà xuất bản Đà Nẵng đã ấn hành cuốn “Giai thoại và
sự thật về Bảo Đại – ông vua cuối cùng triều Nguyễn” của tác giả Lý Nhân
Phan Thứ Lang. Đúng như tên gọi, nội dung cuốn sách không hoàn toàn là
chính sử, tác giả tập hợp tư liệu trong và ngoài nước, kể cả ghi chép
của những người thân cận và hồi ký “Le Dragon d’Annam” của chính Bảo
Đại, để cố gắng dựng lại bức chân dung, nhân cách và sự nghiệp của vị
Hoàng đế cuối cùng ở nước ta. Nhân dịp xuân Tân Mão, chúng tôi xin được
kể lại những nét tiêu biểu nhất về Bảo Đại – một ông vua đã trao ấn kiếm
thoái vị, để trở thành công dân của một đất nước độc lập.
Làm vua từ tuổi 13
Năm 1766 chúa Nguyễn Phúc Luân tức Hưng tổ Hiếu Khương Hoàng đế từ
trần, khi đó người con thứ ba của ông là Nguyễn Phúc Ánh mới 4 tuổi đã
theo người chú là Nguyễn Phúc Thuần tức Duệ Tôn vào Nam. Khi Phúc Ánh
trưởng thành được Duệ Tôn cho làm Chưởng sử Tướng Tả Dự Quân. Đến khi
Duệ Tôn tử trận, Phúc Ánh được phong làm Đại Nguyên soái kế vị Duệ Tôn.
Năm 1802, ông lên ngôi Hoàng đế lấy niên hiệu là Gia Long và từ đó
cha truyền con nối cho tới Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy tức vua Bảo Đại là đời
thứ 13 triều Nguyễn. Vĩnh Thụy lên ngôi từ năm 13 tuổi kế vị vua Khải
Định, ngự trị ngai vàng 19 năm, cho đến khi Cách mạng Tháng Tám thành
công.
Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy sinh ngày 22/10/1913, khi 9 tuổi đã được Khâm
sứ Huế là Charles nhận làm con nuôi và đưa sang Pháp học. Cuối năm 1925,
vua Khải Định băng hà, ngày 8-1-1926 triều đình tôn Vĩnh Thụy lên ngôi.
Sau khi làm lễ đăng quang và an táng vua cha, Bảo Đại trở lại Pháp
tiếp tục học tập tại trường trung học Condorcet rồi theo chuyên ngành
khoa học chính trị (Sciences Politique) ở Paris, còn mọi việc trong nước
giao cho Hội đồng Phụ Chánh, do quan Đại thần Nguyễn Hữu Bài đứng đầu,
điều hành. Tuy nhiên, trên thực tế mọi việc đều do người Pháp sắp đặt và
cai trị, còn chính phủ Nam triều chỉ đóng vai trò thừa hành.
Từ giữa những năm 20 trở đi, ở nước ta nhiều đảng ái quốc ra đời, lập
chiến khu, dấy lên các phong trào chống thực dân Pháp. Trước tình thế
đó, vào mùa hè năm 1932, Pháp buộc phải đưa Bảo Đại về nước với hy vọng
ông đã học xong trường cao đẳng chính trị, vị vua trẻ mang phong cách và
văn minh Phương Tây về nước có thể thu phục được các tầng lớp thanh
niên, nhất là đội ngũ trí thức, làm nguội dần các phong trào chống Pháp.
Đầu tháng 9/1932 về tới Huế, ngay lập tức Bảo Đại ra mắt quần thần,
ngỏ lời cùng quốc dân, đưa ra nhiều lời hứa, mong muốn cải cách, xây
dựng một đất nước văn minh. Quả thực, sau 10 năm ăn học ở Pháp, tiếp thu
lối sống Phương Tây, Bảo Đại đã cho bỏ những tập tục, lễ nghi cổ truyền
mà các vua cha bày ra. Trước hết ông ban sắc dụ từ nay Hoàng thượng tới
đâu, thần dân không phải quỳ lạy, có thể ngẩng đầu chiêm ngưỡng long
nhan đức vua mà không sợ phạm thượng, các quan cũng không phải quỳ lạy
mỗi khi vào chầu.
Làm như vậy thực ra Bảo Đại nhằm tới hai mục đích: Thứ nhất, để tỏ ra
là một nhà vua tiến bộ, bình dân, tôn trọng những người lớn tuổi đáng
bậc cha chú, nếu cứ bắt họ phủ phục mỗi khi vào chầu thật khó coi. Thứ
hai, nhân dịp này để các quan Tây vào chầu cũng khỏi phải chắp tay xá
lạy, mà chỉ cần bắt tay tỏ ý thân thiện theo kiểu Phương Tây.
Tiếp theo, Bảo Đại cải tổ bộ máy hành chính, cho các vị thượng thư
già yếu hoặc kém năng lực về hưu. Chẳng hạn như Nguyễn Hữu Bài đã làm
thượng thư quá lâu, lại có tư tưởng bài Pháp, nên được nghỉ trước tiên.
Đồng thời sắc phong thêm 4 thượng thư mới lựa chọn trong giới hành chính
và học giả. Về sau ông còn lập thêm một số bộ và thành lập Viện Dân
biểu để trình bày nguyện vọng của dân chúng lên nhà vua và Chính phủ
Pháp.
Nhà vua cũng cho phép Hội đồng Tư vấn Bắc kỳ được thay mặt Nam triều
trong việc hợp tác với chính phủ bảo hộ. Trong khi đó Bảo Đại tiến hành
các cuộc ngự du, trước hết là bái yết vong linh tiên đế nhà Nguyễn, về
Thanh Hoá vinh qui bái tổ, thăm Hà Nội, Sài Gòn, Tây Nguyên và các địa
phương khác để nắm được nguyện vọng của thần dân… Có lẽ vì vậy thời đó
người ta coi Bảo Đại là “Nhà vua cải cách”.
“Thà làm dân một nước độc lập hơn làm vua một nước nô lệ”
Khi thế chiến thứ II sắp tới hồi kết, quân Nhật tràn vào nước ta.
Ngày 9/3/1945 Nhật đảo chính Pháp, cai trị dân ta, bắt nông dân nhổ lúa,
trồng đay, ngô để cung cấp cho chúng. Kết quả năm đó thiếu thóc gạo,
dẫn đến nạn đói giết hại 2 triệu người, chủ yếu ở đồng bằng Bắc bộ, nơi
được coi là một trong hai “vựa thóc” của nước ta.
Quá bất ngờ, Bảo Đại vội vàng tìm một số người ít thân với Pháp trước
đây để thành lập nội các mới. Trong vòng từ tháng 4 đến tháng 8/1945,
nhà vua ủy thác cho Trần Trọng Kim hai lần thành lập nội các thân Nhật.
Nhưng đây cũng chỉ là những chính phủ bù nhìn, mọi chính sách và hoạt
động nhất nhất đều chịu sự giật dây của một Cố vấn tối cao người Nhật
Yokoyama. Thực ra, khí thế cách mạng của nhân dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản đang ào ào dâng lên, thì cũng không có một ông vua, hay
một chính phủ Nam triều nào khi đó có thể đứng vững.
Từ đầu tháng 8, Bảo Đại cũng như cả Hoàng tộc đều vô cùng hoang mang,
lo lắng. Cũng dễ hiểu, bởi họ liên tưởng tới một thực tế là Hoàng đế
Louis thứ 16 của nước Pháp xưa kia, hay Sa hoàng Nikolas của Nga khi
cách mạng nổ ra lật đổ ngai vàng, đã bị xử tử ngay; còn như Phổ Nghi -
vị Hoàng đế cuối cùng của Trung Quốc, sau khi bị hạ bệ cũng phải đi lao
động cải tạo nhiều năm, rồi mới được trở về làm công dân cho đến hết
đời.
Trong tình hình đó, vua Bảo Đại coi ông Đổng lý văn phòng Phạm Khắc
Hoè như một người cộng sự tâm phúc nhất. Quả thực, ông Hoè đã đóng vai
trò rất đặc biệt. Ông theo dõi chặt chẽ diễn biến tình hình chiến cuộc
giữa quân đồng minh với phe phát xít, bắt liên lạc với các nhà ái quốc
để tìm hiểu chủ trương, đường lối của cách mạng, để rồi đưa ra những lời
khuyên nhủ khéo léo cho nhà vua cùng Hoàng tộc.
Thấy nhà vua đã rất nao núng, hoang mang tột độ, ông Hoè buông lời
thăm dò xem Bảo Đại có biết lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc là ai không, Bảo Đại
nói rằng cũng chỉ nghe lơ mơ khi hoạt động tại Pháp cụ Nguyễn Ái Quốc đã
viết truyện “Con Rồng Tre” với thâm ý đả kích Khải Định, vua cha của
ông.
Nhân đó, ông Hoè còn đem chuyện sấm trạng Trình ra kể cho Bảo Đại
nghe. Ông bảo ở Nghệ An người ta thần thánh hoá vị lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc. Cụ đã từng hoạt động ở Pháp mà danh tiếng đã vang dội về nước. Bảo
Đại chẳng cần nghĩ lâu, nói ngay: “Nếu quả người cầm đầu Việt Minh là
thánh Nguyễn Ái Quốc thì tôi sẵn sàng thoái vị ngay”.
Ngày 22/8/1945, Việt Minh ra tối hậu thư đòi nhà vua phải trao trả
chính quyền cho nhân dân và hứa bảo đảm tính mạng, tài sản cho Hoàng gia
với những điều kiện: “Nhà vua phải trao lại cho chính quyền cách mạng
đội lính khố vàng với tất cả vũ khí, đạn dược; Nhà vua phải báo cho Nhật
biết là triều đình đã trao tất cả quyền binh cho chính quyền cách mạng
rồi; Nhà vua phải điện ra lệnh cho tất cả các tỉnh trưởng phải giao
chính quyền cho cách mạng tức là Việt Minh”.
Bảo Đại và Phan Văn Giáo tại sân bay Đà Lạt (1949)
Ngoài ra còn yêu cầu nhà vua phải trả lời trước 13h30’ phút ngày
22/8/1945 và cử ông Phạm Khắc Hoè làm liên lạc giữa nhà vua và chính
quyền cách mạng. Nội các Nam triều họp khẩn cấp và tất cả đều nhất trí
đáp ứng mọi điều kiện của Việt Minh. Tuy nhiên, Bảo Đại vẫn còn băn
khoăn một điều là: Sao Chủ tịch Chính phủ nhân dân cách mạng lâm thời
lại là Hồ Chí Minh, Cụ là ai mà lâu nay không thấy nói đến? Đến khi ông
Hoè biết chính xác Hồ Chí Minh chính là cụ Nguyễn Ái Quốc và trình lại
với nhà vua, thì Bảo Đại giơ cả hai tay lên trời buột miệng nói tiếng
Pháp “Ca vaut bien le coup alors!” (như thế thì thật đáng thoái vị!).
Lễ thoái vị được tổ chức trọng thể trước Ngọ Môn vào ngày 30-8-1945.
Một phái đoàn gồm các ông Nguyễn Lương Bằng, Cù Huy Cận và do ông Trần
Huy Liệu dẫn đầu, thay mặt Chính phủ lâm thời từ Thủ đô vào nhận ấn kiếm
của vua Bảo Đại trao lại. Phát biểu thoái vị trước 50 nghìn đại diện
các tầng lớp nhân dân, Bảo Đại dõng dạc tuyên bố: “Thà làm dân một nước
độc lập hơn làm vua một nước nô lệ”. Đây cũng là thời điểm cuối cùng Bảo
Đại rời khỏi ngai vàng sau 19 năm trị vì, để trở lại địa vị công dân
Vĩnh Thụy.
Ngay sau đó, Vĩnh Thụy đã được Hồ Chủ tịch mời ra Hà Nội làm cố vấn
cho Chính phủ, còn ông Phạm Khắc Hoè được điều động giúp ông Hoàng Minh
Giám chăm lo công việc ở Bộ Nội vụ. Được Cụ Hồ tiếp đón trọng thị, ân
cần thăm hỏi cả mẹ và vợ con, cố vấn Vĩnh Thụy vô cùng xúc động, đã viết
thư về cho mẹ là bà Hoàng Thị Cúc, kể lại rằng: “Cụ Hồ tốt lắm! Con ra
đây được Cụ Hồ thương lắm! Cụ thương con như con! Ả (tức mẹ) cứ yên tâm.
Không phải lo chi cho con cả”.
Rất tiếc, từ khi ra Hà Nội, sống xa gia đình vợ con, vốn tính xa hoa
phóng đãng, lại bị những kẻ “buôn vua” giàu có bỏ tiền ra mồi chài, Vĩnh
Thụy đã nhanh chóng sa vào con đường trụy lạc, ham thú phòng khuê và
những trò đỏ đen. Bởi vậy, trong một lần được Cụ Hồ cho tháp tùng sang
Trung Quốc, Vĩnh Thụy đã tự ý ở lại, không thực hiện được những điều đã
hứa trước quốc dân.
Hoàng hậu và những người tình của Bảo Đại
Trong số 13 đời vua triều Nguyễn, chỉ có Duy Tân và Bảo Đại lên ngôi
từ khi còn nhỏ, nên mới có chuyện vua kén vợ. Vua Duy Tân được chọn kế
ngôi lúc mới 8 tuổi, vì vua cha Thành Thái có tư tưởng chống Pháp nên đã
bị chính quyền thực dân đày sang châu Phi. Tuy tuổi còn trẻ nhưng nổi
tiếng bởi dòng máu vua cha, nên sau khi lên ngôi vua Duy Tân không hề ăn
chơi trác táng như những đời vua tiền nhiệm, mà dốc tâm chăm lo cho
dân, tìm cách cứu nước thoát khỏi ách nô lệ của thực dân Pháp. Có lẽ
cũng vì vậy, về sau người Pháp đã rút kinh nghiệm, đưa Vĩnh Thụy đi đào
tạo “nghề làm vua” ngay tại Pháp từ khi còn nhỏ.
Vợ chồng cha nuôi - Khâm sứ Charles không những dày công chăm sóc,
dạy dỗ cậu bé Vĩnh Thụy, mà còn để nhiều thời gian ngắm nghía, lựa chọn
rất kỹ càng hoàng hậu tương lai. Tìm hiểu khắp cố đô Huế và Sài Gòn,
không thấy có con gái nhà ai ưng ý. Người đẹp, hiền thục không thiếu,
nhưng phần lớn theo đạo Phật, tư tưởng bảo thủ, coi vua như ông trời,
bảo sao nghe vậy, không dám phản đối và như vậy khó trở thành một hoàng
hậu giúp ích cho vua.
Cuối cùng họ cũng tìm thấy cô Mariette Jeanne Nguyễn Hữu Thị Lan, con
gái một gia đình giàu có nhất nhì Nam bộ, đã tốt nghiệp tú tài ở Pháp,
có thể hội đủ những tiêu chuẩn cho một hoàng hậu. Vì thế Charles đã khéo
léo sắp đặt cho Bảo Đại đi trên một chuyến tàu thuỷ trở về Việt Nam
cùng với Mariette Lan.
Sau đó ông ta còn sắp đặt để Bảo Đại đi nghỉ ở Đà Lạt, trong khi
“tình cờ” toàn thể gia đình cô Thị Lan cũng đang có mặt ở thành phố này.
Hai người trai tài, gái sắc đã gặp nhau lênh đênh trên biển cả tháng
trời, nay lại có dịp cùng nhau nghỉ mát, vui thú thưởng ngoạn những
phong cảnh sơn thuỷ hữu tình của thành phố mộng mơ. Trong hoàn cảnh đó
thật dễ nảy sinh tình cảm trăm năm kết tóc xe tơ.
Lễ cưới nhà vua được tổ chức vào ngày 20/3/1934, khi chú rể Bảo Đại
21 tuổi, còn cô dâu Mariette Thị Lan 19 tuổi. Trở thành Nam Phương Hoàng
hậu, bà đã cùng vua Bảo Đại sống với nhau rất hạnh phúc. Cho đến trước
khi Bảo Đại rời ngôi vua, bà đã sinh được cho ông 2 hoàng tử và 3 công
chúa. Nam Phương Hoàng hậu là một phụ nữ rất nhạy cảm với thời cuộc, có
đầu óc suy đoán tinh tế và am hiểu chính trị.
Chính bà đã thường xuyên bàn luận về thời cuộc với ông Đổng lý Phạm
Khắc Hoè để sớm tối tỷ tê với Hoàng thượng, góp phần thúc đẩy ông đi tới
quyết định thoái vị. Hôm khai mạc “Tuần lễ vàng” ở Huế, bà đã ăn mặc
rất lịch sự, cổ đeo kiềng vàng, tai bông vàng, hai cổ tay 2 xuyến vàng
và cả 10 ngón tay đeo nhẫn vàng, làm cho mọi người trong Hoàng tộc và
các mệnh phụ vô cùng ngỡ ngàng, ngạc nhiên. Đến khi bà tháo tất cả hàng
chục lượng vàng để ủng hộ cách mạng, mọi người mới vỡ lẽ.
Được Cụ Hồ mời bà đưa các con ra Hà Nội đoàn tụ với ông cố vấn Vĩnh
Thụy, bà cũng đã xử sự rất đúng mực, khi trả lời rằng rất biết ơn Cụ Chủ
tịch, nhưng sợ như vậy sẽ làm tốn kém thêm cho Nhà nước trong khi Chính
phủ còn đang nghèo, phải lo trăm chuyện.
Trước năm 1945, Bảo Đại một lòng một dạ thương yêu Nam Phương Hoàng
hậu, nhiều khi ông tự lái xe đưa bà đi thưởng ngoạn các danh lam thắng
cảnh của đất nước. Thế nhưng từ khi sống độc thân ở Hà Nội, ông đã sa
vào cạm bẫy của người đẹp Bắc Hà.
Trước hết cặp bồ với Bùi Mộng Điệp, một cô gái nghèo nhưng sắc nước
hương trời, làm vũ nữ. Quan hệ giữa ông với Mộng Điệp đã “già nhân ngãi,
non vợ chồng”, đến khi ông ở lại Trung Quốc, thì ở nhà bà sinh con gái.
Pháp quay trở lại chiếm Hà Nội, chúng đã bắt Mộng Điệp vì nghi cô là
gián điệp của Việt Minh cài vào để cầm chân Bảo Đại theo cách mạng.
Nghe tin Mộng Điệp bị bắt, Bảo Đại viết thư phản đối nhà đương cục
Pháp, vì vậy cô đã được tha. Sau này, vào năm 1949 Pháp đưa Bảo Đại trở
về làm “Quốc trưởng”, Mộng Điệp đã được ông đón về làm thứ phi. Mộng
Điệp theo đạo Phật, thông thạo lễ nghi và khôn khéo hành xử, chiều
chuộng Hoàng Thái hậu cũng như các thành viên Hoàng gia, nên được mọi
người quí trọng. Về sau bà sinh thêm cho Bảo Đại 2 hoàng tử nữa.
Cùng thời với Mộng Điệp, Vĩnh Thụy còn yêu một vũ nữ khác cũng rất
nổi danh ở đất Bắc Hà là Lý Lệ Hà. Tuy nhiên, ông sống với cô gái này
không lâu, không có con với nhau, rồi hai người chia tay. Năm 1946, khi
đào tẩu ở lại Trung Quốc, Vĩnh Thụy yêu một cô gái Trung Hoa lai Tây tên
là Hoàng Tiểu Lan và cũng đã “đơm hoa kết trái” sinh được một cô con
gái. Những năm ở ghế “Quốc trưởng”, ông còn kết duyên với một cô gái Huế
tên là Lê Thị Phi Ánh, sinh được hai con, một trai một gái. Sau đó còn
vài ba mối tình nữa, tính đến cuối đời Vĩnh Thụy có tất cả 8 người vợ,
13 người con.
Những năm tháng cuối đời của Bảo Đại
Ở ngôi vua và “Quốc trưởng” gần 25 năm, nhưng trên thực tế không có
mấy thời gian Bảo Đại thực thi chức trách, quyền hành của mình. Phần lớn
quĩ thời gian ông dành cho thể thao, săn bắn, vui chơi và giải trí cùng
người đẹp. Người ta thấy ông sống ở Tây Nguyên nhiều hơn ở kinh thành.
Sau khi bị Ngô Đình Diệm tiếm ngôi “Quốc trưởng” năm 1954, Bảo Đại
sống lưu vong ở Paris và vẫn được Pháp trả lương. Đương nhiên không
nhiều, nên không thể sống xa hoa như trước, thậm chí lắm khi còn bị
“viêm màng túi”.
Bảo Đại trong một quán cà phê ở Paris
Những ngày cuối đời cựu Hoàng muốn thấy những vật báu của Hoàng triều
để lại. Nhưng các con ông lo ngại, không muốn trao cho thân phụ, sợ khi
túng tiền ông bán đi thì uổng phí, hoặc sợ khi ông qua đời lại rơi vào
tay bà Monique Baudot, người vợ cuối cùng có hôn thú với ông. Gia đình
lục đục, hầu hết con cháu không ưa gì bà Baudot, nên ông rất buồn.
Mãi tới năm 1982, nhân dịp khai trương Hội Hoàng tộc ở hải ngoại,
những người con của bà Lê Thị Phi Ánh và Hoàng Tiểu Lan đang sống ở Mỹ
mời ông sang dự, ông mới có chuyến đi đầu tiên tới nước Mỹ. Tuy chỉ là
một chuyến thăm riêng tư, nhưng đi tới đâu Bảo Đại cũng được bảo vệ cẩn
thận.
Khi tới thăm Sacramento ông còn được tặng chiếc chìa khoá vàng tượng
trưng của thị trấn này. Tới thăm thành phố Wesminter ông cũng được bà
Thị trưởng Buchoz tặng danh hiệu “Công dân danh dự” của thành phố. Cũng
nhân dịp Bảo Đại thăm Mỹ, nhiều người con của ông đã xin được làm lại
giấy khai sinh, thay vì giấy khai sinh cũ chỉ có tên mẹ, nay đã có cả
tên cha là Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy.
Suốt 3 tuần ở Mỹ, được sống giữa đông đảo con cháu và gặp lại nhiều
bè bạn cũ ông cảm thấy rất vui. Sau đó trở lại Pháp, bệnh suy thận tái
phát. Năm 1997 mấy lần ông phải vào bệnh viện điều trị, thế nhưng không
qua khỏi, ông từ trần ngày 1/8/1997, thọ 84 tuổi.
Đám tang Bảo Đại được Nhà nước Pháp cử một sĩ quan mang quốc kỳ Pháp,
một tiểu đội lính lê dương quân phục trắng, ngù đỏ trên vai, ngực đeo
huy chương lấp lánh, bồng súng đi bên linh cữu. Bộ Ngoại giao nước ta đã
gửi điện chia buồn tới tang quyến, ngoài ra còn có vòng hoa phúng điếu
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam