Tự trị, chất lượng và y đức thay vì cổ phần hóa bệnh viện công
Ở Bệnh viện Chấn thương chỉnh hình TP.HCM
TTCT
- Vấn đề cổ phần hóa bệnh viện công đang được xã hội quan tâm, vì y tế
là dịch vụ an sinh có ảnh hưởng trực tiếp đến người dân.
Xã hội hóa y tế, nâng cao chất lượng và phát triển y tế là ba biện luận cho định hướng cổ phần hóa.
Nhưng
cổ phần hóa chỉ là một giải pháp cấp thời, cần phải nâng cao đầu tư của
Nhà nước cho ngành y tế và trao quyền tự trị cho bệnh viện mới là giải
pháp lâu dài.
Trong
thực tế, hệ thống y tế công và tư ở nước ta, nhất là ở phía Nam, đã song
song tồn tại từ hơn một thập niên qua. Gần đây, hệ thống y tế tư, kể cả
các bệnh viện nhỏ và trung bình, phát triển rất nhanh. Đó là một dấu
hiệu đáng mừng cho nền y tế nước nhà, phản ánh một phần tốc độ phát
triển kinh tế nói chung. Người dân càng ngày càng quan tâm đến sức khỏe,
và nhìn qua lăng kính kinh tế, nhu cầu sức khỏe tạo ra một thị trường y
tế rất lớn cho những nhà đầu tư.
Sự
phát triển của hệ thống y tế tư nhân, do đó, có thể xem là một tiến
trình tất yếu trong nền kinh tế thị trường. Nhưng biến bệnh viện công
thành bệnh viện tư qua hình thức cổ phần hóa có lẽ là một định hướng táo
bạo, rất ít thấy ở các nước trong vùng hay ngay tại các nước có nền
kinh tế thị trường lâu đời như Mỹ hay Úc. Theo tôi, những lý do đưa ra
để cổ phần hóa bệnh viện công có vẻ thiếu tính thuyết phục. Ở đây, tôi
muốn bàn qua vài lý do đó.
Xã hội hóa y tế
Định
hướng này được đưa ra nhiều lần làm cơ sở cho lập luận cổ phần hóa bệnh
viện. Đây là một định hướng đúng, nhưng biến bệnh viện công thành bệnh
viện tư thì khó mà cho rằng đó là “xã hội hóa” y tế được, bởi vì thực
chất chỉ là thay đổi tên nhưng vẫn với một êkip cũ (hay gần cũ).
Có lẽ vấn đề là tự trị, chứ không phải cổ phần hóa.
Ở
Úc, phần lớn bệnh viện tư lớn do các tổ chức tôn giáo và từ thiện quản
lý với định hướng bất vụ lợi. Các bệnh viện tư tồn tại song song và đóng
vai trò tương trợ với các bệnh viện công. Chẳng hạn như hệ thống Bệnh
viện St Vincent's ở Sydney (nơi người viết bài này cộng tác) có hai bệnh
viện công và tư.
Bệnh
viện St Vincent's công được xây dựng hơn 100 năm do Bộ Y tế quản lý về
mặt chính sách nhưng được điều hành trực tiếp bởi một hội đồng quản trị.
Bệnh viện St Vincent's tư do một hội đồng quản trị độc lập khác điều
hành, nhưng vẫn hợp tác chặt chẽ với bệnh viện công. Một số lớn giáo sư,
bác sĩ và chuyên gia của bệnh viện công cũng làm việc cho bệnh viện tư
qua hình thức hợp đồng. Mô hình này đã hoạt động hữu hiệu suốt hơn hai
thập niên qua.
Sự thành
công của mô hình này một phần là do nhà nước chỉ đóng vai trò chỉ đạo,
chứ không can thiệp vào việc điều hành bệnh viện. Hội đồng quản trị bệnh
viện hoàn toàn có quyền tự trị trong các lĩnh vực như quản lý tài chính
(tự do chi tiêu theo ngân sách, định các thang bậc lương bổng cho nhân
viên, chuyển ngân sách giữa các khoa trong bệnh viện và mua bán bất động
sản); quản lý nhân sự (như đặt ra điều kiện và lương bổng, phần thưởng,
kỷ luật và trách nhiệm cho nhân viên, quyền mướn hay sa thải nhân
viên); và phát triển dịch vụ, sản phẩm, như cung cấp hay ngưng cung cấp
các dịch vụ làm tổn hao đến ngân sách.
Trong
mô hình công - tư song song, bệnh viện công vẫn đóng vai trò chủ đạo vì
có tài nguyên khá hơn, kể cả các thiết bị y khoa, để có thể cung ứng
cho các bệnh nghiêm trọng so với bệnh viện tư. Chẳng hạn như đối với các
ca giải phẫu lớn, bệnh nhân từ bệnh viện tư vẫn phải được chuyển sang
bệnh viện công để tiến hành phẫu thuật. Ngoài ra, các nghiên cứu khoa
học và sinh viên y khoa chỉ được thực hiện hay thực tập ở bệnh viện
công, chứ không phải ở bệnh viện tư.
Chất lượng
Có
ý kiến cho rằng cổ phần hóa để nâng cao chất lượng y tế. Nhưng ý kiến
này dựa vào giả định rằng chất lượng y tế ở các bệnh viện tư cao hơn các
bệnh viện công. Có thể giả định này đúng, nhưng cho đến nay, chúng ta
vẫn chưa có những bằng chứng nghiên cứu cụ thể để chứng minh điều đó.
Và, chúng ta không thể quản lý vấn đề nếu không “đo” được vấn đề qua
nghiên cứu.
Cần phải định nghĩa “chất lượng” trong bối cảnh bệnh
viện là gì. Theo giới nghiên cứu y tế, chất lượng bệnh viện bao gồm thực
phẩm cho bệnh nhân; môi trường bệnh viện (bàn ghế, tủ, giường, sạch sẽ,
ánh sáng); dịch vụ chuyên môn (y khoa, điều dưỡng, thiết bị); tiện nghi
phòng (riêng tư, giờ thăm bệnh, tiện nghi); phục vụ cá nhân (riêng
biệt, thông tin, chú ý đến nhu cầu cá nhân); và sự đáp ứng của hệ thống
cấp cứu khi có sự cố. Các khía cạnh này có thể phát triển thành những
“chỉ tiêu” cụ thể để đo lường chất lượng bệnh viện. Ngoài những chỉ tiêu
định tính, còn có một chỉ tiêu quan trọng nhất: đó là tỉ lệ tử vong
trong vòng 30 ngày hay sau khi xuất viện 30 ngày.
Nghiên
cứu từ Thái Lan và các nước Nam Mỹ cho thấy nói chung, về mặt thực
phẩm, tiện nghi và môi trường bệnh viện, bệnh viện tư có chất lượng cao
hơn bệnh viện công; nhưng về các khía cạnh lâm sàng như điều trị, khả
năng chuyên môn, thời gian chăm sóc, thậm chí ngay cả thái độ bác sĩ và
điều dưỡng, các bệnh viện công và bệnh viện tư không vị lợi (non-profit
private hospitals) có chất lượng vượt xa các bệnh viện tư vị lợi (for
profit private hospitals).
Một
nghiên cứu qui mô khác ở Mỹ trên 16,9 triệu bệnh nhân nhập viện từ năm
1984-1993 cho thấy bệnh nhân từ các bệnh viện công và bệnh viện tư không
vị lợi có số ngày nằm viện lâu hơn và tỉ lệ tử vong thấp hơn các bệnh
viện tư vị lợi.
Nếu kinh
nghiệm từ nước ngoài là những bài học, rất khó mà nói rằng cổ phần hóa
bệnh viện công có thể nâng cao chất lượng phục vụ bệnh nhân. Thật ra,
phần lớn những chỉ trích và phàn nàn về “chất lượng” phục vụ các bệnh
viện công hiện nay là thái độ của bác sĩ và điều dưỡng, tức là những vấn
đề thuộc về y đức, chứ không hẳn thuộc về chất lượng.
Phát triển cơ sở vật chất
Có
ý kiến cho rằng phải cổ phần hóa để thúc đẩy phát triển cơ sở vật chất
cho ngành y tế. Điều này cũng không có gì sai, nhưng chúng ta cần phải
xem qua đầu tư cho y tế của Nhà nước trong thập niên qua để nhìn ra vấn
đề.
Hiện nay, chi tiêu
của Nhà nước cho y tế chỉ chiếm 6,1% tổng chi tiêu của Nhà nước. Tỉ lệ
này là thấp nhất so với các nước láng giềng như Campuchia (16%), Lào
(khoảng 7%), Malaysia (6,5%), Trung Quốc (10%) và Nhật (16,4%). Đầu tư
của Nhà nước cho y tế còn quá khiêm tốn. Thật vậy, trong tổng chi tiêu
cho y tế của cả nước, Nhà nước chỉ đóng góp khoảng 28%, phần còn lại
(72%) là từ dân hay tư nhân.
Theo
số liệu của Bộ Y tế, tổng số giường bệnh trong năm 1997 khoảng 198.000,
nhưng đến năm 2005, con số này giảm xuống còn 197.000. Trong cùng thời
gian cả nước, tổng số cơ sở y tế giảm từ 13.269 vào năm 1997 xuống còn
13.243 vào năm 2005. Vì gia tăng dân số, cho nên số giường bệnh tính
trên 10.000 dân số giảm từ 26,6 năm 1997 xuống còn 23,7 năm 2005. Do đó,
không ngạc nhiên khi thấy tất cả bệnh viện đều quá tải. Nhiều bệnh
viện, hai thậm chí ba bệnh nhân phải nằm cùng một giường!
Nhìn
qua các con số thống kê này, vấn đề chính có lẽ không phải cổ phần hóa
bệnh viện, mà là tăng đầu tư của Nhà nước cho ngành y tế. Bệnh viện và
các công trình phúc lợi xã hội (như trường học và đại học) là hiện thân,
là thể hiện sự quan tâm của một chính phủ đến sự an sinh của người dân.
Nhà nước cần phải tăng đầu tư cho ngành y tế, và qua đó tạo điều kiện
sao cho người nghèo có thể được điều trị như mọi thành phần khác trong
xã hội, và từng bước nâng cao công bằng xã hội.
Mục
tiêu tối hậu của bất cứ hệ thống y tế nào là nâng cao sức khỏe người
dân. Dù là bệnh viện công hay tư, mục tiêu đó vẫn là kim chỉ nam để
hoạch định chính sách. Ở nước ta, mặc dù hệ thống y tế đã đạt được những
thành tựu lớn (như giảm tỉ lệ trẻ sơ sinh, nâng cao tuổi thọ người dân,
thành công xóa bỏ hay gần xóa bỏ một số bệnh truyền nhiễm...) nhưng ở
bình diện vi mô, vẫn còn tồn tại rất nhiều vấn đề nghiêm trọng. Năm
1996, 34 triệu người không có khả năng mua bảo hiểm y tế hay thanh toán
bệnh viện phí.
Khoảng
một phần ba người dân có thu nhập thấp không có khả năng tài chính để
theo đuổi điều trị tại các bệnh viện. Trong thực tế, những ai làm việc
trong các bệnh viện ở các tỉnh đều biết rằng có một số không nhỏ bệnh
nhân trốn viện (trong tình trạng sức khỏe chưa ổn định) chỉ vì không có
khả năng thanh toán viện phí. Đối với những bệnh nhân này, việc cổ phần
hóa bệnh viện công có lẽ sẽ chẳng đem lại lợi ích gì cho họ, và do đó
khó mà đáp ứng mục tiêu tối hậu của y tế.
Nói
tóm lại, để đạt được mục tiêu tối hậu (và cũng là lý tưởng) của ngành y
tế, cổ phần hóa bệnh viện công chỉ là một giải pháp tạm thời mà lợi ích
khó thấy trước được; giải pháp lâu dài hơn, theo tôi, là Nhà nước nên
từng bước tăng cường đầu tư cho ngành y tế sao cho tương đương với các
nước trong vùng, kể cả chương trình bảo hiểm y tế cộng đồng, trao quyền
tự trị cho các bệnh viện công và giáo dục y đức.