Một kỹ thuật mới làm tăng khả năng có thai - Hỗ trợ phôi thoát màng bằng Laser
BS. Trần Huy Dũng
Khoa Hiếm muộn - BV Từ Dũ
Khoa Hiếm muộn - BV Từ Dũ
Hơn
10 năm sau khi 3 em bé đầu tiên ra đời từ kỹ thuật thụ tinh trong ống
nghiệm tại Việt Nam, nhiều phương pháp mới trong điều trị vô sinh đã
được ứng dụng tại bệnh viện Từ Dũ. Với mục đích nâng cao tỉ lệ thành
công trong điều trị, khoa Hiếm muộn - bệnh viện Từ Dũ không ngừng đẩy
mạnh công tác đào tạo và triển khai các kỹ thuật mới. Hỗ trợ phôi thoát
màng bằng laser đang được triển khai tại đơn vị chúng tôi.
Trong
một chu kỳ điều trị thụ tinh trong ống nghiệm, bệnh nhân thường trải
qua các bước: kích thích buồng trứng, chọc hút trứng, nuôi cấy phôi,
chuyển phôi, làm xét nghiệm thử thai, và theo dõi thai cho đến ngày
sinh. Có thể nói sự thành công của một chu kỳ điều trị là một chuỗi
liên kết chặt chẽ sự hoàn tất của các khâu trên. Do đó, sau khi phôi
được chuyển vào buồng tử cung, để gọi là thành công thì phôi phải làm
tổ được trong buồng tử cung và phát triển thành thai cho đến ngày sinh.
Có ba giả thuyết giải thích vì sao phôi không làm tổ được. Đầu tiên là
nguyên nhân liên quan đến yếu tố nội tại của phôi, nghĩa là chính bản
thân phôi không có khả năng làm tổ. Nguyên nhân thứ hai có thể do thiếu
các thành phần gắn kết với phôi tại nội mạc tử cung (bình thường phôi
phải gắn với các phân tử tại nội mạc tử cung này thì mới có thể làm tổ
được). Cuối cùng là phôi không thể thoát khỏi sự bao bọc của màng zona
(màng bao bọc quanh phôi) Nguyên nhân sau cùng này chính nó mang lại sự
phát triển các kỹ thuật vi thao tác nhằm hỗ trợ phôi nuôi cấy trong môi
trường ống nghiệm(Cohen và cs , 1990 ).
Sự
thụ tinh ở người xảy ra ở đoạn eo bóng của vòi trứng. Sau đó trứng đã
thụ tinh sẽ di chuyển vào buồng tử cung. Trong ống nghiệm, sự xuất hiện
2 tiền nhân trong thụ tinh bình thường xuất hiện khoảng 18-19 giờ sau
cấy tinh trùng. Đến ngày 2-3, phôi phát triển đến giai đoạn 2-4 và 8 tế
bào. Hiện tượng nén tế bào có thể xảy ra ở giai đoạn 8 tế bào khoảng
ngày 3. Biểu hiện bằng sự tăng tiếp xúc bằng cách hình thành các cầu
nối giữa các phôi bào kế cận, giảm các khoảng gian bào và đường viền mờ
đi. Ngày thứ 4 sau khi thụ tinh, có sự hình thành khoang phôi nang ở
giữa. Ngay thời điểm bắt đầu quan sát thấy khoang này là bắt đầu giai
đoạn phôi nang.
Hiện
tượng thoát màng thường xảy ra vào ngày thứ 5 hay 6, lúc này phôi đã ở
tại buồng tử cung. Ở người, hiện tượng này xảy ra tại một vùng trên bề
mặt của phôi nang. Phôi dần dần thoát ra khỏi màng trong suốt bằng
cách lồi qua một lỗ nhỏ. Hiện tượng thoát màng hoàn toàn là lúc phôi
chui ra khỏi màng trong suốt, thường xảy ra vào ngày thứ 6 hay 7.
Phôi thoát màng
Mặc
dù phôi nang người dễ nở rộng trong ống nghiệm, khoảng 20% những phôi
nang này gặp trở ngại trong vấn đề giãn nở hay chỉ dãn rộng ở một vài
chỗ hoặc không thể dãn nở hoàn toàn để thoát khỏi màng zona, cuối
cùng nang xẹp xuống và thoái hóa.
Hỗ trợ phôi thoát màng
Hỗ
trợ phôi thoát màng đã được thực hiện từ những năm đầu của thập niên
90. Đây là kỹ thuật làm mỏng hoặc tạo một lỗ thoát trên màng của phôi
nhằm cải thiện tỉ lệ có thai và tỉ lệ làm tổ của phôi. Theo Ủy ban Thực
hành của Hiệp hội các Kỹ thuật Hỗ trợ sinh sản và Hội Y học Sinh sản
của Hoa Kỳ (2005), hỗ trợ phôi thoát màng có thể mang lại lợi ích lâm
sàng đối với những người có tiên lượng kém: thực hiện IVF thất bại 2
lần, chất lượng phôi kém, lớn tuổi. Ngoài ra nhiều nghiên cứu đã cho
thấy lợi ích làm tăng tỉ lệ làm tổ cũng như tỉ lệ thai lâm sàng ở các
đối tượng: chuyển phôi trữ, màng zona dày, FSH cơ bản cao. Cho nên hỗ
trợ phôi thoát màng thường được các trung tâm hỗ trợ sinh sản trên thế
giới chỉ định trong các trường hợp sau: lớn tuổi, màng zona(màng phôi)
dày, chuyển phôi trữ, không có thai sau 3 lần chuyển phôi, FSH cơ bản
cao.
Về phương pháp thực hiện,
trước đây một kỹ thuật được thực hiện phổ biến để hỗ trợ phôi thoát
màng đó là làm thủng màng zona bằng dung dịch acid Tyrod. Dù kỹ thuật
này đã được báo cáo là có hiệu quả to lớn đối với tỷ lệ thai, nhưng nó
có nhiều điều không thuận tiện, bao gồm nguy cơ tổn thương tế bào bên
dưới màng zona, thoát màng sớm, và đòi hỏi thời gian thực hiện nghiêm
ngặt và tay nghề của người thực hiện. Kỹ thuật mới nhất và đang được
ứng dụng nhiều nơi trên thế giới đó là Hệ thống quang học laser hồng
ngoại, hiện tại cung cấp một kỹ thuật thay thế mà nó có thể khắc phục
được những cản trở của các kỹ thuật trước
Tài liệu tham khảo: - Blake DA, Forsberg AS, Johansson BR, Wikland M. Laser zona pellucida thinning--an alternative approach to assisted hatching. Hum Reprod. 2001 Sep;16(9):1959-64.
- Cohen, J. (1991) Assisted hatching of human embryos. J. In Vitro Fert. Embryo Trans., 8, 179–190.
Obruca A, Strohmer H, Sakkas D, Menezo Y, Kogosowski A, Barak Y, Feichtinger W. Use of lasers in assisted fertilization and hatching. Hum Reprod. 1994 Sep;9(9):1723-6. - Practice Committee of the Society for Assisted Reproductive Technology; Practice Committee of the American Society for Reproductive Medicine. The role of assisted hatching in in vitro fertilization: a review of the literature. A committee opinion. Fertil Steril. 2006 Feb;85(2):544-6.
Theo IVF Tu Du
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét