Thứ Bảy, 21 tháng 4, 2012

Một trường hợp hiếm gặp ở khoa chẩn đoán hình ảnh - Bệnh viện Phụ nữ TP. Đà Nẵng

Một trường hợp hiếm gặp ở khoa chẩn đoán hình ảnh - Bệnh viện Phụ nữ TP. Đà Nẵng

Hình - T1W, sagittal
     Ngày 9/8/2010, bệnh nhân tên Huỳnh Thị Đ… 44 tuổi được chuyển đến chụp MRI tại khoa Chẩn đoán hình ảnh (CĐHA) Bệnh viện Phụ nữ thành phố Đà Nẵng với chẩn đoán theo dõi U tủy ngực.
   Bệnh nhân đến khoa trong tình trạng tỉnh táo, yếu tứ chi, teo hai chi dưới nhẹ và rối loạn đại tiểu tiện. Bệnh nhân đã được khám, điều trị  và được cho làm các xét nghiệm chẩn đoán hình ảnh trước đó kể cả chụp Cộng hưởng từ nhiều lần nhưng vẫn không phát hiện và chẩn đoán được bệnh.

  Bệnh nhân có tiền sử phẫu thuật cột sống cổ tại Bệnh viện Chợ Rẫy cách đây 3 năm song không nhớ rõ chi tiết.

  Sau khi thực hiện các kỹ thuật chụp cột sống ngực bằng máy Magnetom Avanto 1.5 Tesla của Siemens (hiện đại nhất tại khu vực miền trung), kể cả tiêm thuốc tương phản từ vào tĩnh mạch, các bác sĩ tại khoa đã phát hiện được bệnh lý của bệnh nhân và giải thích được tình trạng bệnh hiện thời.




Hình - T2W, sagittal

 Hình ảnh ghi được là một dãi tổn thương ngoài màng cứng ống sống từ C1-D9, gây hẹp và phù tủy sống, nặng nhất ở đoạn cổ. Đường kính trước sau ống sống hẹp nhất đo được chỉ 2mm.

Hình - T2W, axial

  Tổn thương có tín hiệu rất thấp (đen) trên T1W, T2W, HEMO và sau khi tiêm thuốc tuơng phản từ thì không bắt thuốc (hình ảnh minh họa).

Hình - T1 CONTRAST (sau tiem thuoc)

  Sau khi hội ý các bác sĩ trong khoa đã thống nhất chẩn đoán hình ảnh điển hình của bệnh lý :
       + Tụ máu cũ ngoài màng cứng ống sống từ đọan cổ C1 đến đoạn ngực D9 gây hẹp ống sống, chèn ép tủy  nặng và phù tủy, nặng nhất ở đoạn cổ.
 Bệnh nhân ra khỏi phòng chụp MRI trong tình trạng an toàn. Các bác sĩ, kỹ thuật viên cảm thấy thật là vui và hạnh phúc khi đã chẩn đoán được một trường hợp bệnh lý khó và rất hiếm gặp. Bệnh nhân đã được đưa về Bệnh viện Đà Nẵng để được điều trị tiếp theo đúng chuyên khoa.
Bác sỹ Phướ

hính sách và biện pháp để ngăn ngừa lây truyền vi rút viêm gan B

hính sách và biện pháp để ngăn ngừa lây truyền vi rút viêm gan B

     Khuyến cáo từ Trung tâm Kiểm soát và phòng chống dịch bệnh Hoa Kỳ
*Ngay thời điểm tiếp nhận bệnh nhân đến sinh:

• Xem xét tình trạng nhiễm vi rút viêm gan B (xét nghiệm HBsAg) của tất cả phụ nữ mang thai.

• Ghi nhận kết quả xét nghiệm HBsAg của người mẹ vào Hồ sơ bệnh án và vào bệnh án sơ sinh.

• Tiến hành xét nghiệm HBsAg càng sớm càng tốt khi người phụ nữ:

 - Không có kết quả/ không làm xét nghiệm HBsAg trước đó
 - Có nguy cơ nhiễm vi rút viêm gan B (HBV) trong thai kỳ (ví dụ: có hơn 1 bạn tình trong vòng 6 tháng trước đó; chẩn đoán và điều trị bệnh lây truyền qua đường tình dục; đang được dùng thuốc tiêm; hoặc bạn tình có HBsAg dương tính (HBsAg +); hoặc
 - Có bệnh viêm gan trên lâm sàng kể từ lần xét nghiệm trước.
*Sau khi sinh:
Đối với người mẹ có HBsAg dương tính và con của họ

• Tiêm vắc xin viêm gan B và tiêm Globulin miễn dịch viêm gan B (HBIG) cho tất cả những trẻ sinh ra từ người mẹ có HBsAg dương tính trong vòng 12 giờ sau khi sinh, ghi lại ngày & thời gian tiêm HBIG và vắc xin viêm gan B vào bệnh án sơ sinh/ Sổ tiêm chủng.

• Cung cấp thông tin về viêm gan B cho các bà mẹ có HBsAg dương tính, bao gồm:
 - Khuyến cáo rằng họ có thể cho con bú mẹ sau khi sinh;
 - Các con đường lây nhiễm HBV;
 - Cần tiêm phòng vắc xin cho người nhà, bạn tình và những người sử dụng chung kim tiêm với họ;
 - Cần điều trị tình trạng nghiện thuốc nếu thích hợp;
 - Cần xử trí y tế và có thể phải điều trị tình trạng viênm gan B mạn tính.

Đối với người mẹ chưa biết rõ tình trạng HBsAg và con của họ

• Tiêm vắc xin viêm gan B (không tiêm HBIG) cho tất cả những trẻ sơ sinh của người mẹ chưa biết rõ tình trạng HBsAg trong vòng 12 giờ sau khi sinh, ghi lại ngày & thời gian tiêm vắc xin viêm gan B vào bệnh án sơ sinh /Sổ tiêm chủng.

• Cảnh báo cho nhân viên y tế chăm sóc trẻ sơ sinh nếu bé sơ sinh ra viện trước khi người mẹ có kết quả xét nghiệm HBsAg; nếu người mẹ được xác định có HBsAg dương tính, thì nên tiêm HBIG cho trẻ càng sớm càng tốt nhưng không chậm hơn 7 ngày tuổi.
Đối với tất cả các bà mẹ và trẻ sơ sinh

• Tiêm 1 liều vắc viêm gan B cho tất cả trẻ sơ sinh có trọng lượng
> 2.000gr.

• Phải đảm bảo rằng tất cả các bà mẹ đều được làm xét nghiệm HBsAg trước khi sinh hoặc khi đến sinh tại cơ sở y tế, và có ghi nhận kết quả xét nghiệm.
*Khi trẻ sơ sinh ra viện

Cung cấp sổ tiêm chủng của trẻ sơ sinh cho người mẹ và nhắc nhở họ mang theo ngay khi đưa con đi khám bệnh lần đầu tiên
Người dịch: Kim Thạch
Nguồn: CDC. A comprehensive immunization strategy to eliminate transmission of hepatitis B virus infection in the United States: recommendations of the Advisory Committee on Immunizatio

Quy trình khám điều trị hiếm muộn – vô sinh tại Phòng khám đa khoa Hữu Nghị Việt Pháp

Quy trình khám điều trị hiếm muộn – vô sinh tại

     Sau hơn 1 năm đi vào hoạt động (từ ngày 19/05/2010 đến nay) Khoa Hiếm muộn và Hỗ trợ sinh sản của Phòng Khám Đa khoa Hữu Nghị Việt Pháp đã mang lại niềm vui cho hơn 100 cặp vợ chồng đến khám và điều trị tại khoa. Theo định nghĩa các cặp vợ chồng trong tuổi sinh sản sau một năm chung sống và không áp dụng các biện pháp tránh thai mà vẫn không có con được gọi là Vô sinh (nếu người vợ >35 tuổi thời gian chỉ còn 6 tháng).

   Bệnh nhân có thể tham khảo qui trình khám và điều trị tại khoa để thuận tiện hơn trong quá trình điều trị.

   Khi tới Phòng Khám đa khoa hữu nghị việt Pháp 112, Phố mai dịch, Cầu Giấy (tầng 2, phòng 204), bệnh nhân sẽ được nhân viên hỏi về tình trạng bệnh (khai hồ sơ), khám phụ khoa tổng quát, siêu âm. Dựa trên kết quả thăm khám, bệnh nhân sẽ được cho làm một số xét nghiệm sơ khởi, bao gồm:

   + Chồng:
- Xét nghiệm máu (HIV, VDRL, HBsAg)
- Xét nghiệm tinh dịch đồ

   + Vợ:
- Xét nghiệm máu (HIV, VDRL, HbsAg)
- Xét nghiệm nội tiết vào ngày thứ 2 của vòng kinh (kiểm tra chức năng hoạt động của buồng trứng)
- Chụp HSG sau khi sạch kinh 2-3 ngày, không quan hệ (khi có nghi ngờ tổn thương tử cung - vòi trứng)

   Sau khi hoàn tất các xét nghiệm cơ bản tìm nguyên nhân, bệnh nhân sẽ được Bác sĩ trả lời kết quả xét nghiệm và tư vấn phương pháp điều trị phù hợp.

   Điều trị hiếm muộn rất đặc thù không như điều trị một bệnh thông thường, đòi hỏi bệnh nhân phải kiên trì (đến khám rất nhiều lần) và có niềm tin trong cả quá trình điều trị. Tiến trình điều trị vô sinh liên quan mật thiết với chu kỳ kinh của người phụ nữ, do vậy đơn vị thời gian trong điều trị không tính bằng ngày mà bằng tháng, và bệnh nhân phải tái khám đúng theo ngày hẹn để đảm bảo chất lượng điều trị.

Điều trị nội khoa thai ngoài tử cung

Điều trị nội khoa thai ngoài tử cung

Thai ngoài tử cung ở đoạn kẻ 12 tuần, kết quả cuối cùng là CTC.
     Theo kinh điển, điều trị thai ngoài tử cung chỉ là phẫu thuật. Với kinh nghiệm điều trị bằng methotrexate, điều trị thai ngoài tử cung chọn lọc bằng nội khoa là một cuộc cách mạng.
Điều trị nội khoa đang lôi cuốn những ý kiến phẫu thuật vì một số lí do bao gồm: giảm tỉ lệ tử vong do phẫu thuật, do gây mê toàn thân , ít bị tổn thương vòi trứng, ít chi phí và không cần nhập viện.
Ở Mỹ, từ năm 2002 đến 2007, chỉ định điều trị thai ngoài tử cung bằng methotrexate tăng từ 11,1% đến 35,1%.
Methotrexate là yếu tố hóa trị kháng chuyển hóa mà nó kết hợp với enzyme biến đổi dihydrofolate, emzyne này liên quan trong tổng hợp những nhân purine. Điều này cản trở sự tổng hợp DNA và phá vỡ sự nhân lên của tế bào. Methotrexate được biết có hiệu quả trong điều trị bệnh bạch cầu, u bạch huyết bào và ung thư ở đầu, cổ, vú, buồng trứng và bàng quang. Nó được dùng như yếu tố ức chế miễn dịch trong việc phòng ngừa mô ghép đối với vật thể chủ và trong điều trị chốc lỡ nặng, viêm khớp dạng thấp nặng.Nó bắt nguồn từ kinh nghiệm điều trị methotrexate trong bệnh thai trứng và ung thư tế bào nuôi, hiệu quả của nó trong điều trị mô tế bào nuôi tốt. Methotrexate được dùng để điều trị thai ngoài tử cung bằng tiêm bắp đơn liều hoặc đa liều.
Những tác dụng phụ liên quan với điều trị methotrexate có thể phân chia do tác dụng phụ của thuốc và của điều trị. Tác dụng phụ của thuốc bao gồm : buồn nôn, nôn, viêm dạ dày, ỉa chảy,viêm đường ruột, chóng mặt, tăng men gan thoáng qua. Những phản ứng nặng như là ngăn cản việc tổng hợp xương, viêm da, viêm màng phổi, viêm phổi, rụng tóc có thể xảy ra khi dùng liều cao hơn nhưng hiếm gặp khi dùng với liều điều trị thai ngoài tử cung. Những ảnh hưởng điều trị của methotrexate bao gồm đau bụng nhiều hơn (xảy ra ở 2/3 bệnh nhân), gia tăng nồng độ βhCG kéo dài từ 1-3 ngày sau khi điều trị và chảy máu ở âm đạo.

Bệnh nhân nào thì được chọn để điều trị nội khoa, một số yếu tố được đưa ra : bệnh nhân đó phải có tình trạng huyết động ổn định, không có những dấu hiệu hoặc triệu chứng của chảy máu tiến triển hoặc xuất huyết trong ổ bụng. Bệnh nhân đó phải là người tin cậy và tái khám để theo dõi. Yếu tố khác là kích thước của túi thai không quá 3,5 cm ở đường kính lớn nhất trên siêu âm và không có bất cứ chống chỉ định nào khi dùng methotrexate.
Nồng độ βhCG > 15000 IU/L, có tim thai, có dịch trong túi cùng trên siêu âm (biểu hiện thai ngoài tử cung vỡ) là những chống chỉ định điều trị nội. Mặc dù, bệnh nhân với nồng độ βhCG > 15000 IU/L, có tim thai đã được điều trị thành công với methotrexate, những bệnh nhân này đòi hỏi được theo dõi chặt chẽ hơn nhiều và chịu nguy cơ cao của hậu quả can thiệp phẫu thuật.Có một sự kết hợp trái ngược giữa nồng độ βhCG và điều trị thành công thai ngoài tử cung bằng phương pháp nội khoa. Bài báo cáo hồi cứu của Menon và cộng sự, bao gồm 503 bệnh nhân cho rằng có sự gia tăng việc thất bại điều trị nội khoa thai ngoài tử cung với liều đơn methotrexate khi nồng độ βhCG là 5000 IU/L.
Những chống chỉ định khi dùng methotrexate bao gồm : nhạy cảm với methotrexate, cho con bú, suy giảm miễn dịch, nghiện rượu, bệnh gan do rượu hoặc bất kỳ bệnh gan khác, rối loạn tạo máu, giảm bạch cầu, giảm tiểu cầu, thiếu máu, bệnh phổi tiến triển, bệnh loét dạ dày tá tràng, rối loạn thận gan hoặc rối loạn huyết học. Trong mỗi trường hợp, nguy cơ phẫu thuật  phải được cân nhắc so với chống chỉ định tương đối.
Một số tiêu chuẩn đối với dùng methotrexate trong điều trị thai ngoài tử cung : ban đầu dùng methotrexate đa liều với leucovorin để giảm đi những tác dụng phụ. Leucovorin là axid folenic, đó là sản phầm cuối cùng của phản ứng được xúc tác bởi sự biến đổi dihydrofolate, cùng một enzyme được ức chế bởi methotrexate. Những tế bào phân chia bình thường dễ hấp thụ leucovorin, vậy thì nó làm giảm tác dụng của methotrexate, bởi vậy nó làm giảm tác dụng phụ toàn thân của methotrexate. Cơ chế này liên quan đến dùng methotrexate 1 mg/kg tĩnh mạch vào ngày 0, 2, 4, 6 kèm theo 4 liều leucovorin 0,1 mg/kg vào ngày 1, 3, 5 và 7. Bởi tỷ lệ tác dụng phụ cao hơn và đòi hỏi ở bệnh nhân nhiều nhu cầu, nên chế độ đa liều methotrexate không còn dùng ở Mỹ nữa.
Chế độ phổ biến hơn ngày nay là dùng liều đơn, liều methotrexate 50 mg/m2 tiêm bắp 1 lần hoặc chia 2 để tiêm bắp 2 mông. So sánh điều trị dùng methotresate đơn liều với đa liều thì kết quả như nhau. Với liều đơn này thì liều dùng điều trị nhỏ hơn và số lần tiêm ít hơn, tác dụng phụ ít hơn và không cần dùng kết hợp leucovorin nữa.
Đầu tiên là tiêm methotrexate , bệnh nhân phải được tư vấn kỹ về các nguy cơ, hiệu quả, tác dụng phụ và có khả năng thất bại trong điều trị, có thể vỡ vòi trứng cần phải phẫu thuật. Những bệnh nhân cần cảnh giác những dấu chứng và triệu chứng liên quan đến vỡ vòi trứng và khuyên bênh nhân gặp bác sĩ ngay khi có cơn đau bụng đáng kể hoặc bụng có phản ứng, chảy máu âm đạo nhiều, chóng mặt, nhịp tim nhanh, đánh trống ngực hoặc ngất.
Hầu hết bệnh nhân đau bụng gia tăng thường xảy ra 2, 3 ngày sau khi tiêm thuốc. Đau bụng là do phần thai tách khỏi vị trí bám. Điều đó khác với thai ngoài tử cung vỡ thì đau nhẹ hơn, đau bụng trong một khoảng thời gian kéo dài từ 24 đến 48 giờ kèm với huyết động ổn định. Khi điều trị bằng methotrexate, bệnh nhân nên tránh dùng thức uống bằng cồn, những chất vitamin có chứa acid folic, những thuốc kháng viêm không steroid, và không giao hợp. Cái chính là bệnh nhân phải chấp nhận điều trị. Cấp cho bệnh nhân 1 tờ giấy ghi đầy đủ thông tin liên quan đến điều trị methotrexate. Tờ giấy này ghi rõ những tác dụng phụ của điều trị nội, lịch đến tái khám theo dõi, hoặc nhập viện khi cấp cứu.
Trước khi bắt đầu điều trị, lấy máu để xác định chức năng của thận, gan, tủy xương cũng như nồng độ βhCG cơ bản. Xác định nhóm máu, yếu tố Rh và hiện diện của kháng thể. Những bệnh nhân có Rh âm tính nên nhận globulin miễn dịch Rh. Đánh giá βhCG lập lại sau 4 ngày, 7 ngày sau khi tiêm methotrexate. βhCG lúc đầu gia tăng thường là vào ngày thứ 3 nhưng không báo hiệu nguy hiểm. Giảm nồng độ  βhCG ít nhất 15% từ ngày 4 đến 7 sau khi tiêm, đó là sự đáp ứng điều trị nội thành công. βhCG nên được đánh giá hàng tuần cho đến khi trở về âm tính.
Thất bại điều trị nội được xác định khi nồng độ βhCG tăng hoặc chỉ giảm đến mức 15% từ 4 đến 7 ngày sau tiêm. Lúc này nên can thiệp phẫu thuật.
Một liều đơn methotrexate lặp lại sau khi đánh giá lại những chỉ định và chống chỉ định (gồm siêu âm lặp lại). Điều trị methotrexate là một phương pháp lý tưởng khi có thai định vị ở cổ tử cung, buồng trứng hoặc ở đoạn kẽ hoặc ở sừng tử cung. Điều trị phẫu thuật ở những trường hợp này khi có nguy cơ xuất huyết tăng và kết quả là thường đưa đến cắt tử cung hoặc cắt bỏ buồng trứng.
Điều trị nội khoa bằng methotrexate thành công với kết quả là có thai trở lại tốt bởi do là giảm nguy cơ do phẫu thuật gây tổn thương vòi trứng.
Cách điều trị methotrexate bằng đường uống đang được nghiên cứu và những báo cáo sơ bộ cho thấy có những kết quả mong đợi. Tiêm trực tiếp methotrexate ở vị trí khu trú ( tiêm vào vòi trứng) đối với thai ngoài tử cung dưới sự chỉ dẫn của siêu âm hoặc nội soi cũng đã được báo cáo. Tuy nhiên, những báo cáo từ những nghiên cứu này đưa đến những kết quả tương phản nhau. Những thuận lợi từ tiêm bắp vẫn có ý nghĩa điều trị tốt hơn.
Điều trị nội khoa thai ngoài tử cung đòi hỏi sự chấp nhận của bệnh nhân, thầy thuốc cần phải nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tái khám, theo dõi định kỳ, có những thông tin đầy đủ của bệnh nhân gồm địa chỉ, số điện thoại ở nhà và ở cơ quan. Cần thu thập những thông tin của bệnh nhân từ điện thoại hoặc thư điện tử, bởi vì đó là những bằng chứng y học hợp pháp.

Hội chứng buồng trứng đa nang

Hội chứng buồng trứng đa nang

     Khái niệm: Hội chứng buồng trứng đa nang - HCBTĐN (PCOS-Pcoly Cystic Ovary Syndrome) là bệnh gây ra do tình trạng rối loạn nội tiết và là một trong những nguyên nhân thường gặp gây vô sinh do không rụng trứng hay rối loạn phóng noãn. HCBTĐN cho hình ảnh siêu âm buồng trứng có nhiều nang nhỏ, không phát triển được, dẫn đến vô sinh.
Hội chứng buồng trứng đa nang chiếm tỷ lệ khoảng 16-22% số phụ nữ nói chung, có nghĩa là cứ 5 người thì có 1 có dấu hiệu của căn bệnh này.

Những dấu hiệu của bệnh:
    - Béo phì (30-50% phụ nữ BTĐN bị béo phì) Người ta nhận thấy rằng cân nặng đóng vai trò rất quan trọng trong thúc đẩy các triệu chứng BTĐN. Kiểm soát cân nặng có thể giúp cải thiện tiên lượng của Hội chứng BTĐN.

    - Mụn trứng cá

    - Rậm lông (lông phát triển giống như nam giới - mọc ria mép, lông mày rậm, lông chân, lông bụng nhiều).

    - Rối loạn kinh nguyệt (thường là thưa và kéo dài, máu kinh thất thường, ít). Những phụ nữ có chu kỳ kinh dưới 25 ngày hoặc trên 35 ngày sẽ có nhiều nguy cơ không phóng noãn; khoảng 3/4 trường hợp không phóng noãn liên quan đến hội chứng buồng trứng đa nang. Sau 2-3 năm kể từ lần hành kinh đầu tiên, nếu kinh nguyệt vẫn không đều, cần nghĩ nhiều đến hội chứng này.
 Ảnh hưởng của HCBTĐN đến việc có thai

    - 17% trường hợp vẫn có thể có thai tự nhiên (dù không điều trị gì)

    - Số còn lại phải có sự can thiệp của các biện pháp hỗ trợ sinh sản (IUI, IVF,…)
Bệnh được phát hiện càng muộn, việc điều trị càng khó khăn và ít hiệu quả.
 Phương pháp điều trị:

    Đây là một nguyên nhân phổ biến nhất của vô sinh do không rụng trứng và là một hội chứng phức tạp, cơ chế bệnh sinh và nguyên nhân chưa được hiểu rõ nên đến nay vẫn chưa có một phương pháp điều trị tối ưu.
   
    Những phụ nữ từng mắc hội chứng BTĐN rất dễ bị sẩy thai. Vì vậy, khi đã có thai, họ cần được hỗ trợ bằng nội tiết tố nhau thai và theo dõi của bác sĩ.

Một số yếu tố có khả năng ảnh hưởng đến quá trình sinh tinh trùng

Một số yếu tố có khả năng ảnh hưởng đến quá trình sinh tinh trùng

     1. Rượu: Nghiện rượu nặng có thể làm giảm cả số lượng và chất lượng tinh trùng. Các nhà khoa học thuộc Trung tâm Sinh sản Aberdeen (Scotland) sau khi nghiên cứu trên 16.000 mẫu tinh dịch của 7.500 đàn ông trong vòng 13 năm, đã đưa ra cảnh báo chính thức về tác hại rõ rệt của rượu và thuốc lá lên chất lượng tinh trùng. Do đó, hãy hạn chế rượu ở mức cho phép. Ví dụ: Với bia là khoảng 330ml thì chấp nhận được (tương đương 1 lon), rượu vang: 125ml, rượu mạnh (gin, vodka, whiskey) 40ml...
2. Thuốc lá
Khói thuốc lá chứa rất nhiều chất độc gồm có: nicotin, CO2, các chất thơm thuộc nhóm benzen...có khả năng làm giảm số lượng và độ di động của tinh trùng. Nicotin trong khói thuốc gây hại không chỉ với nam giới mà cả ở nữ giới việc tiếp xúc với nicotin có thể gây co thắt ống dẫn trứng làm tăng nguy cơ chửa ngoài tử cung.
Thử nghiệm trên động vật cho thấy nicotin và các chất thơm gốc benzen có thể làm tinh trùng dị dạng hay teo tinh hoàn. Ở người, thuốc lá có thể gây ra các bất thường di truyền tinh trùng và ảnh hưởng lên các cháu bé sinh ra.
3. Căng thẳng về thể chất và tinh thần
Hầu hết những căng thẳng về thể chất và tinh thần quá mức đều có thể làm giảm số lượng tinh trùng: stress về tình cảm, làm việc vất vả hay chơi thể thao quá sức.
4. Mặc quần áo bó sát người
Mặc quần Jean, quần lót quá chật hoặc quần lót bằng chất liệu nylon có thể ảnh hưởng đến quá trình phát triển cơ quan sinh dục do gây ra sự tăng nhiệt độ ở da bìu và gây những chấn thương do đè ép. Tình trạng tăng nhiệt độ tương tự cũng diễn ra ở những người phải ngồi nhiều một chỗ như tài xế, phi công, nhân viên văn phòng…Ngoài ra, những người làm việc trong các ngành nghề phải thường xuyên tiếp xúc với nhiệt độ cao thường có chất lượng tinh trùng suy giảm như: thợ rèn, thợ hàn, thợ luyện kim, đầu bếp...
5. Bức xạ, sóng điện thoại di động
Theo kết quả nghiên cứu khoa học mới nhất của các chuyên gia Hungari, sóng điện thoại di động có thể hủy hoại tinh trùng của nam giới. Người cho ĐTDĐ vào túi quần và đeo ở thắt lưng thường xuyên sẽ bị giảm chất lượng tinh trùng.
Sử dụng máy tính xách tay đặt lên đùi cũng làm giảm chất lượng tinh trùng. Nguyên nhân có thể do nhiệt độ cao và từ trường do máy phát ra ảnh hưởng đến hiện tượng sinh tinh.
Các tế bào sinh tinh trùng rất nhạy cảm với vùng phóng xạ. Xạ trị, tia X, các dạng phóng xạ khác ảnh hưởng nhiều đến quá trình sản xuất tinh trùng.
6. Tắm nước nóng
Nếu đi tắm hơi, nhiệt độ trong phòng tắm lên tới 70- 80oC, so với phòng tắm bình thường nhiệt độ cao hơn 2 lần. Đó là điều hết sức bất lợi cho tinh trùng. Các chuyên gia cảnh báo, dù tắm nóng hay tắm hơi, nhiệt độ khoảng 34 độ C là thích hợp nhất.
7. Đi xe đạp
Khi đi xe đạp, nhất là xe đạp thể thao tinh hoàn bị đè vào giữa yên xe và vùng đáy chậu gây nên tình trạng chèn ép, thiếu máu nuôi. Ngoài ra, tinh hoàn thường xuyên bị sức nén và cọ sát nên thường xuyên bị sung huyết, nhiệt độ vùng bìu cũng ở mức cao.
8. Các loại thuốc
Tiền căn dùng thuốc: Một số thuốc chữa bệnh có thể gây tổn hại tạm thời hay vĩnh viễn quá trình sinh tinh như hóa trị ung thư, hóc-môn, cimetidin, sulphasalazine, spironolactone, các thuốc huyết áp
9. Hóa chất,  thuốc trừ sâu và kim loại nặng
Một số chất ô nhiễm được ghi nhận có ảnh hưởng rõ rệt lên chất lượng tinh trùng bao gồm: Các gốc oxy tự do, các hóa chất diệt côn trùng, diệt cỏ (DDT, aldrin, dieldrin, PCPs, dioxin, furan...), một số hydrocarbon (ethylbenzene, benzene, toluen, xylen...), một số chất bảo quản, hóa chất có trong vật liệu xây dựng, nội thất... Ngoài ra, tiếp xúc trong thời gian dài với kim loại nặng như chì, cadmium, arsenic làm giảm số lượng tinh trùng.

Thiếu canxi gây suy giảm sức khỏe bà bầu

Thiếu canxi gây suy giảm sức khỏe bà bầu

     Chế độ ăn uống không hợp lý, thiếu vi dưỡng chất quan trọng như canxi, a xít folic và chất sắt là một trong những nguyên nhân làm suy giảm sức khỏe của bà mẹ.
   Điều này khiến thai khi không phát triển toàn vẹn hệ xương, gây khuyết tật ống thần kinh thậm chí hiện tượng sinh non, thai chết lưu… Can-xi ngoài tác dụng tăng cường dưỡng chất cần thiết cho sự phát triển của khung xương, lợi cho hệ thần kinh còn giúp ngăn ngừa hiện tượng tắc nghẽn mạch máu.
   Bên cạnh đó, vi chất sắt cũng là thành tố quan trọng tham gia vào quá trình tạo máu. Đây là thành phần của huyết sắc tố (có trong hồng cầu) và nhiều men khác trong cơ thể. Sắt tham gia vận chuyển oxy cùng chất dinh dưỡng tới tất cả tế bào của mọi cơ quan, bộ phận. Khi mang thai, các bà mẹ cần được bổ sung chất sắt để nuôi dưỡng thai nhi và rau thai, ngăn ngừa và loại bỏ nguy cơ sinh non và tử vong khi sinh do thiếu sắt.
Cùng với 2 dưỡng chất trên, axit folic cũng được coi là một trong những vi chất quan trọng trong quá trình cấu tạo và phát triển hệ thần kinh của thai nhi. Trong thời kỳ mang thai, nhu cầu axit folic của thai phụ có thể tăng tới 800 mcg một ngày.
   Để chuẩn bị cho việc mang thai, bạn cần nuôi dưỡng sức khỏe. Khi bắt đầu mang thai, thai phụ cần những dưỡng chất phù hợp như các vitamin và ba vi dưỡng chất quan trọng: can-xi, chất sắt, axit folic. Điều này giúp ngăn ngừa những rủi ro cho sức khỏe bà mẹ, hỗ trợ thai nhi phát triển toàn diện.
   Từ những tháng đầu trong thai kỳ, bà mẹ cần ăn, uống các chất giàu dinh dưỡng và dễ tiêu hóa, kiêng chất kích thích, thuốc lá, rượu hay ăn uống thiên lệch. Theo các bác sĩ sản khoa và chuyên gia dinh dưỡng, thai phụ nên chú trọng bổ sung dưỡng chất thông qua việc uống sữa dành riêng cho bà mẹ mang thai hàng ngày. Sau khi thụ thai, sự sinh trưởng phát triển của thai nhi nhờ vào tinh huyết từ tạng phủ của người mẹ để nuôi dưỡng nên công năng khí huyết của tạng phủ người mẹ ảnh hưởng trực tiếp tới sự sinh trưởng, phát triển của thai nhi.

Bảo Vệ Sinh dục Nữ

Sức khỏe và vệ sinh sinh dục nữ
Thời gian 01/07/2011 06:11 Tác giả levi Duyệt 1615
Print Pdf Email RSS

Âm đạo
là một môi trường phức tạp của các vi khuẩn lành mạnh, nhiệt độ và độ ẩm. Khi một trong các yếu tố trên thay đổi, cân bằng tự nhiên của cơ thể bị ảnh hưởng và sự viêm nhiễm đường sinh dục có thể xảy ra. Điều này có thể liên quan đến hoạt động tình dục nhưng cũng do nhiều các nguyên nhân khác ...





Âm đạo là một môi trường phức tạp của các vi khuẩn lành mạnh, nhiệt độ và độ ẩm. Khi một trong các yếu tố trên thay đổi, cân bằng tự nhiên của cơ thể bị ảnh hưởng và sự viêm nhiễm đường sinh dục có thể xảy ra. Điều này có thể liên quan đến hoạt động tình dục nhưng cũng do nhiều các nguyên nhân khác. Vệ sinh hằng ngày thực sự quan trọng trong phòng ngừa các bệnh viêm nhiễm, nên nhớ không được rửa âm hộ quá nhiều vì điều này có thể làm mất đi các vi khuẩn có lợi ở vùng này.
Một số người có cơ địa dễ bị viêm nhiễm hơn những người khác. Viêm nhiễm do vi khuẩn là dạng thường gặp và thông thường dễ điều trị, nếu không điều trị sẽ dẫn đến tình trạng bệnh nghiêm trọng, đặc biệt nếu bạn đang mang thai. Vì vậy cần hiểu rõ và chăm sóc tốt cho cơ thể của mình.
1.      Viêm nhiễm do nấm do sự phát triển quá mức của một loại nấm có tên là candida - đây là loại nấm sinh sống tự nhiên trên cơ thể chúng ta. Triệu chứng bao gồm sự ngứa rát âm hộ (phía ngoài âm đạo), và tiết dịch âm đạo không mùi, vón cục. Không phải tất cả phụ nữ đều có triệu chứng chính xác như vậy, vì vậy khi nghi ngờ: hãy hỏi bác sĩ.
Nên mặc quần lót “có thể thở được” (100% cotton) và sử dụng xà phòng có chất tẩy nhẹ (tránh các loại xà phòng có nước hoa và có màu, chúng có thể làm rát âm đạo) để rửa bên ngoài âm đạo. Không cần thiết rửa bên trong âm đạo vì chất thụt rửa có thể làm tăng nguy cơ viêm nhiễm. Thuốc kháng sinh có thể tạo ra sự mất cân bằng trong môi trường âm đạo của người phụ nữ. Phụ nữ mang thai rất dễ bị viêm nhiễm do nấm.
Bạn có thể chữa trị viêm nhiễm do nấm với kem thoa hoặc thuốc viên theo đơn thuốc. Tuy nhiên, sẽ tốt hơn nếu bạn đi khám bác sĩ trước. Nếu bạn có sinh hoạt tình dục, không nên sinh hoạt tình dục cho đến khi viêm nhiễm được chữa khỏi hoàn toàn, vì bạn tình của bạn có thể mắc phải viêm nhiễm và lây nhiễm lại cho bạn. Viêm nhiễm do nấm là rất thông thường nhưng không thường lây qua đường tình dục.
2.     Nhiễm khuẩn âm đạo do sự phát triển quá mức của vi khuẩn sống tự nhiên trong âm đạo. Nhiễm khuẩn âm đạo có thể gây tiết dịch âm đạo màu xám có mùi tanh. Nguy cơ nhiễm khuẩn âm đạo tăng khi: thụt rửa, hút thuốc, hoặc nhiều yếu tố khác (phụ nữ có thể bị nhiễm khuẩn âm đạo mặc dù không có tiếp xúc tình dục). Nhiễm khuẩn âm đạo được chữa khỏi bằng thuốc kháng sinh, dạng viên hoặc dạng gel. Nếu bạn có hoạt động tình dục, không quan hệ tình dục cho đến khi sự viêm nhiễm được chữa khỏi hoàn toàn và bạn phải hoàn tất chương trình điều trị của bạn.
3.      Nhiễm trùng đường tiểu là một tình trạng phổ biến gây ra bởi vi khuẩn trong niệu đạo (nơi nước tiểu thải ra khỏi cơ thể), và đặc trưng bởi triệu chứng thường xuyên mắc tiểu và nóng rát khi đi tiểu. Phụ nữ có nguy cơ bị nhiễm trùng đường tiểu cao hơn các đối tượng khác, và trong 5 phụ nữ thì có 1 người bị nhiễm.
Để tốt cho sức khỏe nên đi tiểu trước và sau khi giao hợp, dòng chảy của nước tiểu có thể giúp làm sạch các vi khuẩn có thể đã tích tụ lại trong niệu đạo.
Sau khi đi vệ sinh, bạn lau từ trước ra sau (lau sạch từ niệu đạo) để tránh mang vi khuẩn từ hậu môn về phía niệu đạo.
Nhiễm trùng đường tiểu có thể chữa trị bằng kháng sinh. Uống nước nhiều cũng giúp trong việc chữa trị. Tình trạng tái phát là phổ biến. Nếu không điều trị, nhiễm trùng đường tiểu sẽ chuyển sang tình trạng nặng hơn nếu nó lây sang bàng quang và thận, vì vậy cần phải điều trị ngay!
Hằng ngày
·         Mặc quần lót vải cotton và mặc quần áo khô. Không mặc quần áo quá chật và đừng bao giờ chia sẻ quần lót hoặc đồ tắm với người khác.
·         Thay đồ tắm hoặc đồ tập thể dục ra càng sớm càng tốt.
·         Rửa bên ngoài âm đạo bằng xà phòng có chất tẩy nhẹ.
·         Không sử dụng chất thụt rửa
* Chất thụt rửa là bất cứ loại chất lỏng nào người phụ nữ sử dụng để xịt thẳng vào bên trong âm đạo để “làm sạch” bên trong. Thật ra, thụt rửa như vậy là không tốt vì nó làm mất đi sự cân bằng mong manh của các vi khuẩn lành mạnh sống bên trong âm đạo và có thể đẩy các vi khuẩn có hại vào sâu bên trong cơ thể của người phụ nữ. Chất thụt rửa cũng có thể làm khô và kích thích sự nhạy cảm của thành âm đạo, làm tăng nguy cơ trầy xước (vết cắt và vết trầy xước) và viêm nhiễm. Ngoài ra, thụt rửa hậu môn được khuyến cáo không nên sử dụng cho phụ nữ hoặc nam giới.
·      Tránh sử dụng thuốc xịt vệ sinh, thuốc đạn, băng vệ sinh/tăm bông có mùi thơm hoặc có màu, xà bông tắm tạo bọt hoặc giấy toilet có chứa nước hoa.
·         Ăn một chế độ ăn cân bằng và tránh ăn đường quá nhiều để có sức khỏe tốt nhất và sự dễ chịu âm đạo.
·       Kiêng sinh hoạt tình dục cho đến khi viêm nhiễm được chữa khỏi hoàn toàn để tránh lây nhiễm lại cho chính mình.
Hãy nhớ …
Tiết dịch bất thường, ngứa rát, đau nhức và mùi hôi ở âm đạo có thể do một số nguyên nhân như nhiễm lậu, Chlamydia, Trichomoniasis, nhiễm khuẩn, nhiễm nấm, nhiễm trùng âm đạo và các nhiễm trùng khác. Vì vậy điều quan trọng là phải được kiểm tra bởi bác sĩ để đảm bảo có một phác đồ điều trị đúng.
Âm đạo tự làm sạch và bôi trơn hằng ngày bằng cách tiết ra một lượng nhỏ chất dịch gọi là huyết trắng sinh lý. Chất dịch này giữ cho âm đạo khỏe mạnh và sạch sẽ.
Huyết trắng sinh lý có màu trong suốt hoặc màu hơi trắng và có mùi thơm nhẹ. Nếu huyết trắng của bạn bị đổi màu hoặc có mùi khác thường, điều này cho biết đang có tình trạng viêm nhiễm. Khi nghi ngờ bạn nên đi khám bác sĩ để được điều trị thích hợp.

Nhiễm HIV ở Các Nước Đang Phát triển

Ở nước đang phát triển, nữ hành nghề mại dâm có khả năng nhiễm HIV gấp 14 lần

  



Nữ hành nghề mại dâm trong các nước có thu nhập thấp và trung bình có khả năng nhiễm HIV gấp 14 lần so với dân số ở các nước còn lại, theo một phân tích bởi các nhà nghiên cứu tại Trường Y tế Công cộng Johns Hopkins Bloomberg. Phát hiện này gợi ý một nhu cầu bức thiết cần tăng cường chất lượng tiếp cận với các chương trình phòng ngừa HIV có chất lượng tại các quốc gia này. Nghiên cứu này được đăng tải trên tạp chí The Lancet Infectious Diseases.







 


Chủ nhiệm nhóm nghiên cứu đã phát biều “Dù ta đã biết từ lâu là nữ hành nghề mại dâm là nhóm dân số bị ảnh hưởng chính, tuy nhiên phạm vi và mức độ nguy cơ nhiễm HIV của nhóm này vẫn chưa được minh chứng rõ ràng. Do đó bên cạnh áp dụng liệu pháp điều trị kháng vi rút.và các chương trình phòng ngừa hiện tại cho các đối tượng hành nghề mại dâm, cần xem xét đến các chính sách và luật pháp dành cho mại dâm, cũng như vai trò rất quan trọng của việc đối xử phân biệt, kì thị và xâm hại nhóm nữ mại dâm một cách toàn cầu để giảm thiểu gánh nặng bệnh tật quá lớn trên những phụ nữ này.”
 
Trong nghiên cứu này, Johns Hopkins đã tiến hành một phân tích gộp  (meta-analysis) trên 102 nghiên cứu được công bố trước đây đại diện cho gần 100.000 nữ mại dâm trong 50 quốc gia. Tý lệ hiện mắc HIV ở nữ mại dâm tại các nước có thu nhập thấp và trung bình ở khoảng 12%, tương ứng với gia tăng tỷ lệ nhiễm 14 lần so với nữ mại dâm ở các nước còn lại. Trong 26 nước có mức độ nền HIV được xếp loại là trung bình và cao, gần 31% nữ mại dâm được phát hiện nhiễm HIV và tỷ lệ này gấp 12 lần so với dân số chung. Nữ mại dâm ở châu Á tăng 29% tỷ lệ nhiễm so với các vùng khác, đây là sự khác biệt lớn nhất trong các nghiên cứu trên phạm vi khu vực. Nữ mại dâm ở châu Phi và Mỹ Latinh tăng 12% tỷ lệ nhiễm so với những phụ nữ khác trong những vùng này.
 
Phân tích này tiến hành trong một dự án lớn mang tên "Dịch HIV toàn cầu ở nhóm nữ mại dâm: Dịch tễ học, phòng ngừa, tiếp cận chăm sóc, chi phí và quyền con người" chỉ đạo bởi các nhà nghiên cứu của Trường Y tế Công cộng Johns Hopkins. Một dự án lớn hơn đang đánh giá không chỉ về dịch tễ học nhiễm HIV ở nữ mại dâm trong các nước có thu nhập thấp và trung bình mà còn đưa ra tình trạng các can thiệp phòng ngừa và hoàn cảnh xã hội chung quanh nghề mại dâm trong những điều kiện khác nhau và sử dụng các mô hình toán học và phân tích chi phi-hiệu quả để đánh giá các tác động tiềm tàng và các nuồn lực cần thiết để tăng cường hiểu biết về phòng ngừa, điều trị và các dịch vụ chăm sóc cho người hành nghề mại dâm.

Nghiên cứu được tài trợ bởi Ngân hàng Thế giới và Quỹ Dân số Liên hiệp quốc.
Liên hệ tác giả: Tim Parsons, vietphapclinic@yahoo.com

Bệnh nan y của ngành y

Bệnh nan y của ngành y
Ngày gửi: Thứ tư, 20:34, 28/3/2012
Một tờ báo đã so sánh số người tử vong vì lao “bằng tai nạn giao thông và HIV/AIDS cộng lại”. Trong khi đó, nếu không có một chính sách đúng và kịp thời, bác sĩ lao ở Việt Nam, nói không ngoa - chẳng mấy mà “tiệt chủng”.

Y học cổ truyền liệt lao, cùng với phong, cổ (cổ trướng), lại (ung thư) là "tứ chứng nan y". Nhưng dù là bệnh gây tử vong hàng đầu trong các bệnh truyền nhiễm, bệnh lao đã có thuốc chữa trị từ lâu và bệnh này có thể chữa khỏi hẳn...
Ấy vậy mà ngày 26.3, khi Bộ trưởng Bộ Y tế đăng đàn trả lời chất vấn, một con số kinh hoàng liên quan đến căn bệnh này đã được đưa ra: 30.000 người chết mỗi năm. Bình quân 82 người chết mỗi ngày. 
Ở Việt Nam, theo điều tra dịch tễ từ cách đây 5 năm, tỷ lệ người mắc lao phổi dương tính cao gấp 1,6 lần so với ước tính 90/100.000 dân của Tổ chức Y tế thế giới. Việt Nam cũng có tên trong cả 2 danh sách các nước có gánh nặng bệnh lao và gánh nặng lao đa kháng thuốc. Ấy vậy mà Bộ trưởng Bộ Y tế chỉ duy nhất một lần nhắc đến chữ "lao". Nhưng đó là lời kêu khó về tình trạng khan hiếm nhân lực điều trị bệnh lao, mà không giải thích nguyên nhân.
Còn nhớ năm ngoái, PGS-TS Đinh Ngọc Sỹ - Chủ nhiệm Chương trình Phòng chống lao quốc gia chua chát nói: "Cán bộ làm công tác chống lao đang "già đi" do không có người thay thế trong khi bệnh lao lại đang "trẻ lại". Tỷ lệ bác sĩ lao chỉ 1,58/100.000 dân, có lẽ còn ít hơn cả tỷ lệ bác sĩ pháp y. Và sự thiếu hụt này được ông Sỹ đánh giá "chính là nguyên nhân sâu xa của việc chỉ có khoảng một nửa số bệnh nhân lao ở Việt Nam được phát hiện".
Sự khan hiếm nhân lực trong ngành lao thực ra đã được kêu ca từ gần chục năm trước. Nhưng trong từng đó năm, ngành y tế đã làm gì, ngoài chuyện kêu ca? Tại nghị trường, Bộ trưởng Bộ Y tế mười mấy lần nhắc đến hai chữ "kinh phí", đã liệt kê ra vô số những nhóm giải pháp với giải pháp. Nhưng quanh đi quẩn lại toàn chỉ thấy chuyện cần "tiền" - hoặc trực tiếp từ các khoản thu "bổ đầu bệnh nhân" (viện phí), hoặc gián tiếp qua ngân sách - thực ra cũng là thuế do người dân đóng góp.
Theo Bộ Y tế, riêng chuyên khoa lao, chỉ có 1,5 bác sĩ/100.000 dân, với một số lượng "đếm trên đầu ngón tay", trong tình trạng "cứ 10 người dân có 4 người nhiễm lao". Nếu không có một chính sách đúng, và kịp thời, bác sĩ lao ở Việt Nam, nói không ngoa- chẳng mấy mà “tiệt chủng”. Khi đó, những từ ngữ như "quốc nạn" hay "sóng thần" cũng không đủ để mô tả thảm họa do căn bệnh- 4 thập kỷ qua đã không còn là một trong "tứ chứng nan y"- gây ra.