Vai trò của Metformin trong điều trị hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS) và đái tháo đường trong thai kỳ
ThS. BS Lê Quang Thanh (Dịch)
Giám đốc - BV Từ Dũ
Mục đích của tổng quanGiám đốc - BV Từ Dũ
Cập nhật những bằng chứng hiện nay
về hiệu quả điều trị của Metformin, dùng đơn thuần hoặc phối hợp với
clomiphene citrate ở phụ nữ bị hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS).
Hiệu quả được đánh giá bằng: tỉ lệ rụng trứng, có thai và sinh sống.
Đồng thời, cập nhật những bằng chứng về việc sử dụng metformin trong
thai kỳ và giai đoạn nuôi con bằng sữa mẹ.
Tóm tắt
Các dữ liệu lâm sàng cho thấy
metformin làm tăng tỉ lệ rụng trứng và khi kết hợp với clomiphene sẽ
tăng tỉ lệ rụng trứng và tỉ lệ có thai nhưng không làm tăng tỉ lệ sinh
sống ở những phụ nữ bị PCOS.
Metformin sử dụng an toàn trong thai kỳ và giai đoạn nuôi con bằng sữa mẹ.
Hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS) là
một rối loạn phức tạp xảy ra khoảng từ 5% tới 10% ở phụ nữ trong tuổi
sinh đẻ và là nguyên nhân quan trọng gây nên hiếm muộn (Costello MF and Eden JA 2003; Siebert TI et al, 2006; Legro RS et al, 2007).
Sinh bệnh học tình trạng này chưa được hiểu rõ. Do đó, có rất nhiều
tranh luận trong điều trị. Các tình trạng đặc trưng của PCOS là không
rụng trứng, hiếm muộn, cường androgen và kháng insulin. Tình trạng kháng
insulin để chỉ sự giảm khả năng của insulin kích thích sự vận chuyển
glucose vào những tế bào đích hoặc giảm đáp ứng của glucose với insulin
và xuất hiện dưới đặc tính của hội chứng (Ben-Haroush A et al, 2004).
Metformin là một thuốc làm tăng độ nhạy của insulin đã được đánh giá là
cải thiện đáng kể chu kỳ kinh nguyệt, gây rụng trứng và có thai, dùng
đơn thuần hoặc kết hợp với clomiphene citrate (CC) ở phụ nữ bị PCOS (Lord JM et al, 2003). Sự kháng insulin ở những phụ nữ kháng CC và béo phì đáp ứng rất tốt với Metformin.
Metformin chính yếu là thuốc điều trị
đái tháo đường, nhưng cũng đã được đưa vào sử dụng điều trị PCOS, đặc
biệt ở những BN có kháng insulin. Trên lâm sàng, metformin được dùng đơn
thuần như một điều trị đầu tay hoặc kết hợp với CC. Nhiều nghiên cứu đã
báo cáo việc sử dụng metformin trong PCOS nhưng hầu hết là nghiên cứu
quan sát và cỡ mẫu nhỏ. Những nghiên cứu gần đây đã khảo sát hiệu quả
của metformin về chuyển hóa, sinh hóa và sinh sản(Costello MF and
Eden JA 2003; Siebert TI et al, 2006; Ben-Haroush A et al, 2004; Lord JM
et al, 2003; Pasquali R and Gambineri A, 2006; Awartani KA and Cheung
AP, 2002; Kashyap S et al 2004). Có hai phân tích tổng hợp (meta-analysis) về hiệu quả của metformin gây rụng trứng và có thai sớm (Lord JM et al, 2003; Kashyap S et al, 2004).
Cả hai phân tích cho thấy metformin hiệu quả gây rụng trứng khi so sánh
với giả dược và kết hợp metformin với CC hiệu quả hơn dùng CC đơn thuần
để đạt được rụng trứng và có thai ở phụ nữ bị PCOS.
Điều trị PCOS bằng Metformin đơn thuần và phối hợp với CC
PCOS thường gây không rụng trứng và hiếm
muộn. Metformin đã được sử dụng rộng rãi trong thực hành lâm sàng và
mối quan tâm nhiều nhất là hiệu quả cải thiện sự rụng trứng và có thai ở
phụ nữ bị PCOS. Có những kết quả không đồng nhất giữa hai thực nghiệm
lâm sàng lớn nhất gần đây của Moll (Moll E et al, 2006) và Legro (Legro RS et al, 2007),
đồng thời cũng có sự mâu thuẫn giữa hai thực nghiệm này và những nghiên
cứu trước đó có cỡ mẫu nhỏ hơn. Nghiên cứu của Moll gồm 228 BN bị PCOS,
kết quả cho thấy không có cải thiện tỉ lệ rụng trứng hoặc có thai khi
so sánh giữa nhóm BN sử dụng metformin kết hợp với CC và nhóm BN sử dụng
CC đơn thuần. Nghiên cứu của Legro và cộng sự (Legro RS et al, 2007)
gồm 626 phụ nữ hiếm muộn bị PCOS, so sánh hiệu quả của CC, metformin và
kết hợp cả 2 loại thuốc và thực nghiệm chỉ khảo sát tỉ lệ sinh sống.
Trái ngược với nghiên cứu của Moll (Moll E et al, 2006), thực
nghiệm sau này xác định kết quả của những nghiên cứu nhỏ hơn và cho thấy
tỉ lệ rụng trứng cao hơn ở nhóm điều trị kết hợp so với nhóm chỉ dùng
một loại thuốc đơn thuần là metformin hoặc clomiphene, nhưng khảo sát
cũng cho thấy sự khác nhau về tỉ lệ rụng trứng không làm tăng tỉ lệ sinh
sống đối với BN được điều trị phối hợp. Do đó, rất cần thiết phải đánh
giá và tóm lược những bằng chứng về hiệu quả của metformin đơn thuần
hoặc kết hợp với CC để điều trị hiếm muộn ở phụ nữ bị PCOS, đặc biệt chú
trọng vào nhóm nhỏ có sự không tương đồng về lâm sàng.
Một phân tích tổng hợp (Creanga AA et al, 2008)
gồm 17 thực nghiệm (n = 1.639 BN bị PCOS). Khi so sánh với giả dược,
metformin có hiệu quả gây rụng trứng ở BN bị PCOS. Sự tương quan có ý
nghĩa về mặt thống kê và có sự sụt giảm mạnh về ước lượng từ tổng quan
của Kashyap năm 2002 và Lord năm 2003. Tuy nhiên, phân tích tổng hợp này
cũng không chứng minh được hiệu quả của metformin về tỉ lệ có thai khi
so với giả dược.
Nói cách khác, sự kết hợp của metformin
và CC đã cho thấy hiệu quả đối với tăng tỉ lệ rụng trứng và có thai ở BN
PCOS. Mặc dù những kết quả này phù hợp với hai tổng quan trước, tuy
nhiên ước lượng tỉ lệ có thai sớm thấp hơn hai tổng quan trước (Lord JM et al, 2003; Kashyap S et al, 2004).
Sự khác biệt này được giải thích là do tiêu chuẩn chọn bệnh của hai
tổng quan khác nhau, cả hai thực nghiệm lớn hơn những thực nghiệm trước
đó.
Những dấu hiệu phân tích từ những nhóm
nhỏ gợi ý rằng cần phải có thêm những nghiên cứu để xác định. Hiệu quả
điều trị gây rụng trứng ở cả hai nhóm và hiệu quả có thai trong những
nhóm so sánh metformin kết hợp CC với CC đơn thuần cao hơn đối với thực
nghiệm theo dõi ngắn hơn. Hiệu quả của metformin đơn thuần hoặc kết hợp
với CC có thể bị giảm đi khi thời gian theo dõi lâu hơn bởi vì BN trong
nhóm chứng có thời gian dài hơn để rụng trứng tự nhiên; do đó, metformin
có thể gây rụng trứng ngay sau khi dùng thuốc. Nghiên cứu của Kashyap (Kashyap S et al, 2004) cũng cho kết quả tương tự.
Một điều rất quan trọng trong kết quả
của cả hai nghiên cứu là hiệu quả của metformin đơn thuần (so với giả
dược) lớn hơn ở những phụ nữ không bị kháng CC, do đó điều trị kết hợp
có hiệu quả tốt hơn (so với CC đơn thuần) ở những phụ nữ kháng CC và béo
phì. Kết quả của điều trị kết hợp là hợp lý về mặt sinh học bởi vì môi
trường chuyển hóa được tạo nên bởi metformin cải thiện khả năng của
buồng trứng đáp ứng với thuốc kích thích rụng trứng ở phụ nữ kháng CC
hoặc béo phì. Mặc dù không thể kết luận được có nên chọn metformin đơn
thuần đối với phụ nữ không kháng CC hay không và những thực nghiệm trong
tương lai cần phải phân nhóm phụ nữ kháng CC, kết quả gợi ý rằng nên
chọn điều trị kết hợp (metformin và CC) đối với phụ nữ bị kháng CC.
Những hạn chế của các nghiên cứu bắt
nguồn từ sự không đồng nhất trong các nghiên cứu, đặc biệt là những
nghiên cứu so sánh sự kết hợp điều trị và điều trị CC đơn thuần. Sự
không đồng nhất về vị trí địa lý, không thống nhất hoặc không ghi nhận
cách dùng metformin và CC, sự khác nhau về đánh giá kết quả, khác nhau
về thiết kế nghiên cứu và thời gian theo dõi, bao gồm những phụ nữ với
những nguyên nhân khác có thể gây hiếm muộn và ảnh hưởng của những điều
trị hiếm muộn khác có thể được sử dụng của các đối tượng tham gia nghiên
cứu. Vì những lí do đó khi sử dụng thang điểm để đánh giá chất lượng
nghiên cứu rất khó, kết quả của từng nghiên cứ độc lập trong phân tích
tổng hợp đã không được lượng giá bằng những tiêu chuẩn chất lượng. Do
đó, có thể có những bất tương đồng về phương pháp luận (methodology) của
các nghiên cứu làm ảnh hưởng đến kết quả của phân tích tổng hợp.
Tất cả nghiên cứu đều cung cấp đầy đủ về
liều dùng và thời gian sử dụng metformin và CC nhưng những báo cáo về
công thức, liều lượng và thời gian sử dụng thay đổi giữa các nghiên cứu,
khi phân tích tổng hợp có sự đánh giá những vấn đề này.
Metformin sử dụng trong PCOS nên được
đánh giá bằng một thực nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng phù hợp.
Những kết quả từ phân tích tổng hợp mở hướng cho những nghiên cứu trong
tương lai đánh giá metformin sử dụng ở phụ nữ bị PCOS, sử dụng đơn thuần
hoặc kết hợp với CC, với những tiêu chí như 1) cỡ mẫu phù hợp dựa vào
sự tính toán độ mạnh của phép kiểm, 2) phân loại BN theo những đặc tính
và những tính chất phức tạp của PCOS (VD, đánh giá xem có kháng hay nhạy
CC đáp ứng khác nhau với metformin)
Sử dụng metformin trong thai kỳ
Vai trò của metformin để điều trị đái
tháo đường type II đã được công nhận. Tuy nhiên, việc sử dụng để điều
trị đái tháo đường type II trong thai kỳ và đái tháo đường do thai kỳ
(GMD) vẫn còn được tranh luận.
Về mặt lý thuyết thì đây là một chọn lựa
điều trị hợp lý, nhưng do thuốc qua được nhau và sự lo ngại được đặt ra
là tác dụng phụ trên thai nhi. Chế độ điều trị chính của GMD vẫn là ăn
kiêng, thể dục và insulin. Tuy nhiên, metformin là một điều trị hỗ trợ
hoặc thay thế cho insulin và có những lợi ích nhất định như tránh tăng
cân mẹ và tránh hạ đường huyết.
Metformin làm giảm kháng insulin qua một
số cơ chế hoạt động như giảm sản xuất glucose ở gan, giảm hấp thu
glucose, tăng dung nạp và tăng sử dụng glucose ngoại vi. Những tác dụng
phụ nặng rất hiếm khi xảy ra. Những tác dụng thường gặp là chướng bụng,
tiêu chảy, khó tiêu và buồn nôn. Nói chung, metformin là dễ dung nạp.
Thử nghiệm lâm sàng đầu tiên, so sánh metformin và insulin điều trị GMD công bố năm 2008 (Rowan JA et al., 2008),
cho thấy metformin không làm tăng biến chứng chu sinh so với insulin.
Thử nghiệm này gồm 751 phụ nữ bị đái tháo đường và sử dụng liều tới
2500mg mỗi ngày. Metformin cho thấy an toàn đối với cả mẹ và thai nhi.
Hiện tại những nghiên cứu theo dõi lâu dài vẫn đang thực hiện. Metformin
có những ưu điểm rõ ràng do dùng dạng viên uống thuận tiện hơn nhiều so
với dạng tiêm của insulin. Trong một vài năm gần đây, sử dụng metformin
trong thai kỳ đã trở nên rộng rãi với những kết quả tốt (Hyer SL et al, 2009).
Hiệp hội đái tháo đường trong thai kỳ
của Úc vẫn chưa khuyến cáo sử dụng metformin trong thai kỳ. Tuy nhiên,
khuyến cáo này sẽ được cập nhật vào cuối năm 2010. Hiệp hội đái tháo
đường của Anh Quốc đã khuyến cáo sử dụng metformin kết hợp hoặc thay thế
insulin trong thai kỳ (London, 2008). Một số bệnh cảnh lâm sàng sau đây dẫn chứng vai trò của metformin.
Trường hợp 1: Một phụ nữ 32 tuổi bị PCOS
và giảm dung nạp đường đã cố gắng để có thai trong 3 năm. Gần đây bà ta
bắt đầu sử dụng metformin 500mg 2 lần/ngày và sau đó phát hiện đang có
thai 6 tuần. Bà ta thắc mắc không biết có nên tiếp tục dùng metformin.
- Metformin đã được nghiên cứu rất nhiều trong cộng đồng phụ nữ bị PCOS, đã có rất nhiều dữ liệu an toàn cho thấy không làm tăng nguy cơ gây dị tật thai (Palomba S et al, 2009).
- Metformin làm giảm tỉ lệ sẩy thai ở phụ nữ bị PCOS (Palomba S et al, 2009).
- Metformin làm giảm sự kháng insulin và giúp rụng trứng ở phụ nữ bị PCOS (Palomba S et al, 2009).
- Kiểm soát tốt nồng độ đường huyết trong giai đoạn sớm của thai kỳ có ý nghĩa sống còn nhằm mục đích giảm nguy cơ gây dị tật thai (Palomba S et al, 2009).
- Kết luận: trong trường hợp này, metformin nên được sử dụng tiếp.
- Metformin là một chọn lựa hợp lý nếu người bệnh từ chối insulin (Palomba S et al, 2009).
- Người bệnh nên được tư vấn rằng có tới 50% phụ nữ cần thêm insulin để kiểm soát đường huyết (Rowan JA et al,2008).
- Người bệnh cũng nên được khẳng định rằng hiện nay đã có những dữ liệu cho thấy metformin an toàn trong thai kỳ (Rowan JA et al,2008).
- Chỉ có chống chỉ định sử dụng metformin trong thai kỳ là có thai suy dinh dưỡng trong tử cung (Hyer SL et al, 2009).
- Metformin nên được tiếp tục sử dụng trong khi chờ đợi ý kiến của chuyên gia (Simmons D et al, 2004).
- Phải chú ý là bất cứ sự thay đổi nào trong điều trị đều không được ảnh hưởng đến đường huyết đang được kiểm soát ở giai đoạn sớm của thai kỳ. Ngưng dùng metformin có thể tăng nguy cơ gây dị tật thai do đường huyết cao (Simmons D et al, 2004).
- Chất ức chế ACE/Statin/Sulphonylureas nên ngưng dùng.
- Liều lượng metformin trong sữa mẹ thấp hơn nhiều so với thông thường. Do đó không có bất cứ ảnh hưởng gì tới em bé (Hague WM, 2007; Glatstein MM et al, 2009).
- Đặc biệt, do cơ chế hoạt động của metformin, nên không có nguy cơ hạ đường huyết như những thuốc kích thích tiết insulin như sulphonylureas (Hague WM, 2007; Glatstein MM et al, 2009).
- Duy trì nồng độ đường huyết bình thường trong khi cho con bú là rất quan trọng để giảm nguy cơ béo phì ở trẻ em (Hague WM, 2007; Glatstein MM et al, 2009).
- Metformin giảm sự kháng insulin, có thể giúp kiểm soát đường huyết và giảm liều insulin (Rowan JA et al,2008; Hyer SL et al, 2009).
- Có thể cần chấm dứt thai kỳ ở 38 tuần (Rowan JA et al,2008; Hyer SL et al, 2009).
Metformin đơn thuần cải thiện được tỉ lệ
rụng trứng ở phụ nữ bị PCOS nhưng không tăng tỉ lệ có thai lâm sàng.
Dựa theo những dữ liệu đã có cho thấy kết hợp điều trị (metformin và CC)
cải thiện tỉ lệ rụng trứng và có thai sớm khi so sánh với nhóm dùng CC
đơn thuần, đặc biệt ở những phụ nữ kháng CC và béo phì. Tuy nhiên, mối
quan tâm lớn nhất của phụ nữ hiếm muộn là tỉ lệ sinh sống thì kết hợp
điều trị vẫn không cải thiện được. Hiện nay vẫn còn mối quan tâm rất lớn
về hội chứng này và phương pháp điều trị.
Mặc dù không phải là thuốc sử dụng đầu tay, nhưng metformin có một
vai trò quan trọng trọng điều trị GMD và đái tháo đường type II trong
thai kỳ. Các bằng chứng lâm sàng cho thấy metformin được sử dụng an toàn
trong thai kỳ và thời kỳ cho con bú.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét